Khế ước hôn nhân - Mẹ lên Trời, niềm hy vọng của chúng ta
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Huệ Minh
16.8 Thứ Sáu trong tuần thứ Mười Chín Mùa Quanh Năm
Ed 16:1-15,60,63; Ed 16:59-63; Is 12:2-3,4,5-6; Mt 19:3-12
KHẾ ƯỚC HÔN NHÂN
Không khi nào hơn lúc này, những nhà xã hội học, các nhà đạo đức học, những người đứng đầu các tôn giáo, các quốc gia lại quan tâm cách đặc biệt về sự bền vững trong hôn nhân gia đình. Là tế bào của xã hội, là cộng đồng cơ bản của Hội Thánh, vai trò của gia đình luôn có tầm quan trọng mà không có tổ chức hay đoàn thể nào có thể thay thế cách hữu hiệu. Một xã hội mà đời sống hôn nhân thiếu bền vững, thì có thể nói là đang trên đà băng hoại. Chính vì thế Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dường như xoáy trọng tâm vào đời sống hôn nhân mà chủ đề chính là sự chung thuỷ trong nghĩa tình phu phụ.
Làm sao để gìn giữ sự chung thuỷ trong nghĩa tình phu thê giữa một xã hội đầy biến động và chóng đổi thay như hôm nay ? Một trong những cách thế gìn giữ sự thủy chung, trước sau như một của đời hôn nhân, đó là sống trong sự tín thác vào tình yêu. Không chỉ biết xây dựng lòng tin vào tình yêu của nhau mà còn hướng tâm trí của mình về hoa trái của tình yêu, đó là một trong những cách thế tuyệt vời để gìn giữ mối dây liên kết bất khả phân ly giữa vợ chồng. Điều gì Thiên Chúa đã liên kết thì con người không được phân ly. Sự kiện vợ chồng nên một xương một thịt đã được cụ thể hoá qua hình ảnh Thiên Chúa lấy xương sườn Ađam để dựng nên Evà. E-và như thân cây được Thiên Chúa làm cho nẩy sinh từ gốc cây A-đam; gốc cây và thân cây chỉ là một, nên A-đam và E-và cũng chỉ là một. Thế nên khi Thiên Chúa trao Evà cho Ađam, ông vui mừng mừng xác nhận rằng nàng không là ai xa lạ mà chỉ là xương thịt của mình: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. (Sáng Thế 2, 18-23)
Họ không còn phải là hai nhưng là một xương một thịt. Cái sự nên một xương một thịt này được hiện thực hóa nơi chính người con, một kết quả hữu hình của tình yêu đôi lứa. Trong hôn nhân, tuy người nam và người nữ là hai chủ vị khác nhau, nhưng họ được Thiên Chúa liên kết thành một với nhau như chim liền cánh, như cây liền cành. Họ là một như A-đam, E-và là một với nhau.
Chúng ta biết, hai trường phái Pharisêu thường không đồng tình với nhau về việc ly dị. Vì lẽ, theo truyền thống, nhóm Hilen dựa vào Đệ nhị luật (24,1) cho phép ly dị dù bất cứ lý do gì, còn phe Shammai chỉ cho ly dị vì lý do ngoại tình. Biệt phái biết đây là vấn đề hóc búa, nên họ đến để vừa hỏi vừa thử thách Chúa Giêsu.
Hôm nay, nhân việc những người Pha-ri-siêu đến gặp Chúa và thử thách Người về vấn đề hôn nhân và sự chung thủy. Những người Biệt Phái nại vào truyền thống cha ông, ở đây là Mô-sê, để biện minh cho việc người ta được quyền ly dị vợ vì những lý do mà họ thấy không thích. Còn Chúa, Chúa tuy không phủ nhận truyền thống tiền nhân, nhưng Chúa nại vào ý định của Đấng Tạo Hóa khi dựng nên giống hình ảnh của Chúa. Khi nại vào ý định của Thiên Chúa để bênh vực cho hôn nhân và sự chung thủy bất khả phân lý của nó, Chúa không phải là người trích dẫn mà chính là: Mạc khải ý định của thiên chúa với hôn nhân gia đình trong tư cách là đấng tạo thành trời đất cùng với Chúa Cha và Thánh Thần.
