Nhảy đến nội dung

Khiêm nhường - Yêu mến là giới răn quan trọng nhất

Thứ bảy ngày 30/10/21. (Rm11,1-2a.11-12.25-29Lc. 1,7-11). Tuần 30 TN1. Suy niệm:

Khiêm nhường.

Bài học Chúa Giêsu dạy về sự khiêm nhường hôm nay là Ngài muốn đề cao sự khiêm nhường trong chiều kích nước trời. Tin mừng thuật lại bối cảnh tại bữa tiệc ở nhà một biệt phái mời Chúa Giêsu dùng bữa, Ngài thấy có nhiều người thích chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn: "Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: "Xin ông nhường chỗ cho người này", bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: "Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên", bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc”.


Có lẽ thời Chúa Giêsu thì có sự khác biệt giữa các chỗ ngồi trong các tiệc khoản đãi khách, nên có sự tranh giành chỗ ngồi, nhưng thiết nghĩ, việc ngồi chỗ nào là do người mời đã sắp xếp, nếu có ai ngồi sai chỗ, thì chủ tiệc cũng phải điều chỉnh thôi. Hơn nữa nếu ai cũng tỏ ra khiêm nhường mà ngồi ‘mâm dưới’ thì thật là phiền cho gia chủ, phải vất vả sắp xếp lại vị trí. Như thế ở đây ta không nên hiểu nghĩa đen theo mặt chữ để giành chỗ rốt trong đám tiệc với mong muốn chủ tiệc sẽ mời mình lên 'mâm trên’, vì nếu như vậy là ta đã có ý muốn được lên chỗ nhất rồi còn gì?. Chắc chắn Chúa Giêsu không nhắm đến việc dạy dỗ nhân bản về đối nhân xử thế. Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu dùng hình ảnh ‘tiệc cưới’ chứ không phải là một bữa tiệc khác, tức là nói đến nước trời, là Giáo Hội ở trần gian. Câu nói: ‘Có ai mời’, chủ từ không rõ ràng, diễn tả mọi người được gia nhập Giáo Hội do những nguyên nhân khác nhau, người thì vừa sinh ra đã được cha mẹ cho rửa tội, kẻ thì đến khi lớn khôn hay lúc nguy tử mới được gia nhập Hội Thánh. Nhưng khi ở trong Giáo Hội, mỗi người phải sống đúng bổn phận mình, phải khiêm nhường trước Thiên Chúa, nhận mình yếu hèn tội lỗi, ở vị trí mình mà ăn năn hối cải, không được lên mặt như ‘người Biệt phái lên đền thờ cầu nguyện’ với những lời lẽ khoe khoang, kiêu ngạo với Thiên Chúa, đó là kiểu thích chọn chỗ nhất trong tiệc cưới. Những người đó sẽ bị đặt vào chỗ rốt hết. “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”. Mỗi người là chi thể trong Giáo Hội, có vị trí và vai trò khác nhau, người này là giáo dân, kẻ khác ở trong hàng giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ; người làm lãnh đạo, kẻ thì thừa hành, phục vụ… không dành chỗ của người trên, cũng không chiếm chỗ người dưới, chu toàn bổn phận trong vị trí mình, đó mới là khiêm tốn. Khiêm nhường theo lời dạy của Chúa Giêsu là sống đúng vai trò của mình, không kiêu ngạo, nhưng cũng không hạ thấp phẩm giá mình trước kẻ khác. Chính Chúa Giêsu khi tại thế, đã luôn thể hiện Ngài là Thiên Chúa cao cả, chứ có hạ thấp mình đâu? Mặc dù Ngài là mẫu gương khiêm tốn tuyệt vời, là Thiên Chúa đã nhận thân phận tôi đòi, sống kiếp người phàm, vâng phục Chúa Cha đến chịu chết trên thập giá. Bài học Ngài mới dạy cho môn đệ sống khiêm tốn như trẻ nhỏ và Ngài đã đồng hoá mình với trẻ nhỏ, đồng thời biết phục vụ người khác để làm người lớn nhất, đó là sự khiêm tốn đúng với ý Chúa Giêsu. Mẹ Maria là mẫu gương khiêm nhường, dù biết mình được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng Ngài tự nhận mình là “Nữ tỳ hèn mọn” của Thiên Chúa, Đấng đã làm cho mình những điều cao cả, chứ không phải do tự công đức của mình. Nhiều vị lãnh đạo trong Giáo Hội cũng đã lấy câu: ‘tôi tớ của các tôi tớ’ làm phương châm hoạt động. Dụ ngôn nói: ‘Chủ tiệc mời ngươi đến nói với ngươi rằng: ‘Mời anh lên chỗ này… Mời anh xuống chỗ kia’, chủ tiệc cưới nước trời là Thiên Chúa sẽ phán xử tuỳ theo cung cách ta sống ở trần gian. Thích chọn chỗ nhất cũng là loại  người tự cho mình hoàn hảo, có đủ tài đức để vào thiên đàng mà không cần đến với Chúa Giêsu, đó là những người từ chối dự tiệc cưới và còn đánh đập hoặc giết chết những người mời họ đến dự tiệc. Họ có thể là những người ‘hiền triết và khôn ngoan’ theo thế gian, họ có thể là người Do Thái, như mô tả trong bài đọc 1:

2. Trích thư thánh Phao lô gửi tín hữu Rôma: Vậy tôi xin hỏi: Chớ thì họ đã vấp chân đến nỗi ngã xuống rồi sao? Hẳn là không. Nhưng vì lỗi lầm của họ mà Dân ngoại được ơn cứu độ, để họ ganh đua với những kẻ ấy. Nếu lỗi lầm của họ làm cho thế giới nên giầu có, và sự thiếu thốn của họ làm cho Dân ngoại được phú túc, thì sự dư đầy của họ còn lợi nhiều hơn biết bao... một phần dân Israel cứng lòng mãi cho đến khi toàn thể Dân ngoại nhập giáo hội... Xét theo Tin Mừng thì họ thật là kẻ thù nghịch vì anh em, nhưng xét theo kén chọn, thì họ là những người rất được yêu thương vì các tổ phụ. Bởi vì Thiên Chúa ban ân huệ và kêu gọi ai, Người không hề hối tiếc.”. Người Do Thái đã dựa vào lề luật mà tưởng rằng sẽ tìm được ơn cứu độ, họ đã khước từ Chúa Giêsu là nguồn ơn cứu độ. Sự cứng lòng tin của họ thể hiện sự kiêu căng, không khiêm tốn để nhận ra Đấng cứu thế. Họ là những người được mời dự tiệc cưới nước trời trước hết, nhưng đã không đến hoặc là ưa chọn những chỗ nhất. Và do lỗi lầm đó, theo Phaolô, dân ngoại được đón nhận tin mừng cứu độ, chúng ta là những người dân ngoại, ‘cũng được mời’ sau người Do Thái. Nhưng dù sao, Thiên Chúa nhân từ luôn kiên nhẫn chờ đợi họ trở về, dù là kẻ trước hết đã trở nên rốt hết, nhưng cửa thiên đàng vẫn mở để đón nhận những kẻ biết sống khiêm tốn theo Chúa Giêsu. Vì ‘Thiên Chúa ban ân huệ và kêu gọi ai thì Người không hề hối tiếc’.

Chúa nhật ngày 31/10/21. (Đnl. 6.2-6Dt. 7,23-28Mc. 12,28b-34). 31TN. Suy niệm:

Yêu mến là giới răn quan trọng nhất.

1. Bài tin mừng hôm nay, khi trả lời cho câu hỏi của người kinh sư về điều nào trong giới răn quan trọng nhất, Chúa Giêsu nói: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. Chỉ có người kinh sư hỏi, nhưng Chúa Giêsu đã nói: “Hỡi Israel” là trả lời cho cả cho Israel lúc đó và Israel mới sau này, tức cho hết mọi người. Câu: “Chúa duy nhất” là căn bản cho việc tuyên xưng “Một Thiên Chúa” trong kinh tin kính. Duy nhất hay độc nhất, nhưng không đơn độc, vì Thiên Chúa có ba Ngôi. Chúa Giêsu trích dẫn từ sách Đệ Nhị Luật trong bài đọc 1 về điều luật dạy yêu mến Thiên Chúa, và sách Lêvi chương 19 câu18b về điều dạy yêu tha nhân để gộp chung lại thành giới luật yêu thương và Ngài đặt hai giới răn này có giá trị như nhau. Nhưng chúng ta có thể thắc mắc cách diễn tả: yêu hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức nghĩa là gì, nó có giống cách nói “yêu nhất” hay “yêu trên hết mọi sự” không? Cách diễn tả dài dòng này chỉ có thể hiểu qua cách yêu của chính Chúa Giêsu:


