Nhảy đến nội dung

Lịch sử lòng sùng kính Thánh Tâm

LỊCH SỬ LÒNG SÙNG KÍNH THÁNH TÂM
                Lm. JBT Phạm Quốc Hưng, CSsR

   Bắt nguồn từ lòng sùng kính nhân tính Chúa Kitô
Lòng sùng kính Trái Tim Chúa Giêsu dựa trên và bắt nguồn từ lòng sùng kính nhân tính của Người. Vì vậy, lòng sùng kính này có thể nói được là đã bắt đầu ngay từ thời Chúa Giêsu với những người sùng kính Thánh Tâm nổi bật hơn cả là Mẹ Maria, Thánh Gioan Tông Đồ và Thánh Nữ Maria Mađalêna, những người đã đứng kề Thánh Giá chia sẻ nỗi đau của Chúa Kitô trong cơn hấp hối, và chứng kiến Trái Tim Cực Thánh của Người bị đâm thâu để tuôn trào suối nguồn ơn cứu độ và khai sinh Hội Thánh. 


Thánh Phaolô cũng xứng đáng với danh hiệu Tông Đồ của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Nhiều tác giả gọi ngài là một người có trái tim giống hệt Trái Tim Chúa Giêsu, vì đã được Chúa Giêsu tuyển chọn để mạc khải mầu nhiệm tình yêu của Người cho nhân loại. Chính thánh nhân đã cảm nghiệm sâu xa tình yêu Chúa Cứu Thế và được biến đổi hoàn toàn bởi tình yêu ấy. Vậy nên, ngài đã yêu mến mọi người trong Trái Tim Chúa Giêsu: “tôi trìu mến anh em hết thảy trong lòng dạ Đức Kitô” (Phil 1:8) và đã kêu gọi các tín hữu noi gương ngài mang lấy trong mình tâm tư hay Trái Tim Chúa Kitô: “Anh em hãy có nơi anh em tâm tư như đã có trong Đức Kitô Yêsu” (Phil 2:5).

Luôn hiện diện trong lịch sử Hội Thánh
    Đức Piô XII (1939-1958) trong Thông Điệp Về Lòng Sùng Kính Thánh Tâm (Haurietis Aquas 15/05/1956) tóm tắt lịch sử lòng sùng kính này như sau:
    “Chúng ta, vì vậy, biết rằng lòng sùng kính mà nhờ đó chúng ta tôn kính tình yêu của Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô dành cho con người qua dấu chỉ cao cả của Trái Tim Bị Thương Tích của Đấng Cứu Thế bị đóng đinh trên Thánh Giá không bao giờ mà hoàn toàn không được biết đến trong lòng đạo đức Kitô giáo. Tuy nhiên, những lúc gần đây, lòng sùng kính này đã được biết đến nhiều hơn và được lan tràn một cách kỳ diệu trong khắp Hội Thánh, nhất là sau khi chính Chúa mạc khải riêng bí quyết thần linh này cho một vài con cái Người, được phú ban cách dồi dào những tặng ân thiên quốc, và tuyển chọn họ như những sứ giả và những tiền hô cho lòng sùng kính này.


    “Thực ra, luôn có những tâm hồn hiến thân đặc biệt cho Thiên Chúa, những người noi gương Mẹ Thiên Chúa, các Tông Đồ và các Giáo Phụ gương mẫu của Hội Thánh, thờ lạy, cảm tạ và yêu mến nhân tính cực thánh của Chúa Kitô, đặc biệt các thương tích gây ra nơi Thân Xác Người trong cuộc Thương Khó lành thánh của Người”.

   Linh dược cho thế giới thời sau hết
    Trong hạnh Thánh Gertrude (1256-1302) có thuật rằng: Trong một thị kiến, thánh nữ thấy Thánh Gioan Tông Đồ hiện ra với người, đầu tựa vào Trái Tim Chúa Giêsu như trong bữa tiệc ly năm xưa. Thánh Gertrude hỏi Thánh Gioan: “Lạy Thánh Tông Đồ đã được phúc tựa đầu vào Trái Tim Chúa, vì sao trong Phúc Âm của ngài không tỏ cho mọi người biết Trái Tim đầy tình yêu và chất chứa ơn phúc?” Thánh Gioan đáp: “Tôi viết Phúc Âm để ghi lại đời sống của Chúa Giêsu và ơn cứu chuộc của Người. Còn Trái Tim Chúa, Người chờ cho đến khi thế gian ra khô khan tội lỗi, mới tỏ cho mọi người để nhờ những công nghiệp ấy thế gian được trở lại”.