Chúng ta đang sống trong một thế giới, mà đời sống hôn nhân gia đình gặp quá nhiều sóng gió thử thách. Chính vì điều này, nhiều quốc gia, thậm chí tôn giáo nhân danh tự do và hạnh phúc của cặp đôi để cho phép ly dị. Họ lập luận rằng không sống được với nhau thì chia tay. Thà mất hai để được bốn. Ý họ muốn nói hai người chia tay để tìm kiếm một hôn nhân khác hạnh phúc hơn. Nhưng ai dám bảo đảm hôn nhân mới sẽ hạnh phúc. Thống kê chỉ ra rằng hơn ¾ những cặp đôi ly dị trước đó đã ly hôn. Nguy hiểm hơn, nhiều người Công Giáo hôm nay cũng chạy theo cách sống này trong hôn nhân để ly dị người mà trước Chúa, Hội Thánh, cộng đoàn Dân Chúa, cha mẹ, họ hàng đôi bên và bạn bè thân hữu, để nói lời cam kết yêu thương thủy chung với người họ yêu đến trọn đời.
Cũng qua cuộc đối thoại này, khi những đối thủ của Chúa nghĩ rằng: đời hôn nhân mà khó khăn như vậy thì tốt hơn đừng kết hôn. Đáp lại Chúa cho thấy, điều quan trọng không phải là kết hôn hay sống độc thân nhưng là vì điều gì ta chọn sống tình trạng ấy trong đời. Nếu ta bị cưỡng bức, không có tự do trong chọn lựa của mình, thì dù ta sống ơn gọi nào đi nữa, cũng không mang lại hạnh phúc cho mình và cho người. Tự do trong tình yêu và trách nhiệm với Chúa và tha nhân sẽ làm cho cuộc sống, dù hôn nhân gia đình hay độc thân vì Nước Trời vẫn có giá trị trước mặt Chúa và được Chúa chúc phúc.
Qua đây, Chúa Giêsu đã khẳng định lại cho họ biết về luật đơn hôn của hôn nhân. Một lập trường giáo lý rất cách mạng, trái ngược hẳn với luật lệ và phong tục thời đại để trở về với ý định nguyên thủy của Thiên Chúa. Bên cạnh đó, Người còn muốn nhấn mạnh đến giá trị của việc tự nguyện sống độc thân trọn vẹn để phục vụ nước Trời.
Vấn đề ly dị dường như càng ngày càng trở nên một vấn nạn và là một nỗi lo rất cấp thiết của xã hội. Có người lý luận rằng: “Hôn nhân là để sống hạnh phúc với nhau, nếu không còn hạnh phúc nữa thì sống chung làm gì cho khổ”. Nghe qua có vẻ có tình có lý, nhưng nếu quan niệm như vậy thì còn đâu ý nghĩa của gia đình, đâu là nền tảng của hôn nhân? Đó chỉ là thứ hôn nhân để tìm thú vui ích kỷ cho bản thân, chứ không nhằm yêu thương và phục vụ nhau.
Trong luật lệ, đôi khi cũng có những miễn chuẩn, nhưng đó chỉ là tạm thời chứ không được lạm dụng; và do vậy, cần luôn nhìn đến mục đích của luật để sống đúng thánh ý Thiên Chúa và Giáo hội mong muốn.
Khi sự bất trung, bất tín xuất hiện và lan tràn như chuyện cơm bữa, trở thành chuyện thường tình, thì mọi mối tương quan giữa các cá nhân cũng như tập thể chắc chắn bị gãy vỡ. Nay ký kết hôn ước, mai đường ai nấy đi thì còn gì là hôn nhân ! Nay ký hợp đồng, mai lại tùy tiện hủy bỏ thì còn gì là thương mại, bán mua ! Nay ký hiệp ước, mai lại đơn phương rút, hủy thì còn gì là quan hệ đối tác ! Tuy nhiên, cũng cần chân nhận rằng “nhân bất thập toàn”. Phận người thì khó tránh khỏi những sai lầm đáng trách hay có thể lượng thứ. Không kể các trường hợp cố tình và cố chấp, thì để gìn giữ sự thủy chung thì phía người lỗi phạm cần có sự khiêm nhu, chân thành nhìn nhận sai sót và phía còn lại cần có sự quảng đại, bao dung, tha thứ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức tính bất khả phân ly của Bí tích Hôn Nhân trong Giáo Hội. Luật này do chính Chúa đặt ra chứ không phải do con người. Hơn nữa, hình ảnh người nam, người nữ kết hợp và thủy chung với nhau diễn tả hình ảnh Đức Kitô yêu thương Giáo Hội và không bao giờ xa lìa Giáo Hội. Vì thế, nguyện ước sống chung, không phải do loài người đặt ra, nhưng chính Thiên Chúa se kết người nam và người nữ, để yêu thương, giúp đỡ nhau, sống trung thành với nhau đến trọn đời. Chỉ có cái chết của một bên mới cho phép bên kia được tái hôn mà thôi. Vì vậy, Đức Giêsu nói rõ ràng rằng: “Trong lúc mối dây hôn nhân vẫn còn hiệu lực, rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình".
