Lạy Chúa, xin mở mắt con ra! - Hành trình đến địa ngục và trở lại của tôi
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Lại Thế Lãng
Lạy Chúa, xin mở mắt con ra!
The Word Among Us – Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Hãy tưởng tượng điều đó phải như thế nào đối với các môn đệ vào ngày Chủ Nhật Lễ Phục Sinh đầu tiên đó. Chúa Giêsu, người đã bị đóng đinh chỉ ba ngày trước đó, bắt đầu xuất hiện với họ. Đầu tiên là với Maria Mađalena. Sau đó đến Phêrô. Rồi cho tất cả các tông đồ ngoại trừ Tôma. Và sau đó đến hai môn đệ trên đường đến Emmau. Chúa Giêsu dường như ở khắp mọi nơi!
Nhưng còn những người không phải là môn đệ của Chúa Giêsu thì sao? Chắc chắn Maria Mađalena không phải là người duy nhất trong nghĩa địa vào buổi sáng hôm đó. Không phải bất kỳ ai trong số những người đã đến thăm những ngôi mộ khác nhận ra Ngài khi Ngài xuất hiện sao? Còn những người khác đi trên đường đến Emmau hoặc ngồi ở nhà trọ nơi họ bẻ bánh thì sao? Dường như không có gì nổi bật đối với họ. Dường như Chúa Giêsu chỉ tỏ mình ra cho những người đang tìm kiếm Ngài. Và đối với một số người trong số họ, thậm chí phải mất một thời gian trước khi họ có thể nhận ra Ngài!
Trong bài viết này, chúng tôi muốn xem làm thế nào chúng ta có thể được mở mắt ra để nhìn thấy Chúa Giêsu rõ ràng hơn khi chúng ta cử hành Thánh lễ.
Tôi sẽ kéo tất cả mọi người. Chúng ta hãy làm một nghiên cứu ngắn về Kinh Thánh trong giây lát. Hãy suy nghĩ về việc Phaolô viết rằng không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa (Rm 8:39). Hãy nghĩ về lời hứa của Kinh Thánh rằng khi bạn cầu nguyện, chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa (8:16). Hãy nghĩ về cách Chúa Thánh Thần luôn luôn hoạt động, chỉ cho bạn cách yêu mến Chúa Giêsu và làm đẹp lòng Ngài (Ga 16:13). Cũng hãy suy nghĩ về cách Chúa Kitô ở ngay trong chúng ta, giúp chúng ta suy nghĩ, lựa chọn và hành động đúng cách (Ph 2:13).
Đặt tất cả các đoạn này lại với nhau, và chúng ta có được cảm giác về việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta nhiều như thế nào. Các đoạn Kinh thánh cũng cho thấy Thần khí của Ngài không ngừng hoạt động như gửi đến chúng ta hàng trăm, thậm chí hàng ngàn ý nghĩ khích lệ, nâng cao tinh thần và soi dẫn mỗi ngày. Không một ngày nào trôi qua mà Thiên Chúa không cố gắng nói chuyện với chúng ta bằng cách này hay cách khác!
Đây là một đoạn văn khác nói điều tương tự, nhưng theo một cách khác. Gần cuối sứ vụ của mình, Chúa Giêsu nói với các môn đệ , "Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12:32). Điều này cho thấy đoạn đường cực dài mà Thiên Chúa sẵn sàng đi để Ngài có thể mang chúng ta đến với Ngài. Ngài yêu thương chúng ta rất nhiều đến nỗi Ngài thậm chí sẽ cõng chúng ta khi chúng ta quá yếu đuối hoặc quá đau đớn để đến với Ngài! Và Chúa Giêsu kéo chúng ta như thế nào? Ngài không làm điều đó một cách miễn cưỡng. Không, Ngài nâng chúng ta lên và mang chúng ta với tình yêu vô điều kiện và lòng thương xót vô biên. Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn một vài câu chuyện từ Kinh thánh cho thấy Chúa Giêsu tỏ mình ra cho mọi người khi Ngài nâng họ lên và lôi kéo họ về với Ngài.
Đôi mắt mở to. Đầu tiên là câu chuyện về các môn đệ đã gặp Chúa Giêsu trên đường đến Emmau (Lc 24:13-35). Trong câu chuyện, Chúa Giêsu cùng đi với hai môn đệ trong một thời gian khi họ đau buồn về cái chết của Ngài. Cho đến khi họ cùng nhau bẻ bánh vào tối hôm đó, cuối cùng họ mới nhận ra Ngài.
Rất thường đây là trường hợp của chúng ta. Chúng ta tìm kiếm Chúa Giêsu, nhưng chúng ta không thể nhìn thấy Ngài. Chúng ta ước gì Ngài gần gũi với chúng ta, nhưng chúng ta không thể tìm thấy Ngài. Chúng ta lắng nghe những lời của Ngài, nhưng chúng ta không nghe thấy gì cả. Nhưng điều đó không bao giờ ngăn cản Ngài đến gần chúng ta.
Các môn đệ chứa đầy nghi ngờ về lời hứa của Chúa Giêsu sẽ sống lại từ cõi chết, vì vậy Ngài bắt đầu đối mặt với những nghi ngờ này. Bắt đầu với Môsê, Ngài sử dụng Kinh thánh để giải thích mọi thứ được viết về Ngài đã trở thành sự thật như thế nào. Từ từ, Ngài kéo họ về với Ngài, cho đến thời điểm bẻ bánh, khi họ cuối cùng đã sẵn sàng để tiếp nhận Ngài.
Hai môn đệ này đã nhìn thấy Chúa Giêsu. Họ chạm vào Ngàia và họ nghe thấy Ngài. Trái tim của họ thậm chí còn cháy bỏng với hy vọng và mong đợi. Nhưng nghe có vẻ tuyệt vời, họ vẫn không thể nhận ra Ngài. Họ phải nhận bánh trước—sau đó mắt họ mới mở ra.
Bí tích Thánh Thể dẫn đến phục vụ. Chúa Giêsu muốn giảng dạy tất cả chúng ta. Ngài muốn kéo chúng ta đến với Ngài. Qua Chúa Thánh Thần, Ngài muốn ban cho chúng ta những hiểu biết sâu sắc về sự khôn ngoan, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa để chúng ta có thể đảm nhận "tư tưởng của Chúa" (1 Cr 2:16). Điều này xảy ra một cách đặc biệt và mạnh mẽ tại Thánh lễ. Khi bánh bình thường được biến đổi thành Thân thể của Chúa Kitô, chúng ta có thể mở mắt ra để nhìn thấy Chúa Giêsu. Khi thể xác của Ngài đau khổ và được chia sẻ với chúng ta, thì tấm lòng của chúng ta có thể được tràn đầy với tình yêu thương và lòng thương xót của Ngài, và điều đó thúc đẩy chúng ta muốn phục vụ.
Đây chính xác là những gì đã xảy ra với các môn đệ của Chúa Giêsu trên đường đến Emmau. Màn đêm đã buông xuống vào thời điểm họ cùng nhau bẻ bánh. Họ không chỉ có một cuộc hành trình dài mà còn dành phần lớn thời gian cho cuộc trò chuyện sôi nổi, đầy thử thách. Nhiều khả năng họ đã mệt mỏi! Tuy nhiên, một khi mắt họ được mở ra, họ đã không về nhà để nghỉ ngơi. Thay vào đó, họ quay lại và ngay lập tức trở về Jerusalem. Họ tìm thấy Phêrô và những người khác và họ kể cho họ nghe về tất cả những gì đã xảy ra.
Cuộc hành trình trong đêm này minh họa một trong những công việc vĩ đại của Bí tích Thánh Thể: nó đưa chúng ta ra khỏi chính mình và buộc chúng ta phải phục vụ Chúa Giêsu. Các môn đệ tràn đầy niềm vui đến nỗi họ không thể chờ đợi để chia sẻ tin tức tốt lành của họ. Thật là một mẫu mực về công việc tuyệt vời mà Chúa Giêsu muốn làm trong chúng ta! Ngài muốn thuyết phục chúng ta rằng Ngài là Chúa phục sinh khi chúng ta bẻ bánh với Ngài. Ngài muốn mở mắt chúng ta để gặp Ngài để chúng ta cũng muốn chia sẻ tin mừng của Ngài.
Chăn dắt chiên của Ta. Câu chuyện thứ hai tương tự như câu chuyện Emmau. Đó là câu chuyện về một vụ bắt cá kỳ diệu khác. Chỉ có điều này xảy ra sau khi Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết (Ga 21:1-19). Đó là một vài ngày sau lễ Phục sinh, Phêrô và một vài tông đồ khác đang trở lại bờ sau một đêm đánh cá không có kết quả. Họ nhìn thấy một người đàn ông trên bờ hồ. Đó là Chúa Giêsu, nhưng cũng giống như đối với các môn đệ trên đường Emmau, những môn đệ này ở trong thuyền đã không nhận ra Ngài. Ngài nói với họ rằng nếu họ thả lưới một lần nữa, họ sẽ kiếm được cá. Khi họ làm theo đề nghị của Ngài, họ đã thu được rất nhiều cá đến nỗi lưới của họ gần như bị rách. Chính vào lúc đó, một trong những môn đệ nhận ra rằng đó là Chúa Giêsu.