    Như vậy, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu chính là linh dược Chúa muốn ban cho Giáo Hội và nhân loại để chữa trị căn bệnh tội lỗi cực kỳ nghiêm trọng của thế giới trong thời đại hôm nay. Coi thường và chểnh mảng việc thực hiện và cổ võ lòng sùng kính này là bỏ qua một phương thế tuyệt đối cần thiết và hữu hiệu để canh tân Hội Thánh và thế giới hôm nay.

   Các thánh Giáo Phụ và lòng sùng kính Thánh Tâm
    Lòng sùng kính Thánh Tâm của các thánh Giáo Phụ như Thánh Irenaeus (120-202), Thánh Justin (c. 166), Thánh Ambrose thành Milan (339-397), Thánh Jerome (347-419), Augustino (354-430), và Thánh Cyril thành Alexandria (370-444) đã được nhận thấy nơi cảm hứng của các ngài khi suy niệm về nguồn nước sự sống hay nguồn mạch tình yêu tuôn trào từ cạnh sườn của Chúa Giêsu. 


Các Giáo Phụ hiểu rằng Thần Khí đã được đổ xuống trên nhân loại vì Đấng đầy tràn Thần Khí đã hiến tế Trái Tim của chính Người. Chính nhờ hành động hiến tế này, Hội Thánh cùng với các bí tích chứa đựng ân sủng đã tuôn trào từ Trái Tim Chúa Giêsu như một công trình của Chúa Thánh Linh. Đây chính là chân lý căn bản nuôi dưỡng đời sống tu đức và thần bí của Giáo Hội thời các Giáo Phụ.
 

   Vì vậy, lòng sùng kính Thánh Tâm thời Giáo Hội sơ khai thường được coi như là việc chú giải và suy niệm lời Phúc Âm Thánh Gioan Jn 7:37-39 như sau: 
“Vào ngày cuối cuộc lễ, một đại lễ, Đức Giêsu đứng dậy mà hô lên rằng: Ai khát thì hãy đến với Ta, và hãy uống kẻ tin vào Ta! như Kinh Thánh đã nói: Tự lòng Ngài có những sông tuôn chảy nước sinh sống. Điều ấy, Ngài nói về Thần Khí các kẻ tin vào Ngài sẽ lĩnh lấy, vì Thần Khí chưa có, bởi Đức Giêsu chưa được tôn vinh” (Jn 7:37-39). 


Ý tưởng của các Giáo Phụ cho rằng Giáo Hội như Evà Mới được phát sinh từ  cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Giêsu như Ađam Mới được dựa trên Phúc Âm Thánh Gioan Jn. 19:33-37. Nước và Máu tuôn ra từ cạnh sườn Chúa Giêsu được coi là biểu tượng của Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể, hai bí tích tối cần để làm phát sinh và nuôi dưỡng đời sống ơn thánh của các tín hữu.


“Đến bên Đức Giêsu, họ thấy Ngài đã chết, thì không đập bể ống chân Ngài, nhưng một người lính lấy đòng đâm cạnh sườn Ngài, và lập tức có máu và nước chảy ra. Người trông thấy đã làm chứng--và chứng của người là chứng xác thực, và người biết là đã nói thật--ngõ hầu cả anh em nữa cũng tin. Các điều ấy đã xảy ra là để cho lời Kinh Thánh nên trọn: Không một xương nào của Người sẽ bị giập. Lại còn lời Kinh Thánh khác nói: Chúng sẽ trông lên Người chúng đã đâm” (Jn 19:33-37).

Lòng sùng kính Thánh Tâm được tiếp tục phát triển
Trong Thông Điệp Về Lòng Sùng Kính Thánh Tâm, Đức Piô XII kể ra một số vị thánh nổi tiếng trong Giáo Hội về việc thực hiện và quảng bá lòng sùng kính Thánh Tâm. Đó là Thánh Bonaventura (1217-1274), Thánh Albert the Great (1260-1280), Thánh Gertrude (1256-1302), Thánh Catherine thành Siena (1347-1380), Chân Phước Henry Suso (d. 1295), Thánh Peter Canisius (1521-1597), Thánh Francis de Sales (1567-1622), Thánh John Eudes (1601-1680). 


Đức Piô XII cũng nhắc đến việc Lễ Kính Thánh Tâm được cử hành công khai lần đầu tiên vào ngày 20-10-1672 với sự phê chuẩn của các giám mục nuớc Pháp. 


Thánh Margarita Mary Alacoque (1647-1690) được Đức Piô XII nhìn nhận là người có vị trí chính yếu trong việc cổ động lòng sùng kính Thánh Tâm như sau:
 

   “Trong số những người đã cổ võ lòng sùng kính tuyệt hảo này, Thánh Margarita Maria Alacoque chiếm một chỗ danh dự chính yếu. Được bốc cháy bởi lòng nhiệt thành lớn lao với sự trợ giúp của vị linh hướng của ngài là Chân Phước Claude de la Colombiere (đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 31/05/1992), ngài đã thành công một cách lạ lùng đối với các tín hữu trong cố gắng làm cho lòng sùng kính này, thật phong phú về những phúc lộc siêu nhiên, được thiết lập và phân biệt rõ ràng với các hình thức đạo đức Kitô giáo khác bởi bản tính đặc biệt của những động tác mến yêu và đền tạ của nó”.
 

   Các dòng tu được biết đến nhiều về việc cổ động lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu là Dòng Biển Đức, Dòng Đaminh, Dòng Thăm Viếng và Dòng Tên.


    Thánh John Eudes là người đã soạn lời nguyện dùng cho Lễ Thánh Tâm năm 1668. Lời nguyện này cũng đã được chính thức dùng vào Lễ Thánh Tâm ngày 20-10-1672.


    Từ năm1690 đến năm 1740, Tòa Thánh đã nhìn nhận và khích lệ việc sùng kính Thánh Tâm qua việc cho phép thành lập hơn 700 hiệp hội có mục đích cổ võ lòng sùng kính Thánh Tâm.
 

   Năm 1758, Thánh Anphong-Liguori (1696-1787), Tổ Phụ Dòng Chúa Cứu Thế,  gửi cho Đức Thánh Cha Clement XIII (1758-1769) Tuần Cửu Nhật Kính Thánh Tâm do ngài biên soạn. Thánh nhân cũng ủng hộ cố gắng nồng nhiệt của Cha Joseph Francois Galliffet, SJ trong việc xin Tòa Thánh cho thiết lập Lễ Thánh Tâm trong Giáo Hội Hoàn Vũ. 
Ngày 06-02-1765, Đức Clement XIII chuẩn nhận yêu cầu của các giám mục Balan cho phép Lễ Thánh Tâm được cử hành tại Balan và trong các Hiệp Hội Kính Thánh Tâm (chính Đức Clement XIII cũng là một hội viên). Bộ Phụng Vụ xác nhận rõ hơn quyết định này của Đức Thánh Cha vào ngày 11-05-1765.

Lễ Thánh Tâm và Lễ Chúa Kitô Vua được thiết lập cho Giáo Hội hoàn vũ
Ngày 23-08-1856, qua sắc lệnh của Bộ Nghi Lễ, theo yêu cầu của các giám mục Pháp và hầu hết các giám mục khắp thế giới, Chân Phước Giáo Hoàng Piô IX đã chính thức cho thiết lập Lễ Thánh Tâm trong Giáo Hội Hoàn Vũ và khuyến khích việc dâng mình cho Thánh Tâm. Lễ Thánh Tâm hàng năm được cử hành trọng thể vào Thứ Sáu sau Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, đúng như yêu cầu của Chúa Giêsu trong những lần hiện ra với Thánh Nữ  Maria Magarita.   

 
Ngày 02-04-1899, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII (1878-1903) đã phê chuẩn Kinh Cầu Trái Tim Chúa Giêsu để dùng cho Giáo Hội hoàn vũ như hình thức chúng ta có hiện nay. Và ngày 25-05-1899, ngài ban hành Thông Điệp Annum Sacrum để dâng hiến toàn thể nhân loại cho Thánh Tâm Chúa. Trong thông điệp này này, ngài ca ngợi lòng sùng kính Thánh Tâm là lòng sùng kính trổi vượt nhất và hy vọng việc dâng hiến thế giới cho Thánh Tâm sẽ đem lại những lợi ích phi thường và bền vững cho nhân loại. Ngài cũng khuyến khích các tín hữu dâng mình cho Thánh Tâm vì “bất cứ danh dự, sự tôn kính hay tình yêu mến nào dành cho Trái Tim Thần Linh này thực sự là dâng tặng chính Chúa Kitô”. Ngài gọi thông điệp này là “hành động cao trọng nhất của triều đại Giáo Hoàng của tôi”, một thông điệp chuẩn bị cho nhân loại bước vào thế kỷ 20.
Cuối Năm Thánh 1925, Đức Piô XI (1922-1939) ban hành Thông Điệp Quas Primas để thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua cho Giáo Hội Hoàn Vũ và liên kết lễ này với lòng sùng kính Thánh Tâm.

Sự cần thiết của việc đền tạ Thánh Tâm
Ngày 09-05-1928, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã ra Thông Điệp Miserentissimus Redemptor nói về sự cần thiết phải thực hành việc đền tạ Thánh Tâm. Trong thông điệp này ngài nhấn mạnh rằng việc đền tạ Thánh Tâm là bổn phận đòi hỏi mọi Kitô hữu phải thực hiện. Lòng sùng kính Thánh Tâm được diễn tả như một “sự tổng hợp của toàn bộ đạo giáo của chúng ta” (totius religionis summa), nếu được thực hiện “sẽ rất chắc chắn dẫn chúng ta đến việc biết Chúa Kitô một cách thân mật và sẽ làm cho tâm hồn chúng ta yêu mến Người cách dịu dàng hơn và kết thân với Người một cách quảng đại hơn”.


Đức Piô XI cũng chỉ ra những nhu cầu khẩn cấp của thời đại đòi hỏi các tín hữu phải thực hành việc đền tạ Thánh Tâm như sau:
 

A.    Về phía xã hội bên ngoài:
- các nhà lãnh đạo và các chính phủ công khai tấn công Giáo Hội
- các tu sĩ hiến thân phụng sự Thiên Chúa bị bách hại
- nhân quyền và thần quyền bị lật đổ
- những sự tấn công nặng nề về đức trong sạch nơi giới trẻ đã được thực hiện 
- sự chối đạo đã trở thành phổ biến
 

B.    Về phía bên trong Giáo Hội:
- có sự coi thường kỷ luật và truyền thống của Giáo Hội
- có sự  xúc phạm đến tính cách thánh thiêng của hôn nhân
- việc giáo dục trẻ em đã được đặt trên những lý thuyết sai lạc
- nhân đức đoan trang đã thực sự bị quên lãng
- chủ nghĩa duy vật đã trở thành một khát vọng không thể kiềm chế
- thẩm quyền của Lời Chúa bây giờ đã bị khinh thị cách công khai.
 

Trong thế kỷ 21 hiện nay, nhu cầu đền tạ Thánh Tâm càng thêm khẩn thiết trước sự lan tràn của tội ác phá thai; sự phổ biến của các hành động ngừa thai nhân tạo, triệt sản, ly dị ngay cả nơi phần đông các gia đình Công Giáo; sự thiếu xác tín hay bất phục giáo huấn chân thực của Hội thánh ngay cả trong hàng ngũ giáo sĩ, tu sĩ.
    
Thông Điệp Về Lòng Sùng Kính Thánh Tâm
Ngày 15-05-1956, nhân kỷ niệm 100 năm Chân Phước Giáo Hoàng Piô IX thiết lập Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu cho toàn thể Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Piô XII ra Thông Điệp Về Lòng Sùng Kính Thánh Tâm (Haurietis Aquas) dạy về nền tảng đức tin và căn bản Thánh Kinh của lòng sùng kính Thánh Tâm, bản chất cũng như sự cần thiết và lợi ích lớn lao của lòng sùng kính này.


    Trong thông điệp này, Đức Piô XII nhấn mạnh rằng lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa được Giáo Hội nhìn nhận và nhiệt liệt cổ võ không phải vì đã được mạc khải riêng cho Thánh Margarita Maria, nhưng vì lòng sùng kính này hoàn toàn phù hợp với bản chất của Kitô giáo, thực chất là đạo của tình yêu. 


    Ngài viết: “Vậy nên, thật hiển nhiên, những mạc khải được tiết lộ cho Thánh Margarita Maria đã không thêm gì vào đạo lý Công Giáo. Ý nghĩa của những mạc khải ấy dựa vào điều này, Chúa Kitô--khi biểu lộ Thánh Tâm Người một cách ngoại thường và đặc biệt--muốn kêu gọi tâm trí con người chiêm ngắm và tôn kính mầu nhiệm tình yêu rất thương xót của Thiên Chúa dành cho loài người”.
    Đức Piô XII cũng chỉ ra ý nghĩa căn bản của lòng sùng kính Thánh Tâm như sau:


    “…Chúng ta sẵn sàng hiểu rằng lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu cốt yếu là lòng sùng kính đối với tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta qua Chúa Giêsu và đồng thời cũng là tình yêu làm sống động tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa và con người. Hay, nói cách khác, lòng sùng kính này được hướng tới tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta để ta thờ lạy Người, cảm tạ Người và suốt đời noi gương Người”.


    Cũng trong thông điệp này, Đức Thánh Cha Piô XII đã cho thấy lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu là tinh hoa và tổng hợp của tất cả mọi lòng sùng kính cần thiết và lành mạnh khác trong Giáo Hội như việc suy tôn Thánh Giá, việc tôn sùng Thánh Thể và lòng biệt kính Đức Mẹ.

   Lòng sùng kính Thánh Tâm trong Giáo Hội hôm nay
 

   Có lẽ lòng vì sùng kính Thánh Tâm chưa được thực hiện đầy đủ như lòng Chúa lòng muốn, nên Chúa đã tiếp tục gửi đến nhân loại sứ điệp khẩn cấp của tình yêu nồng cháy của Thánh Tâm Người qua một số linh hồn ưu tuyển trong thế kỷ XX. 
Chúng ta có thể kể đến ba sứ giả nổi bật của Thánh Tâm là Chị Bêninha Consolata (1885-1916) người Ý thuộc Dòng Thăm Viếng, Chị Josefa Menendez (1889-1923) người Pháp thuộc Dòng Thánh Tâm và Thánh Maria Faustina Kawalska (1905-1938) người Ba lan thuộc Dòng Nữ Tu Đức Mẹ Thương Xót.


Và chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều điều hữu ích để gia tăng lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu qua các sứ điệp của những linh hồn ưu tuyển này.


Sứ điệp của Thánh Tâm gửi qua Chị Bêninha có thể đọc được nơi cuốn Tình Dịu Dàng Chúa Giêsu; qua Chị Josefa Menendez nơi cuốn Tiếng Gọi Tình Yêu--Thông Điệp Gửi Thế Giới; và qua Thánh Maria Faustina Kawalska nơi cuốn  Nhật Ký của Lòng Thương Xót Chúa nơi Tâm Hồn Tôi (Diary--Divine Mercy in My Soul). 


Trong tất cả những sứ điệp này, cũng như trong những gì Chúa Giêsu mạc khải cho Thánh Margarita Alacoque, Chúa đã thiết tha kêu gọi con người đừng tiếp tục xúc phạm đến Thánh Tâm qua các tội ác của họ, đừng dửng dưng và vô ơn trước tình yêu thương xót vô biên của Thánh Tâm Chúa Giêsu nơi Thánh Thể, hãy tín nhiệm tuyệt đối nơi lòng thương vô biên của Người để hoán cải đời sống, vươn lên sự thánh thiện và tận hưởng ơn cứu độ. 


Với những ai muốn trở nên bạn thiết của Thánh Tâm, Chúa kêu mời họ hãy quảng đại trong việc vui lòng đón nhận thật nhiều hy sinh đau khổ để hiệp nhất với các đau khổ của Chúa trong cuộc Thương Khó mà góp phần cứu rỗi các linh hồn. Chúa  kêu gọi mọi người, nhất là những ai đã dâng mình cho Chúa, siêng năng sốt sắng tôn thờ Trái Tim Sống Động của Người trong Bí Tích Thánh Thể để đền tạ Thánh Tâm. 
Năm 1907, Cha Mateo Crawley-Boevey, SS.C.C. (1875-1960) đã cổ động việc gia tăng các giờ chầu Thánh Thể và khởi xướng Phong Trào Tông Đồ Tôn Vương Thánh Tâm trong Gia Đình như một phương thức canh tân đức tin và đời sống hôn nhân gia đình trong Giáo Hội và thế giới hôm nay.


Tất cả các vị giáo hoàng hiện đại--Đức Piô XII (1939-1958), Thánh  Gioan XIII (1958-1963), Thánh Phaolô VI (1963-1978) và Thánh Gioan-Phaolô II (1978-)--có thể nói được đều là các vị giáo hoàng của Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Cha Gerard Gagnon, CSsR (c. 1994) và Cha Giacôbê Đào Hữu Thọ, CSsR (1917-1984) đã góp phần rất lớn vào việc cổ võ lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu tại Việt Nam, qua các việc giảng dạy của các ngài cũng như việc các ngài thành lập và phát triển hoạt động của Hội Liên Minh Thánh Tâm. Cha Giacôbê còn mở 61 lớp Chí Tâm tại Dòng Chúa Cứu Thế Sàigòn để giúp mọi người khám phá tấm lòng của Chúa Giêsu và sống kết hợp với Thánh Tâm.


Một khi chúng ta đã hiểu biết bản chất, sự tuyệt đối cần thiết, những ích lợi lớn lao và lịch sử của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta được Trái Tim Chúa Giêsu mời gọi thiết tha để noi gương Mẹ Maria, cùng Mẹ, nhờ Mẹ và với Mẹ để trở nên tri kỷ, tông đồ và chiến sĩ của Thánh Tâm. Như vậy, chúng ta sẽ tiếp tục viết lên những trang tình sử tuyệt vời của chính mỗi người với Thánh Tâm trong lòng Hội Thánh.