************
15.8 Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Ed 12:1-2; Tv 78:56-57,58-59,61-62; Lc 1,39-56
MẸ LÊN TRỜI – NIỀM HY VỌNG CỦA CHÚNG TA
Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Va-ti-ca-nô I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời”
Chúng ta long trọng cử hành lễ Đức Maria hồn xác về trời với lòng sùng kính, giúp chúng ta trả lời những vấn nạn trên. Trước hết niềm tin của Giáo hội đối với tín điều Đức Piô XII đã xác quyết năm 1950. Chúng ta tin Đức Maria, đã được đặc ân cả hồn lần xác về Trời. Điều đó muốn nói rằng sự chiến thắng con rồng trong sách Khải Huyền hoàn tất nơi Mẹ, Mẹ về ngự bên hữu Chúa để chuẩn bị chỗ cho chúng ta như Thiên Chúa đã dành cho Mẹ.
Chúng ta tự hỏi, Đức Maria đã được rước lên Trời cả hồn lẫn xác có làm chúng ta thay đổi không?
Thánh Phaolô cho chúng ta câu trả lời: «Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc» (1 Cr 15, 20 ). Đức Giêsu sống lại, có người tin, người không tin. Nhưng, Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã sống lại thật, đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Việc Đức Maria hồn xác lên Trời là một thực tại khác: Đức Maria không phải là Thiên Chúa; Mẹ là nữ tử Israel, là một trong những thụ tạo như chúng ta, là người nữ giữa muôn vàn người nữ trên trần gian. Mẹ đã được tôn vinh, vinh quang của Mẹ liên quan đến chúng ta. Những đặc ân của Mẹ là kết quả cụ thể của ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho Mẹ và nhân loại (x. 1 Cr 15, 20-26). Mẹ được vinh hiển là nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, Con của Mẹ. Việc Đức trinh Nữ được lên trời hồn xác là sự thông phần cá biệt vào cuộc phục sinh của Con Mẹ, và tiên báo cuộc phục sinh của các tín hữu (GLCG số 966).
Đức tin không nói cho chúng ta biết điều gì về cái chết của Đức Maria. Có người cho rằng Đức Maria không chết, nhưng Đức tin nói với chúng ta rằng sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Maria được Thiên Chúa tôn vinh. Nơi Mẹ, cũng như Đức Giêsu Con Mẹ, cái chết không phải là hết, sự chết đã bị đập tan. Trái đất không còn là nơi giam hãm con người trong số phận đau thương, các tầng trời mở ra để loan báo một tương lai sáng ngời cho nhân loại. Sự chết đã bị tiêu diệt bởi sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa. Đó là niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta!
Qua biến cố này, mặc khải cho chúng ta rằng: Mẹ Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, và nếu chúng ta theo chân Mẹ, sống như Mẹ và thực hành Lời Chúa cách yêu mến, trung thành thì mai ngày cũng được lên trời hiển vinh như Mẹ. “Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG, số 966). Bởi vì “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người” (x. 1Cr 15, 23-24) cũng sẽ được phục sinh như Người.
“Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo Hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta. Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG. số 69). Mẹ Lên Trời, nhận lãnh vai trò Nữ Vương trời đất, nên hơn bao giờ hết, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại, và như thế: “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLHTCG. số 969).
Như vậy, việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác đem lại niềm hy vọng phục sinh cho tất cả chúng ta.
Mầu nhiệm Mẹ được rước lên trời cả hồn lẫn xác không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Amen.