Nhảy đến nội dung

Lòng Chúa Thương xót trong đời sống-Kỳ 10

LOẠT BÀI LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG - KỲ 10

ĐI CON ĐƯỜNG ĐAU KHỔ LÀ BẢO CHỨNG NIỀM TIN SAY MÊ VÀO THIÊN CHÚA

Trong cuốn Dieu ne veut pas la souffrance des hommes (Thiên Chúa không muốn sự đau khổ cho con người), Jean-Claude Larchet gợi ý khá rõ về nguồn gốc của đau khổ. Trước hết, tác giả khẳng định rằng “đau khổ là điều nằm ngoài ý định của Thiên Chúa và Ngài không phải là tác giả của đau khổ. Điều đó được thể hiện trong biến cố tạo dựng từ ban đầu và ngay cả sau cuộc sáng tạo điều đó cũng không được lặp lại ” (x.Jean-Claude Larchet, Dieu ne vuet pas la souffrance des hommes, Cerf Paris 1999, trang 11.) Là con người, ai mà không biết đến đau khổ và không phải nếm mùi khổ đau. Vì, như đã nói trên, đau khổ đã gắn liền với thân phận con người. Chào đời với tiếng khóc không dứt là đã bắt đầu nếm mùi đau khổ; lớn lên, con người càng phải đối mặt với nhiều cay đắng chua chát hơn. Đau khổ là một thực tại liên tiếp diễn ra trong cuộc sống, ngự trị khắp nơi và ngay trong mỗi người. Thực tại đau khổ là vô cùng đa dạng, chẳng hạn: thiên tai, hạn hán, lũ lụt, đói nghèo, khủng bố, chiến tranh, môi trường bị tàn phá, những chính sách và thể chế chính trị hà khắc, tàn bạo, v.v. Mức độ đau khổ của mỗi người cũng khác nhau: người thì đau khổ tạm thời, kẻ thì đeo đẳng suốt đời. Tác động của đau khổ có thể là thể lý, tâm lý, đến tâm linh và đời sống luân lý. Cũng có những đau khổ do chính con người tạo nên cho nhau, như: bất công hay đàn áp, bị bóc lột và bị bỏ rơi. Có những nỗi đau do bệnh hoạn, tật nguyền, do tuổi già, sức yếu. Có những đau khổ do nghiện ngập, do tật xấu hay do thất bại nản chí.Đau khổ thật là muôn hình vạn trạng, như Victor Hugo thừa nhận: “Đau khổ cũng đa dạng như con người. Một người chịu đựng những gì mình có thể.”

Thánh Phao-lô viết: “Tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. (x. 2 Cr 4, 10). Ngay cả trong những thời khắc đen tối, buồn thảm và đau thương nhất, ngay cả khi bị lăng mạ sỉ nhục cáo gian, Thánh Phao-lô vẫn chọn con đường của cầu nguyện của kiên nhẫn và đặt niềm hy vọng nơi Thiên Chúa; chứ không chạy theo trò lừa dối của những thứ phù vân: “Anh Chị Em chẳng biết sao: trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh Chị Em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng. (x. 1 Cr 9, 24). Thánh Phao-lô đã không để cho mình bị đánh lừa bởi cái hào nhoáng bề ngoài của những thứ phù vân, nhưng đã mở ra đón nhận niềm vui đến từ Thiên Chúa. Như trong Cựu Ước, ông Tobit chuyên làm việc lành phúc đức là đi chôn xác kẻ chết. Nhưng rồi ông bị mù, và có lần do vợ chồng chưa hiểu ý nhau, mà bà vợ đã la mắng. Ông Tobit có con trai là Tobia. Vợ của Tobia là Sara. Cô Sara cũng chịu nhiều đau khổ. Trước khi lấy Tobia, cô Sara đã có nhiều đời chồng, các người chồng ấy đều chết, nhưng lý do không phải do Sara. Tobit và Sara đều phải chịu nhiều thử thách và bị sỉ nhục, nhưng cả hai đều đặt niềm hy vọng nơi Thiên Chúa.

