Lòng chai dạ đá
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- JM. Lam Thy ĐVD.
LÒNG CHAI DẠ ĐÁ (CN XIV.TN-B)
Hiện nay, không ít các lễ hội, các không gian văn hóa tâm linh bị xâm hại một cách vô thức do sự thiếu ý thức của khách hành hương. Không ít điều chướng tai gai mắt xảy ra như cơm bữa ở nhiều lễ hội, hay các khu di tích văn hóa là nơi cần sự tôn nghiêm, trân trọng. Ấy cũng bởi vì đa số khách hành hương đều là những người chỉ đến viếng những nơi tôn nghiêm vì tò mò hoặc vì muốn khoe bộ vó sang trọng, cái vỏ bề ngoài lòe loẹt, chưng diện như một người giàu có, thế lực. Họ không đến những nơi thờ phương Thiên Chúa với một lòng tin. Họ chính là những kẻ được ngôn sứ Ê-dê-ki-en mô tả: “Bấy giờ Đức Chúa phán với tôi: Hỡi con người, hãy đi đến với nhà It-ra-en và nói với chúng những lời của Ta… Nhưng nhà It-ra-en không muốn nghe lời ngươi, bởi vì chúng không muốn nghe lời Ta: quả thật cả nhà It-ra-en đều mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá… Ngươi đừng sợ chúng, có phải giáp mặt chúng cũng đừng khiếp, bỏi vì chúng là nòi phản loạn.” (Ed 3, 4-8).
Họ là những kẻ “lòng chai dạ đá, mở miệng ra là ngạo mạn khinh đời. Rầm rập tới, kìa chúng đã bao quanh, mắt trừng trừng, như muốn quật con xuống đất, thật giống loài sư tử chực nuốt sống ăn tươi, hệt như con mãnh thú rình rập ở bụi bờ.” (Tv 17, 9-12). Quả thật họ “lòng chai dạ đá không chịu hối cải, và như vậy họ càng làm cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa chồng chất trên đầu, trong ngày Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và biểu lộ phán quyết công minh.” (Rm 2, 5). Chính Đức Giê-su đã nói thẳng vào mặt họ là những kẻ “lòng chai dạ đá” (“Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?" Họ hỏi thế là để thử Người. Người đáp: "Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì?" Họ trả lời: "Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ". Đức Giê-su nói với họ: "Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông.” – Mc 10, 2-5).
Tâm lý chung của con người là cứ “trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo miếng lòng mới ngon”, truy tìm lý lịch dòng dõi “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” để mà … làm quen, bắt mánh, kết thân này nọ. Cái bản tính chuộng vẻ bề ngoài ở đâu thì không biết, chớ còn ở Việt Nam thì thấy rõ lắm. Hễ mở miệng ra là “miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”, “một kẻ làm quan, cả họ được nhờ”. Cứ thấy “sang” là y như “bắt quàng làm họ”. Từ đó sinh tật cố tô vẽ cái vẻ bề ngoài cho hào nhoáng để che bớt đi cái “tẩy” bên trong (“Tốt phô ra, xấu xa đậy lại”). Chưa hết! Chẳng những chuộng vẻ bề ngoài, mà còn ‘vọng ngoại’ nữa kia! Anh em trong nhà chia sẻ, bảo ban nhau, thì chẳng ai nghe ai, chẳng ai nhường ai, và anh nào cũng muốn "ăn trên ngồi trốc, quyền lực đầy mình”; đến khi hữu sự phải nhờ người ngoài, nhờ hàng xóm phân xử, thậm chí đưa nhau ra toà, lúc bấy giờ mới bừng tỉnh thấy mình “trắng tay" (“Giấc Nam Kha khéo bất bình, bừng con mắt dậy thấy mình tay không!” – “Cung Oán Ngâm Khúc” – Nguyễn Gia Thiều).
Cũng xuất phát từ tâm lý đó nên mới nảy sinh quan niệm "Gần chùa gọi bụt bằng anh”, "Bụt chùa nhà không thiêng”. Điều này có thể nhìn thấy nơi Chúa Giê-su trong một lần về thăm Na-da-ret (CN XIV/TN-B – Mc 6, 1-6). Người đã đi rao giảng khắp nơi (từ Ga-li-lê tới Giê-ru-sa-lem, Pa-let-tin, Ca-phac-na-um và nhiều nơi khác), nơi nào đặt chân đến, Chúa Giê-su cũng được công chúng đón tiếp nồng nhiệt, trầm trồ khen ngợi vì những lời giảng dạy hết sức ấn tượng, những phép lạ hết sức thuyết phục của Người. Nhưng đến khi về quê hương bản quán thì sự tình lại đổi khác hẳn. Dân làng Na-da-rét, quê hương của Chúa Giê-su, đã có thái độ hết sức thờ ơ, lãnh đạm. Họ không thèm để ý đến cách giảng dạy khôn ngoan, thông thái của Người, mà chỉ chú ý đến dáng vẻ bề ngoài của một chàng thanh niên bình thường con bác thợ mộc Giu-se và bà nội trợ Maria chất phác hiền lành.
Họ bộc lộ bản tính "trông mặt mà bắt hình dong" bằng những lời lẽ khinh bỉ: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?" (Mc 6, 2-3). Cái tâm lý chuộng vẻ bề ngoài bước đầu hình thành một "thiên kiến", đó là một cách nhìn lệch lạc, không đúng, thiếu khách quan. Từ thiên kiến dần dần trở thành một lăng kính cố hữu (“định kiến”) để nhận xét, đánh giá nhân vật, sự kiện. Lăng kính đó chính là một "thành kiến" bất di bất dịch, khó lòng gột rửa (Theo từ nguyên, “định kiến” hay "thành kiến" có nghĩa là: Ý nghĩ cố định về người hay vật, xuất phát từ cách nhìn sai lệch hoặc dựa trên cảm tính và thường xuyên có chiều hướng đánh giá thấp).
Một khi đã có thành kiến về một vấn đề, một sự kịên hay một nhân vật nào đó, thì khó lòng "xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi" cho được. Nó bám chặt vào tâm trí đến gần như trở thành bản năng. Cũng chính vì cái thành kiến đè nặng trên lương tri dân làng Na-da-ret làm cho họ không tin vào những lời giảng dạy hết sức thuyết phục của một Đấng có thẩm quyền, khiến cho "Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó" (Mc 6, 5). Mới thoạt nghe tới đây, chắc ai cũng nghĩ rằng với quyền năng của Thiên Chúa thì điều "không thể" cũng sẽ trở thành "có thể", chẳng có việc gì Người không làm được. Vậy tại sao Đức Giê-su Thiên Chúa lại không làm được phép lạ tại đó? Vấn đề cũng không đến nỗi khó trả lời. Thực ra, Đức Ki-tô đã "giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền" thì Người cũng làm được phép lạ ở bất cứ nơi nào, trong bất cứ trường hợp nào. Sở dĩ Người không làm phép lạ nào tại Na-da-ret, bởi vì Người thấy rõ là "họ không tin", mà một khi họ đã cứng lòng không tin thì dù Người có làm bao nhiêu phép lạ cũng vô ích mà thôi.
Mấu chốt vấn đề chính là ở điểm này: Người bệnh – nhất là những chứng bệnh thụôc lãnh vực tâm linh – dù có tìm được những thầy thuốc siêu đẳng, cũng không thể khỏi bệnh nếu không có lòng tin vào thầy thuốc đó. Khi người thầy thuốc đó là Thiên Chúa thì cũng vậy thôi. Không thiếu những trường hợp vì yếu (hoặc không có) lòng tin, đến khi vấp ngã thì đã muộn. Nhìn vào gương các Tông đồ tiên khởi thì đủ rõ: Các ngài tin Thầy mình là Đấng quyền năng có thể làm cho các ngài "trở thành những kẻ lưới người như lưới cá" nên mới theo Người. Theo Người và tuyên xưng Người là Đấng Mê-si-a – là Thiên Chúa thật – nhưng trong lòng vẫn bán tín bán nghi, và phải chờ đến khi được Thầy ban Thần Khi (vào ngày Lễ Ngũ Tuần) mới trở thành những người sẵn sàng chết cho đức tin của mình. Trong 12 môn đệ tiên khởi thì lại có một Giu-đa It-ca-ri-ốt vấp ngã vì không có lòng tin; chẳng những thế, khi phạm tội đã được Thầy "nhìn lại" mà vẫn không hối cải, để cuối cùng lại phạm thêm một tội tày trời: Huỷ hoại công trình tạo dựng của Thiên Chúa (treo cổ tự tử – Mt 27, 1-5).
Vấn đề đã sáng tỏ như lời dạy của Thánh Au-gus-ti-nô: "Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài". Vì thế cho nên "Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin." (Mc 6, 5-6). Với những người dân làng bình thường không tin vào Đức Ki-tô thì còn có thể hiểu được, nhưng đến cả những người bệnh được chữa khỏi mà cũng không tin thì quả thật... hết biết! Và vì thế mới khiến cho một vị Thiên sai là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật phải "lấy làm lạ" và cuối cùng chua chát thốt lên: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." (Mc 6, 4). Thế đấy!
Thực ra, cũng không phải chỉ riêng dân làng Na-da-rét mới có cái nhìn sai lệch về Thiên Chúa; mà kể cả dân tộc Do Thái từ trước đó hàng mấy thế kỷ cũng nổi loạn chống lại Thiên Chúa vì cái thành kiến đè nặng trên lương tri họ ("Người phán với tôi: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá." – Ed 2, 3-4). Ôi chao! Cứ tưởng đó chỉ là truyện cổ tích xảy ra cách đây hơn 20 thế kỷ, nào ngờ ở cái thời đại văn minh tiến bộ vượt bậc ngày nay vẫn còn không ít cảnh "Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá" vì cái thành kiến "made in Nazareth, made in Israel" sống nhởn nhơ trên khắp địa cầu.
Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng cái bản tính cố chấp hẹp hòi của loài người đã định vị trong con một cách nhìn lệch lạc, không đúng đắn, thiếu khách quan về con người, sự vật hay sự kịên. Cái thành kiến ấy khiến con nhìn một công trình bằng gỗ thì chỉ chú ý đến nước sơn choáng lộn bên ngoài, mà không cần biết đến chất lượng gỗ bên trong; con đã quên mất rằng "tốt gỗ hơn tốt nước sơn". Hơn thế nữa, khi nhìn anh em, con chỉ chú ý đến vẻ đẹp tô son trét phấn, áo quần loè loẹt bên ngoài, mà quên mất rằng "cái nết đánh chết cái đẹp", quên mất rằng con người cũng chẳng khác một bông hoa "hữu xạ tự nhiên hương" (có mùi thơm thì tự nhiên có hương toả bay, còn nếu đã không có hương thơm thì cái sắc hoa bên ngoài cũng trở thành vô vị mà thôi). Cái thành kiến ấy đã khiến con gặp không ít trường hợp "tốt mã dẻ cùi" (ví kẻ chỉ có cái đẹp trau chuốt bề ngoài giống như loài chim "dẻ cùi tốt mã, dài đuôi" ), và chỉ đến lúc đó, con mới thấy sáng mắt, mới thấy "bừng con mắt dậy, thấy mình... vô duyên!"
Ôi! Lạy Chúa! Khi nhìn ra được những sai lầm, con rất muốn tẩy rửa tâm hồn cho sạch mọi vết nhơ của những thành kiến đã trở thành định kiến trong con, con rất muốn thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ, nhận định thiển cận của con. Nhưng, lạy Chúa ! Con lại cũng biết rằng con người của con thật mỏng giòn yếu đuối nhưng lại rất bảo thủ, khó lòng mà "xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi" cố hữu được. Vì thế, cúi xin Chúa ban Thần Khí khơi dậy Lửa Mến trong lòng con, soi sáng và hướng dẫn con tẩy rửa con người trong Nước và Thánh Thần như Lời Chúa đã hứa năm xưa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
JM. Lam Thy ĐVD.