- ‘Lòng’ cách nói người Việt, đó là ‘trái tim’, ‘yêu bằng cả trái tim’: khi chết trên thập giá, trái tim Chúa Giêsu đã bị lưỡi đòng đâm thâu đến giọt máu và nước cuối cùng cũng chảy ra hết.
- ‘Hết linh hồn’: trước khi chết, Chúa  Giêsu đã nói: “Lạy Cha, con phó linh hồn trong tay Cha”.
- ‘Hết trí khôn’: Khi rao giảng tin mừng, người nhà của Chúa Giêsu đã nói: “Người bị mất trí rồi”.
- ‘Hết sức lực’: khi vác thập giá lên đồi Calvê chịu đóng đinh, Chúa Giêsu không còn sức, nên quân lính phải nhờ ông Simon vác đỡ giùm.


Như vậy, qua cuộc đời rao giảng tin mừng và cuộc khổ nạn cùng với cái chết thập giá, Chúa Giêsu đã làm sáng tỏ điều luật yêu mến Thiên Chúa trong cựu ước, và cũng từ đây, cả Israel mới, là tất cả những người Kitô hữu qua mọi thời đại, phải bắt chước cách yêu này mà thể hiện với Thiên Chúa. Khi thể hiện tình yêu Thiên Chúa qua việc cử hành các nghi thức phụng vụ trong Giáo Hội, lãnh các bí tích, sống lời Chúa hàng ngày, chúng ta có sợ bị người đời chê bai là mê tín hay điên khùng không? Có sợ bị hao tốn thời gian, sức khoẻ, tiện nghi không? Có dám can đảm tuyên xưng và làm chứng cho tin mừng đến phải hy sinh mạng sống không? Và đó cũng là thước đo việc ta thực hành giới luật yêu mến Thiên Chúa.


“Yêu thương tha nhân như chính mình”: câu này ở sách Lêvi, Chúa Giêsu giữ nguyên và nâng lên tầm quan trọng ngang với điều luật yêu mến Thiên Chúa, thành hai giới răn quan trọng nhất trong bộ luật. Yêu người khác như chính mình thì dễ hiểu, và các tôn giáo khác cũng có thể dạy như vậy. Nhưng Chúa Giêsu đã nâng điều này lên tầm cao mới, khi Ngài dạy các môn đệ: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga.13,34). Như vậy Chúa Giêsu đã gộp hai điều răn yêu mến Thiên Chúa và tha nhân là một, vì ở vế trước, ta phải thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa giống như Chúa Giêsu, thì khi yêu tha nhân cũng phải giống như Ngài đã yêu chúng ta, nghĩa là đã chết vì chúng ta. Nói cách khác, yêu Chúa và yêu thương anh em mình đều lấy quy chiếu là cách yêu của Chúa Giêsu. Có như vậy, mới có thể tóm gọn bộ luật trong hai giới răn ngắn gọn: Mến Chúa và yêu người. Yêu tha nhân giống Chúa Giêsu là phục vụ nhau, tha thứ cho nhau, là hy sinh cho nhau đến hiến mạng sống mình cho nhau. Chúa dạy: “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con hãy làm cho người ta” (Mt.7,12). Điều này thường trái ngược với cách sống của ta, đã không thi hành bác ái, phục vụ, lại còn chứa đầy lòng những thói ích kỷ, bất công, tranh chấp, ghen ghét, thù hận, nói xấu, vu khống, dối trá, lừa đảo, ước muốn điều xấu cho kẻ khác... tất cả những cái đó đều làm ta lỗi đức yêu người. “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà không thương yêu anh em mình là kẻ nói dối” (1Ga. 4,20). Như vậy khi ta không yêu thương tha nhân, thì cũng có nghĩa là ta không yêu mến Thiên Chúa. Hai giới răn không thể tách rời. Ngược lại kẻ chỉ yêu thương người khác mà không yêu mến Thiên Chúa thì là người không thuộc về Thiên Chúa, ngoại đạo. Có người đã lấy đoạn tin mừng Mathêu (25,31-46) nói về ngày phán xét, để lý luận rằng Chúa chỉ hỏi việc bác ái làm cho ‘những người bé nhỏ’ là tiêu chuẩn được vào nước trời, chứ đâu có đòi hỏi gì khác, nên sống đạo là làm từ thiện, yêu thương tha nhân là đủ rồi, không cần thực hành đạo nơi nhà thờ!? Nhiều  người ở những nước giàu đang có xu hướng này. Nếu vậy họ có khác gì người vô thần không tin Chúa? Họ mới giữ được giới răn yêu người, còn giới răn yêu Chúa không có!. Họ mới trả cho Cêza, chứ chưa trả cho Thiên Chúa cái thuộc về Ngài.