Đau khổ vốn tồn tại như là thứ phiền não hiện sinh tất nhiên trong kiếp con người, không phải do Thiên Chúa. Đau khổ sẽ dẫn đến phiền muộn, làm giảm sút lòng tin của con người vào Thiên Chúa, nhưng đối với những người trung tín, đó là cách để hy vọng nhiều hơn, gắn bó nhiều hơn với Thiên Chúa. Đau khổ, phiền muộn, bất ưng ý đồng hiện hữu và liên kết chặt chẽ trong việc chi phối đời sống con người. Ít có ai trong chúng ta can đảm đối diện với thực tế nhưng thường lại trốn chạy trước áp lực của phiền não bằng mấy thú vui phù phiếm nơi giác quan bên ngoài. Thiên Chúa đã trao cho chúng ta sức thiêng của Thần Khí để chúng ta biết cách chế ngự những xung động bất an ấy bằng chính sức mạnh của sự nhẫn nại, kiên trì, trầm tĩnh và sáng suốt.

Mỗi người, trong hoàn cảnh nhất định nào đó của hiện sinh đều có kinh nghiệm từng trải những thời khắc khó khăn cùng cực. Có thể kinh nghiệm ấy chưa phải là tột độ, nhưng cũng đủ để chúng ta biết được kinh nghiệm ấy có cảm giác thế nào, thế nào là bóng tối, là đau buồn, là khó khăn, chúng ta biết những điều ấy. Khi đối diện với sự khủng hoảng, cô Sara từng nghĩ: “Sẽ không bao giờ người ta nhục mạ được cha tôi và nói với người : 'Ông chỉ có một cô con gái yêu quý, thế mà vì bạc phận, cô đã thắt cổ tự tử !' Như vậy, tôi sẽ làm cho tuổi già của cha tôi phải buồn phiền đi xuống âm phủ. Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi, để đời tôi không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa “(x. Tb 3, 10). Lời cầu nguyện lên Thiên Chúa đã làm cho lòng cô tràn trề hy vọng. Khi gặp cay đắng, người gắn bó với Thiên Chúa sẽ thốt lên với niềm hy vọng: đây là cuộc sống của tôi, nào chúng ta hãy tiến bước, tiến bước trong cầu nguyện và cầu nguyện. Lòng Thương xót có thể cứu nguy trong những đêm đen khi ta đem hết tâm tình tin tưởng đặt vào trong lời cầu nguyện. Sara và Tobit đều đau khổ nhưng biết kiên nhẫn trong cầu nguyện, vì hy vọng Thiên Chúa sẽ lắng nghe với lòng thương xót mênh mông trời biển. Niềm hy vọng đến từ Thiên Chúa đã chắp cánh cho con tim họ vươn lên cao, vượt qua những khổ đau trong những khi buồn bã chán nản và đen tối nhất. Cả hai đã đúc kết nguyên tắc chế ngự đau khổ: cầu nguyện, kiên nhẫn và hy vọng. Vì, thời gian chịu thử thách và đau khổ, Thiên Chúa đã đoái nhìn đến họ bằng lòng thương xót, Chúa đã sai thiên thần Rafael đến chữa lành.

Trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống, chuyển động khác nhau trong tâm hồn giữa thời điểm khó khăn thách đố, cần thiết biết bao tâm tư cầu nguyện, tính kiên nhẫn và một chút hy vọng. Nếu không có niềm hy vọng vào Thiên Chúa đầy lòng thương xót, đau khổ chỉ cho ta chuốc lấy ê chề và sự trống rỗng hư vô. Tín thác vào Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện cho chúng ta biết rằng có Chúa luôn đồng hành và Ngài sẽ sớm ban niềm vui cho chúng ta. Lịch sử Hội thánh đã chứng nghiệm và đã sống điều ấy: chờ đợi trong cầu nguyện và hy vọng Chúa sẽ cứu. Và rồi Thiên Chúa đã cứu thoát qua mọi nỗi gian truân.

Hình ảnh ông Gióp trong Kinh Thánh cũng là biểu tượng được đề cập đến với nhiều phương diện của đau khổ. Ông Gióp là một tín hữu rất giàu có, đạo hạnh và ngay thẳng hằng kính sợ Thiên Chúa và tránh xa điều ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Cuộc sống của ông Gióp theo cách nhìn của người đời là đầy dẫy phước lộc: Con cái đông đúc, vui khỏe, thuận hòa; tài sản dư dật, đến nỗi mọi người dân Đông phương đều nhìn nhận ông là người giàu có nhất vùng, và cũng cho ông là người có phước nhất vùng. Ông luôn luôn giữ mình và cả con cái mình trong sạch, ngay thẳng trước mặt Đức Chúa Trời; ông kính sợ Đức Chúa Trời đến độ thường xuyên dâng tế lễ chuộc tội cho con, ngay cả cho những tội chỉ mới manh nha trong tư tưởng. Thật là một nhân cách toàn vẹn.

Khi đối diện với đau khổ, con người có khuynh hướng than thân trách phận, trách cả Thiên Chúa, thậm chí có người còn chối bỏ đức tin.  Trong đau khổ, Gióp cũng phẫn uất như ai: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao ? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê ?” Hoá ra ông Gióp chẳng kiên nhẫn chút nào! Cứ như sự khôn ngoan bình dân thời đó thì khổ đau là hình phạt của những điều dữ người ta đã phạm. Nhưng xét trong lương tâm, ông có làm gì xấu đâu ? Vậy tại sao ông phải gánh chịu số phận long đong thế này : Con cái chết hết, của cải tiêu tan, mình đầy ghẻ chốc, bạn bè xa lánh, cả đến người vợ thân yêu cũng không tiếc lời khiển trách: “Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi ? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi” (x. G 2,9). Vợ ông Gióp đã không hiền lành chấp nhận số phận.

Đau khổ của ông Gióp không do chính ông tạo nên, cũng không phải do ý định Thiện Chúa. Lực lượng đối kháng với Thiên Chúa đã cố tình tạo ra những đau khổ cho ông Gióp để đánh hạ lòng tin của ông vào Thiên Chúa, để rồi qua những biến cố tang thương, đau đớn có thật trong cuộc đời sẽ tích lũy trong tâm hồn ông sự bất lực đến vô minh, không thấu hiểu được ý định sâu kín nội tại trong huyền nhiệm cuộc đời và mất lòng kiên nhẫn với Thiên Chúa, đánh giá sai lầm về ý định của Thiên Chúa đối với con người. Nếu trong hoàn cảnh đau khổ tột cùng như ông Gióp, như Tobit, Sarah và các tổ phụ, có một kiến thức chân chính và trí tuệ thích ứng về lòng thương xót của Thiên Chúa, thì mỗi Ki-tô hữu đều có khả năng nhận thức thực tướng chiều sâu của các đau khổ đến từ những hiện tượng ngoại giới đều là điều kiện cho tâm hồn chưa rèn luyện để tiến xa trong việc tìm kiếm một luồng sinh lực mới, xoa tan đau nhức của phiền não trong kiếp sống con người. Mặc dầu ông Gióp thoạt đầu có thể không hiểu lý do tại sao tất cả những điều đó xảy ra cho ông, thế nhưng ông ý thức mạnh mẽ tất cả đều nằm trong sự an bài của Thiên Chúa, ông chỉ có việc chấp hành trong một giai đoạn cuộc đời với niềm tín trung.

Khó khăn, thử thách, bách hại, tội lỗi và đau khổ là những sự kiện thường xảy ra trong cuộc đời nhân loại mà Thiên Chúa luôn luôn nhìn thấy và hiểu biết. Chính niềm xác tín đó giúp chúng ta chịu đựng mọi cảnh huống để vượt qua cảm nghĩ cô đơn, bị bỏ rơi, hay than trách, tuyệt vọng quẫn trí như vẫn thường xảy đến trong những giờ phút bị thử thách. Trong thử thách, nhiều lần ta có thể than vãn rằng chẳng có ai biết, chẳng ai cảm thông, sẻ chia những gì đang xảy ra cho chúng ta. Thế nhưng Thiên Chúa biết tất cả, Người không bỏ rơi chúng ta. Đức Ki-tô đã trải nghiệm điều đó, thánh Phao-lô đã viết rất rõ trong thư Do thái. “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần”. (x. Dt 4, 15-16).

Thiên Chúa có những kế hoạch hết sức nhiệm mầu trong đời  sống ta khi cho phép những thử thách xảy ra. Khi ta bị thử thách, thánh Giacôbê khuyến khích chúng ta xin Chúa ban ơn khôn ngoan: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (x. Gc 1, 5). Đức Kitô đã trải qua thử thách: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (x. Dt 5, 8). Thiên Chúa muốn thăng tiến linh hồn ta, muốn đưa ta đến những chân trời mới thênh thang hơn, tốt lành hơn. Thử thách như phương tiện tu sửa mỗi ngày để kích thích sự thăng tiến.

Người  góa phụ  ở Xa-rép-ta, thuộc Xi-đôn, trong Cựu Ước kể lại: bà chỉ còn ít bột làm bánh để ăn rồi chờ chết, thế nhưng vẫn không ngần ngại chia sẻ phần bánh với ngôn sứ Êlia, và rồi bà được Chúa làm phép lạ cho “hũ bột không vơi, vò dầu chẳng cạn” (x. 1 V 17,14). Nhưng sau đó, đứa con trai của bà ngã bệnh trầm trọng đến nỗi nó tắt thở. Bà trách với ông Êlia: “Hỡi người của Thiên Chúa, việc gì đến ông mà ông tới nhà tôi để nhắc lại tội tôi, và làm cho con tôi phải chết?” (x. 1 V 17,18). Bà biết ông Êlia là “người của Chúa” nhưng bà vẫn trách ông, vì bà chạnh lòng do tội mình và bà rất thương con mình. Thấy chạnh lòng thương, ông Êlia nói: “Bà đưa cháu cho tôi”. Ông bồng lấy đứa trẻ bà đang ẵm trong tay, đem lên phòng trên chỗ ông ở, và đặt nó nằm lên giường. Rồi ông kêu cầu Chúa: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con! Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết sao?” (x. 1 V 17,20). Ông có “cách lạ” là ông nằm lên trên đứa trẻ ba lần, đồng thời kêu cầu Chúa: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này lại trở về với nó!” (x. 1 V 17,21). Và rồi Chúa đã nghe tiếng ông kêu cầu, cho hồn vía trở về với đứa trẻ, và nó sống. Ông Êlia liền bồng đứa trẻ từ phòng trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó và nói: “Bà xem, con bà đang sống đây!” (x. 1 V 17,23). Bà không ngạc nhiên khi thấy con mình chết rồi mà được sống lại vì bà có đức tin mạnh mẽ. Bà nói với ông Êlia: “Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Đức Chúa do miệng ông nói ra là đúng” (x. 1 V 17, 24). Mẹ góa, con côi, Thiên Chúa đã chạnh lòng thương mà làm cho họ hai phép lạ, nhưng nguyên nhân chính là bà biết tín thác vào Thiên Chúa.

Tác giả Thánh vịnh nhắc nhở việc  tạ ơn Chúa khi được cứu thoát khỏi cảnh khổ là điều cần phải làm: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, con kêu lên cùng Chúa, và Ngài đã cho con bình phục. Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” (x. Tv 30, 2-4). Với kinh nghiệm bản thân, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (x. Tv 30, 5-6).

Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa yêu thương và động lòng trắc ẩn. Chỉ cần mỗi người chúng ta biết phó thác đời mình cho Chúa, tin tưởng vào Ngài thì tất cả những gì chua chát nhất của cuộc đời Chúa sẽ biến thành ngon ngọt. Nơi Thiên Chúa, lòng thương xót như suối nguồn triền miên, Người không muốn con người chịu đoạ đày trong đau khổ đến chết, nên đã sai Con Một của mình xuống thế làm người để thể hiện trọn vẹn lòng thương xót ấy. Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô là mạc khải đích thực về lòng thương xót Chúa. Mạc khải duy nhất, trung thực nhất, gần gũi nhất về Bản chất của Thiên Chúa. Philipphê Tông đồ đã bộc lộ khao khát của con người: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện." Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha"? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. (x. Ga 14, 8-11).

Thiên Chúa nhìn thấy những nỗi cùng khổ của bao nhiêu thân phận con người “tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn” (x. Mt 9, 36). Hình tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu, là cách biểu lộ tuyệt hảo, điển hình nhất về mặt con người tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Trái Tim Chúa Giêsu là biểu tượng nhắc nhớ tuyệt vời về lòng nhân từ của Thiên Chúa, đến để chia sẻ đau khổ với con người. Đây không phải là một biểu tượng tưởng tượng, mà là một biểu tượng thật sự biểu thị trọng tâm, nguồn mạch, mà từ đó ơn cứu độ và lòng thương xót  tuôn trào cho toàn thể nhân loại.

Lòng thương xót của Thiên Chúa trong đau khổ của con người không chỉ là một cảm xúc, mà là một sức mạnh mang lại sự sống, phục sinh con người. Chúng ta đọc được trong giai thoại về bà goá làng Naim về nghĩa cử thương xót cụ thể của Thiên Chúa trong đau khổ hiện sinh (x. Lc 7,11-17). Cùng với các môn đệ của mình, Đức Giêsu đến Naim, một ngôi làng tại Galilê, ngay đúng lúc một đám tang đang đi qua. Người ta đem một thanh niên, đứa con duy nhất của một bà goá, đi mai táng. Ngay lúc đó, cặp mắt của Đức Giêsu nhìn thẳng vào người mẹ đang đầm đìa nước mắt. Thánh sử Luca nói: “Và khi Chúa thấy bà, Người động lòng cảm thương bà” (c. 13). “Lòng trắc ẩn” này là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, đó là lòng nhân từ, nghĩa là thái độ của Thiên Chúa khi tiếp xúc với cảnh khốn cùng của con người, với cảnh cơ cực của chúng ta, với nỗi đau khổ của chúng ta, với nỗi thống khổ của chúng ta. Từ “lòng trắc ẩn” trong Kinh Thánh làm cho chúng ta nhớ lại dạ của người mẹ. Thật thế, người mẹ cảm thấy một phản ứng đặc biệt khi đối diện với sự đau khổ của con cái mình. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa cũng yêu chúng ta như thế đó.

Đâu là kết quả của tình yêu, của lòng nhân từ này? Đó là sự sống! Đức Giêsu nói với bà goá làng Naim: “Thôi đừng khóc nữa” và rồi Người gọi cậu con trai đã chết và đánh thức cậu dậy như thể từ một giấc ngủ (x. c. 13-15). Chúng ta hãy suy nghĩ về điểm này. Điều này thật đẹp biết bao: lòng nhân từ của Thiên Chúa mang lại sự sống cho con người, cho con người sống lại từ trong cái chết. Đừng sợ tiến lại gần Người! Người có một quả tim nhân hậu! Nếu chúng ta cho Người thấy những vết thương nội tâm của chúng ta, những tội lỗi và đau khổ của chúng ta, thì Người sẽ luôn yên ủi và tha thứ cho chúng ta. Người có lòng nhân từ thuần tuý đã chia sẻ một cách sâu xa nhất cho con người trong giờ phút thương khó và tử nạn của Đức Giê-su Ki-tô.

Tuy rằng, niềm tin vào Thiên Chúa cần phải được minh chứng cách cụ thể trong mọi hoàn cảnh sống, nhưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, và thong suốt mọi sự (x. Lc 12, 7), Người yêu thương quan phòng, hiện điện cùng ta trên mọi nẻo đường đời ta, và tất cả những gì Người muốn và sắp đặt hay để xảy đến đều ích lợi và tốt lành cho ta (x. Gb 1, 12). Thiên Chúa có thể gửi cho ta một sứ điệp qua một nghịch cảnh. Người muốn ta hồi tâm hay thử thách để củng cố lòng tin của chúng ta. Mỗi lần thất vọng hay lo âu thái quá trước các nghịch cảnh và khó khăn hay khổ đau là thiếu lòng tin lòng nhân từ của Thiên Chúa. Sẵn sàng chấp nhận tất cả và vui sống trong mọi hoàn cảnh với tâm tình cảm mến tạ ơn là cách đáp trả chí tình với Lòng Thương xót của Thiên Chúa.

TTMV. Gp. MT

22/06/2017

N.V.T