Khi họ lên bờ, họ thấy Chúa Giêsu đã có bữa ăn sáng chờ họ. Khi họ ngồi vào bữa ăn, Chúa Giêsu đưa bánh cho họ, giống như Ngài đã làm ở Emmau và cũng giống như Ngài đã làm ở Bữa Tiệc ly. Sau đó, Chúa Giêsu đưa Phêrô sang một bên và nói với ông ba lần, "Hãy chăn dắt chiên Ta." Nhiều nhà bình luận nhìn thấy trong lệnh truyền ba lần này một dấu hiệu của Chúa Giêsu tha thứ cho Phêrô vì đã chối Ngài ba lần. Nhưng có một cái gì đó khác ở đây mà chúng ta có thể bỏ lỡ.
Trước tiên, bằng cách tỏ mình ra và sau đó cho họ ăn và sau đó bảo họ chăn chiên của Ngài, Chúa Giêsu đang nói với các tông đồ rằng “Ta luôn ở bên các con. Ta luôn sẵn sàng để nuôi dưỡng các con. Bây giờ các con đi ra và làm tương tự. Đi chăn chiên của Ta. Hãy đến với mọi người - những người nghèo và người giàu, những người có học thức và không được giáo dục, người trẻ và người già và mang họ đến với Ta.”
Lắng nghe và được tràn đầy. Bây giờ, hãy giả sử rằng hai môn đệ trên đường Ammau không hứng thú khi Chúa Giêsu bắt đầu giải thích Kinh Thánh cho họ. Điều gì sẽ xảy ra? Có lẽ không có gì đặc biệt cả. Một lần nữa, điều gì sẽ xảy ra nếu các môn đồ trong thuyền phớt lờ đề nghị của Chúa Giêsu không giăng lưới thêm lần nữa? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ nói “Chúng tôi không biết người này tại sao chúng tôi nên nghe lời ông ấy?” Họ có thể đã bỏ lỡ cơ hội quan trọng với Chúa và nhận được lời mời gọi của Ngài.
Nếu không lắng nghe cẩn thận, chúng ta có nguy cơ không nhận ra Chúa Giêsu trong bánh và rượu. Chúng ta có nguy cơ bỏ lỡ tiếng nói của Ngài trong các bài đọc Kinh thánh. Chúng ta có nguy cơ không gặp Ngài trong các anh chị em đã tụ tập để cử hành với chúng ta. Và nếu chúng ta không nhận ra Chúa hoặc tiếng nói của Ngài thì làm sao chúng ta biết được nơi giăng lưới? Khi chúng ta để mình trở nên xao lãng hoặc quá bận rộn với những lo toan và cám dỗ của cuộc sống, chúng ta có nguy cơ hạn chế những gì Chúa Giêsu có thể làm qua chúng ta.
May mắn thay điều này đã không xảy ra với hai môn đệ trên đường Emmau và nó cũng không xảy ra với các tông đồ trên thuyền. Họ chăm chú lắng nghe và làm theo lời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng muốn làm điều tương tự cho chúng ta. Ngài muốn tỏ mình ra khi chúng ta nhận Mình và Máu Ngài. Ngài muốn chúng ta cho đi tất cả những gì mà Ngài đã ban cho chúng ta.
Lạy Chúa xin mở mắt chúng con! Anh chị em thân mến, chúng ta không cần phải giống như những người trong lễ Phục sinh, những người đã không nhận ra Chúa Phục sinh. Chúng ta có Chúa Thánh Thần. Chúng ta có Giáo hội. Chúng ta có Kinh thánh. Và quan trọng nhất chúng ta có chính Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống. Chúng ta hãy xin Ngài mở mắt chúng ta và gửi chúng ta đi ra ngoài thế giới.
*************
Hành trình đến địa ngục và trở lại của tôi
Tác giả: Ida Mae Kempel – Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Bạn biết rõ bản thân mình đến mức nào? Tôi bốn mươi bốn tuổi, một người mẹ, người bà và "một người Công giáo tốt", khi tôi thuê hai tên tội phạm để giải quyết một vấn đề. Bạn có thể tự hỏi làm thế nào tôi có thể để cho mình xuống thấp như vậy. Có lẽ chúng ta không thực sự biết chính mình cho đến khi chúng ta phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng lớn.
Chồng tôi, Walter, và tôi là một cặp vợ chồng trung lưu Mỹ điển hình. Chúng tôi có ước mơ là có được an ninh và thoải mái về tài chính và chúng tôi đã làm việc chăm chỉ để biến ước mơ của mình thành hiện thực.
Thiên Chúa ư? Ngài đã ở bên lề. Chúng tôi đi dự Thánh lễ Chủ nhật và gửi con cái đến trường học trong giáo xứ. Đôi khi chúng tôi có những buổi cầu nguyện buổi tối trong gia đình; khi chúng tôi có một nhu cầu đặc biệt, chúng tôi đọc thêm kinh. Nhưng sau khi nhu cầu được đáp ứng và lãng quên, chúng tôi quên cả Thiên Chúa. Cứ như thể chúng tôi giữ Ngài trong một chiếc hộp và lấy ra bất cứ khi nào cần.
Cơn ác mộng bắt đầu. Cuộc sống tự mãn này đột ngột kết thúc vào một buổi chiều tháng Mười ấm áp, khi đứa con gái lớn của chúng tôi biến mất. Chồng nó, Tim, khăng khăng rằng nó đã bỏ trốn với một người đàn ông khác.
Điều đó là không thể. Mary Jo không chỉ biết điều và có lương tâm, nó còn hết lòng vì đứa con hai tuổi, Rachel, và sẽ không bao giờ bỏ rơi con mình. Trên thực tế, nó vừa đệ đơn ly hôn và giành quyền nuôi con gái vì Tim đã trở nên bất ổn và đe dọa. Gần như ngay lập tức, chúng tôi tin chắc rằng Tim đã giết Mary Jo.
Lo lắng rằng Tim cũng có thể giết Rachel bé nhỏ, chúng tôi đã giấu cháu đi và hành xử ngu ngốc khi Tim đến tìm cháu. Mười ngày sau, Tim kiện chúng tôi đòi quyền nuôi con. Tòa án giao Rachel cho chúng tôi chăm sóc, với một quy định: Tôi phải đưa cháu đến thăm Tim hai lần một tuần, nếu không Rachel sẽ được đưa vào nhà nuôi dưỡng. Tôi đã tuân theo, nhưng những lời lăng mạ và thù địch của anh ta khiến mỗi lần đến thăm trở thành một thử thách. "Cha xin lỗi con phải sống với những con quái vật này," Tim nói với Rachel. "Một ngày nào đó con sẽ về ở bên cha."
Tôi cầu nguyện không ngừng, cầu xin Chúa làm điều gì đó để đưa Tim ra trước công lý. Tuy nhiên, anh ta vẫn đi lại tự do, với một sự tự mãn như nói rằng, "Tôi đã phạm tội giết người và thoát khỏi tội!"
Trong khi đó, cuộc sống gia đình chúng tôi sụp đổ. Walter bắt đầu uống rượu để làm giảm cơn đau. Con cái chúng tôi chán nản và sợ hãi; chúng mất hứng thú với việc học, điểm số của chúng giảm mạnh. Về phần tôi, tôi trở nên căm ghét người đàn ông đã gây ra sự khốn khổ cho chúng tôi. Và vì dường như Chúa đã bỏ rơi chúng tôi, tôi cũng ghét Ngài.
Kẻ sát nhân trong trái tim tôi. Khi lòng căm thù tàn phá tâm hồn tôi, một mục tiêu duy nhất đã tiếp thêm sinh lực cho tôi: Tìm xác của Mary Jo để Tim có thể bị bắt! Chúng tôi lùng sục khắp bờ sông và nghĩa địa, nhìn vào những tòa nhà bỏ hoang, thăm dò các mương nước và kênh đào—tất cả đều vô ích.
Cuối cùng, trong khi tôi rên rỉ trong tuyệt vọng, có người đã đề nghị thuê những kẻ bắt cóc Tim và tra tấn anh ta cho đến khi anh ta chịu nói ra. Tôi giật mình, sau đó viện dẫn rằng đó là cách duy nhất để có được sự thật. Hai tên côn đồ mô tả cách họ sẽ đánh gẫy xương của Tim và cảnh báo tôi rằng anh ta có thể không sống sót. "Không sao " tôi nói. "Nếu anh ta không thú nhận, anh ta không đáng được sống."
May mắn, mẹ tôi biết về kế hoạch của tôi và khăng khăng yêu cầu tôi hủy bỏ ngay. Tôi đã làm như ý mẹ tôi— chỉ vì bà rất buồn, tôi sợ rằng bà có thể bị đau tim. Mẹ tôi tiếp tục thúc giục tôi: "Hãy tin vào Chúa! Nếu Ngài muốn chúng ta tìm thấy Mary Jo, chúng ta sẽ ltìm thấy! Câu trả lời của tôi là: "Chúa ư? Ngài không thể quan tâm hơn đến những gì xảy ra với chúng ta ".
Gần hai năm trôi qua trước khi Tim bị bắt. Mặc dù anh ta chưa thú nhận, nhưng bây giờ đã có đủ bằng chứng tình huống để xét xử anh ta về tội giết người. Tôi run lên vì tức giận trong suốt phiên tòa; Tôi trở nên buồn bã đến nỗi tôi cảm thấy bị bệnh.
Đến địa ngục và trở lại. Đêm trước khi bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết, tôi đã bị đánh thức bởi một cuộc điện thoại từ cảnh sát yêu cầu tôi đến nhà tù ngay. Tim đã cắt cổ tay và cố gắng treo cổ tự tử, nhưng anh ta từ chối đến bệnh viện cho đến khi được gặp và nói chuyện với tôi.
Tôi bước vào phòng giam với một ý nghĩ trong đầu: "Có lẽ bây giờ tôi sẽ biết Mary Jo đang ở đâu!" Tim nằm trên một phiến bê tông, một cánh tay che mắt. Khi tôi ngồi xuống bên cạnh, Tim bỏ cánh tay che khuôn mặt ra và nhìn tôi. Tim nói, "Nếu đây có thể là một sự an ủi đối với bà — Mary Jo đã đi rất nhanh. Cô ấy đã không bị đau đớn.”
Những lời đó đánh vào tôi như một trận mưa đạn. Thực tế về cái chết của con gái tôi đã đè trên tôi toàn bộ bạo lực, và tôi cảm thấy như thể tôi đang rơi vào miệng há hốc của địa ngục. Trong giây phút đó, tôi biết trong phần sâu thẳm nhất của con người mình rằng chỉ có Chúa mới có thể cứu tôi. Tôi nhắm mắt lại và lặng lẽ kêu lên, "Chúa ơi, xin giúp con! Xin hãy giúp con!"
Từ ngữ không thể mô tả những gì đã xảy ra tiếp theo. Khi tôi mở mắt ra, tôi thấy một thế giới hoàn toàn mới. Phòng giam tràn ngập sự hiện diện của Chúa. Tôi biết Ngài ở đó! Và đột nhiên tôi biết rằng Ngài đã ở bên tôi suốt thời gian qua, ngay cả khi tôi đang chửi bới và điên cuồng chống lại Ngài. Chúa chưa bao giờ rời bỏ tôi—không phải trong một giây phút, ngay cả khi tôi rời bỏ Ngài. Ở đó trong phòng giam giữ nghiệt ngã đó, Ngài đã trút tình yêu của Ngài một cách mạnh mẽ đến nỗi tất cả sự tức giận và cay đắng của tôi đã bị xóa hết.
Tôi nhìn Tim và thấy rằng anh ta đang run rẩy. "Cậu bị lạnh rồi! Để tôi gọi người bảo vệ lấy cho cậu một cái chăn!"
"Chắc bà rất ghét tôi," anh ta nói.
"Không, Tim, tôi không ghét cậu." Đó là sự thật. Lòng căm thù của tôi đã biến mất, hoàn toàn tan biến. Tất cả những gì tôi cảm thấy là lòng trắc ẩn và một sự bình an sâu sắc. Tôi bước ra khỏi phòng giam đó như một người khác. Tôi không biết chính xác điều gì đã xảy ra với mình, nhưng tôi biết rằng cuộc sống của tôi sẽ không bao giờ như cũ nữa.
Mọi sự đều mới mẻ. Nhiều điều đã xảy ra kể từ đêm đó. Tim bị kết tội giết người cấp độ một; anh ta ngồi tù, được thả ra, sau đó chết vì bệnh ung thư. Thi thể của Mary Jo đã được tìm thấy, và chúng tôi đã tổ chức một đám tang thích hợp cho nó. Gia đình chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình dài phục hồi và chữa lành.
Đối với tôi, sự mặc khải tuyệt vời về sự hiện diện của Thiên Chúa tiếp tục soi sáng cuộc sống của tôi. Tôi yêu Ngài ngày càng nhiều hơn; Ngài chỉ dẫn con đường của tôi, và tôi chỉ muốn ở gần Ngài. Tôi sẽ không bao giờ ngừng ca ngợi Chúa và cảm ơn Ngài vì tình yêu và lòng thương xót của Ngài!
Khi tôi chìm xuống vực sâu, Ngài đã nâng tôi lên. Khi tôi nhận thức được tiềm năng của mình về điều ác, Ngài đã cho tôi thấy tiềm năng của tôi về điều thiện. Quả thật, "Phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. " (2 Cr 5:17).