2. Bài đọc 2, tác giả thư Do Thái đã so sánh chức tư tế trong giao ước cũ với tư tế Giêsu khi Người hiến tế trên thập tự: Có nhiều người làm tư tế ... sự chết ngăn trở họ tồn tại lâu bền. Còn Đức Kitô... tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu. Bởi đó, Người có thể cứu độ cách vĩnh viễn những ai nhờ Người mà đến với Thiên Chúa, vì Người hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta... Người làm việc ấy chỉ có một lần khi hiến dâng chính mình. Vì Lề luật thì đặt những người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau Lề luật thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng tế đến muôn đời”. Việc tế lễ của Đức Kitô một lần duy nhất, mang lại hiệu quả cứu độ nhân loại cho đến muôn đời, đó là sự hiến tế của tình yêu vào Thiên Chúa Cha và yêu thương loài người, để làm hài lòng Chúa Cha và để cứu độ con người. Các loại tế lễ cũ của các tư tế không có giá trị cứu độ, dù phải lặp lại nhiều lần, vì việc thể hiện sự yêu mến Thiên Chúa của họ không qua Chúa Giêsu. Tuy việc dâng lễ tế của tư tế Giêsu chỉ một lần là đủ, nhưng lễ tế đó phải được kéo dài nơi mỗi thánh lễ trong phụng vụ Giáo Hội. Và mỗi người cũng phải đóng góp vào của tế lễ này bằng các hoạt động trong cuộc sống qua việc thực hành giới luật mến Chúa yêu người. Trong mọi sự, tình yêu mến phải là “Vì Người, với Người và trong Người” thì của lễ tình yêu đó mới được cùng hiệp dâng với lễ tế Chúa Giêsu trên thập giá, được Thiên Chúa Cha chấp nhận và trở nên có giá trị cứu độ chúng ta.

Yêu mến Thiên Chúa là nghe và thực hành lời Chúa: “Ai yêu mến Thầy thì vâng giữ lời Thầy”. Yêu ai thì muốn ở gần người đó, không gì gần gũi Thiên Chúa bằng khi nhận lãnh Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể có sẵn trong mỗi  thánh lễ hàng ngày, ta hãy đến tham dự để thể hiện lòng mến Chúa và được Chúa yêu ta, từ đó Chúa sẽ giúp ta biết cách yêu tha nhân như Chúa Giêsu yêu.

“Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).

Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta sống đúng ơn gọi trong thứ bậc mình trong lòng Giáo Hội. Chu toàn bổn phận cách tốt đẹp, không kiêu căng khoe khoang công đức, cũng không hạ thấp phẩm giá mình. Sống hiên ngang là con cái của Cha trên trời theo lời dạy của Chúa Giêsu. Đó là cách ta ngồi vào đúng vị trí trong bữa tiệc cưới của Giáo Hội. Mỗi khi dự thánh lễ ở nhà thờ cũng là dự tiệc cưới nước trời với Chúa Giêsu, ta đừng hiểu sai về dụ ngôn hôm nay mà chỉ ngồi dưới cuối nhà thờ hay ngoài sân nhà thờ khi dự lễ, mà phải đến gần bàn thờ nhất để được gần Chúa Giêsu, tỏ lòng yêu mến Ngài, đó là khiêm tốn.

Tác giả: