Nhảy đến nội dung

Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa Và Sự phán Xét Của Con Người - Tinh Thần Khoan Nhượng

Thứ Năm Tuần 24 Thường Niên Năm B

Tin Mừng Lc 7:36-50:

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA VÀ SỰ PHÁN XÉT CỦA CON NGƯỜI

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về lòng thương xót của Thiên Chúa và sự khác biệt giữa phán xét của con người và cái nhìn của Chúa.

Lòng thương xót của Thiên Chúa là một trong những chủ đề trọng tâm trong đức tin Công giáo. Từ thời Cựu Ước đến Tân Ước, chúng ta thấy rõ Thiên Chúa luôn hiện diện để tha thứ, chữa lành và đưa con người trở về với Ngài. Thiên Chúa, với tình yêu vô biên, không bao giờ bỏ rơi con người, ngay cả khi họ phạm tội nặng nề. Ngược lại, phán xét của con người thường mang tính chủ quan, hạn hẹp và khắt khe. Chính sự khác biệt giữa lòng thương xót của Chúa và sự phán xét của con người đã giúp chúng ta hiểu thêm về tình yêu tuyệt đối mà Ngài dành cho nhân loại.

Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta đến với lòng thương xót của Ngài, bất kể chúng ta là ai hay đã phạm bao nhiêu lỗi lầm. Trong Tin Mừng, nhiều lần Chúa Giêsu đã cho thấy Ngài là hiện thân của lòng thương xót và tha thứ. Một ví dụ rõ ràng là câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (Ga 8:1-11). Khi người khác muốn ném đá cô, Chúa Giêsu không lên án mà chỉ yêu cầu những ai không có tội hãy ném viên đá đầu tiên. Kết quả, không ai ném cả, và Chúa đã tha thứ cho cô, khuyên cô "đừng phạm tội nữa."

Qua đó, ta thấy rõ lòng thương xót của Thiên Chúa không dừng lại ở việc Ngài bỏ qua tội lỗi, mà còn khuyến khích chúng ta thay đổi cuộc sống, trở nên tốt hơn. Lòng thương xót của Thiên Chúa không mang tính trừng phạt, mà là sự tha thứ vô điều kiện, đem lại hy vọng và sự sống mới.

Ngược lại, con người thường có xu hướng phán xét nhau dựa trên vẻ bề ngoài, lỗi lầm hoặc hành vi. Chúng ta thường dễ dàng lên án những ai phạm tội mà không nhìn vào nội tâm, hoàn cảnh, hoặc lý do sâu xa dẫn đến sai lầm của họ. Sự phán xét của con người thường dựa trên tiêu chuẩn của xã hội, văn hóa, hay quan niệm đạo đức cá nhân, và đôi khi trở nên quá khắt khe, thiếu lòng khoan dung.

Một ví dụ rõ ràng là trong Tin Mừng Luca 7:36-50, khi người phụ nữ tội lỗi đến gặp Chúa Giêsu tại nhà Simon, người Pharisêu. Trong khi người phụ nữ đang tỏ lòng thống hối, Simon lại nhìn cô với ánh mắt khinh bỉ, chỉ vì quá khứ tội lỗi của cô. Ông chỉ thấy tội lỗi bề ngoài mà không nhìn thấu lòng ăn năn chân thành của cô. Điều này minh họa cho sự phán xét chủ quan và nông cạn của con người, trái ngược với cái nhìn của Chúa.

Thiên Chúa không chỉ nhìn thấy hành vi bên ngoài mà còn thấu hiểu lòng dạ con người. Ngài nhìn thấy cả những khát khao thay đổi, những nỗ lực dù nhỏ nhất của một tâm hồn muốn quay về với Ngài. Trong khi con người chỉ phán xét dựa trên bề mặt, Thiên Chúa nhìn thấu suốt trái tim và ý định của từng người. Điều này được minh họa rõ nét qua các câu chuyện về lòng thương xót trong Tin Mừng, khi Chúa Giêsu luôn tha thứ cho những ai đến với Ngài bằng lòng ăn năn.

Câu chuyện về người con hoang đàng (Lc 15:11-32) là một minh chứng rõ ràng. Người cha trong câu chuyện đại diện cho Thiên Chúa, sẵn sàng mở rộng vòng tay đón nhận con trai, dù cậu đã tiêu tán gia sản và sống đời phóng đãng. Người cha không phán xét hay trách móc, mà chỉ mừng rỡ vì con trai đã quay về. Trong khi đó, người anh cả lại ghen tỵ và tỏ ra bất mãn, đại diện cho cách con người thường phản ứng khi thấy người khác được tha thứ và yêu thương dù họ từng sai lầm.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu được mời đến dự tiệc tại nhà của một người Pharisêu tên là Simon. Tại đây, có một người phụ nữ tội lỗi đã đến, mang theo bình dầu thơm, khóc lóc dưới chân Chúa, lấy nước mắt rửa chân và lấy tóc mình lau, rồi xức dầu thơm cho Ngài. Simon, người Pharisêu, nhìn cảnh này và tỏ vẻ khinh bỉ người phụ nữ. Ông nghĩ rằng nếu Chúa là tiên tri, Ngài đã không để một kẻ tội lỗi chạm vào mình. Chúa Giêsu, thấu hiểu suy nghĩ của Simon, đã kể một dụ ngôn về hai con nợ, một người nợ nhiều và một người nợ ít, nhưng cả hai đều được chủ nợ tha hết. Chúa hỏi: Ai sẽ yêu chủ nhiều hơn? Simon trả lời: Người được tha nhiều hơn. Chúa khẳng định điều đó và chỉ rõ tình yêu sâu sắc của người phụ nữ đã bộc lộ qua việc xức dầu, còn Simon lại không dành cho Ngài sự tiếp đón nồng hậu. Cuối cùng, Chúa tha tội cho người phụ nữ vì tình yêu và sự ăn năn chân thành của cô.

Người phụ nữ trong Tin Mừng là hình ảnh của một tội nhân, nhưng đồng thời cũng là hình ảnh của sự khiêm nhường và lòng thống hối sâu xa. Cô đến trước Chúa với trái tim tan vỡ, khóc lóc vì những tội lỗi mình đã phạm. Hành động rửa chân bằng nước mắt và xức dầu thơm cho Chúa Giêsu biểu lộ tình yêu lớn lao và lòng biết ơn của cô đối với lòng thương xót của Thiên Chúa. Cô nhận ra sự bất toàn của mình và dâng trọn sự khiêm nhường đó cho Chúa.

Ngược lại, Simon, người Pharisêu, mặc dù là người công chính theo tiêu chuẩn xã hội, nhưng lại thiếu đi tình yêu thương và lòng thương xót. Ông tỏ ra khinh thường người phụ nữ tội lỗi và thậm chí còn nghĩ xấu về Chúa Giêsu khi Ngài tiếp nhận cô. Simon không nhận ra rằng chính mình cũng cần lòng thương xót của Thiên Chúa. Sự kiêu căng làm ông không thể nhìn thấy sự quan trọng của tình yêu và lòng tha thứ.

Chúa Giêsu qua dụ ngôn về hai con nợ đã cho chúng ta thấy rằng lòng tha thứ lớn lao đến từ tình yêu sâu sắc. Người được tha nhiều sẽ yêu nhiều hơn. Người phụ nữ, dù tội lỗi, đã được tha vì cô biết thống hối và yêu mến Chúa. Còn Simon, dù tuân giữ nhiều luật lệ, lại không có tình yêu thực sự dành cho Chúa, và điều này cho thấy lòng kiêu căng của ông đã cản trở mối tương quan chân thật với Thiên Chúa.

Điều tuyệt vời là Thiên Chúa không bao giờ từ chối ai, ngay cả những người tội lỗi nhất, nếu họ đến với Ngài bằng lòng ăn năn và tình yêu. Chúng ta có thể rơi vào tội lỗi, nhưng điều quan trọng là phải quay trở về với Chúa bằng trái tim thống hối. Chúa luôn sẵn sàng tha thứ và chữa lành.

Qua câu chuyện này, chúng ta được mời gọi xét lại thái độ của mình đối với những người xung quanh. Chúng ta có dễ dàng phán xét và khinh thường người khác vì họ không hoàn hảo hay không? Chúng ta có nhận ra rằng chính mình cũng cần lòng thương xót của Chúa như mọi người không? Chúa mời gọi chúng ta sống lòng thương xót, yêu thương và tha thứ cho nhau, như cách Ngài đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta.

Chúng ta được mời gọi học theo lòng thương xót của Thiên Chúa, đặt tình yêu và sự thấu hiểu lên trên sự phán xét. Điều này không có nghĩa là bỏ qua tội lỗi hay làm ngơ trước những sai lầm, mà là biết tha thứ và tạo điều kiện cho người khác sửa chữa sai lầm của mình. Nhìn nhận người khác không chỉ qua lỗi lầm, mà qua cả sự nỗ lực của họ để trở nên tốt hơn.

Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ và đón nhận chúng ta, bất kể tội lỗi của mình lớn đến đâu. Nhưng để được tha thứ, chúng ta cần có lòng khiêm nhường và chân thành trở về với Ngài. Đó cũng chính là lời mời gọi mà mỗi người chúng ta nên lắng nghe trong cuộc sống hàng ngày: đừng phán xét người khác quá vội, mà hãy trao cho họ cơ hội để thay đổi và yêu thương.

Lòng thương xót của Thiên Chúa vượt xa mọi tiêu chuẩn và giới hạn của con người. Ngài nhìn thấy con người qua tình yêu, sự thấu hiểu, và lòng tha thứ. Sự khác biệt giữa cái nhìn của Chúa và sự phán xét của con người nhắc nhở chúng ta rằng, chỉ có Thiên Chúa mới thấu hiểu mọi sự và Ngài không ngừng mời gọi chúng ta sống lòng thương xót, yêu thương và tha thứ như chính Ngài đã làm. Trong mọi hành động, lời nói, chúng ta cần nhớ rằng tình yêu luôn là trung tâm của mọi sự, và phán xét chỉ khiến chúng ta xa rời Thiên Chúa.

Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta rằng tình yêu và lòng thương xót vượt trên mọi sự phán xét và kiêu căng. Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ, chỉ cần chúng ta biết khiêm nhường và quay trở về với Ngài. Hãy noi gương người phụ nữ tội lỗi, dám đến với Chúa bằng trái tim chân thành, biết ăn năn và yêu mến Ngài. Đồng thời, hãy tránh xa thái độ kiêu căng của Simon, để tình yêu và lòng thương xót của Chúa thấm nhuần trong cuộc sống của chúng ta.

19.9 Thứ Năm trong tuần thứ Hai Mươi-Tư Mùa Quanh Năm

1 Cr 15:1-11; Tv 118:1-2,16-17,28; Lc 7:36-50

Tinh Thần Khoan Nhượng

Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta một vài suy nghĩ về tinh thần khoan nhượng đích thực. Chúa Giêsu là hiện thân của tinh thần ấy. Trong những quan hệ xã hội của Ngài, Ngài vốn dành ưu tiên cho người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài tìm đến với họ và nhất là ngồi đồng bàn để ăn uống với họ, nhưng Chúa Giêsu không khơi dậy cuộc đấu tranh giai cấp. Ngài không bao giờ đi với người nghèo để kêu gọi chống lại những người giàu có. Ngài đến với những người nghèo và những kẻ tội lỗi nhưng không loại trừ những người giàu có và những người đạo đức thánh thiện. Ngài chia sẻ cơm bánh với những người tội lỗi nhưng cũng không ngại ngồi đồng bàn với những người công chính.

Chúng ta thấy người biệt phái Simon được Tin Mừng hôm nay nhắc tên là một người giàu có và đạo đức, ông có thể là đại biểu cho những người giàu có và thánh thiện mà Chúa Giêsu không hề muốn loại trừ ra khỏi những quan hệ xã hội của Ngài. Chúa Giêsu kết thân với những người nghèo khổ và tội lỗi nhưng không xa cách những người giàu có và đạo đức.

Đức Giêsu được ông Pharisees tên là Simon mời ăn tiệc; đây là dấu chứng tỏ ông tôn kính Người, vì ông nghĩ Đức Giêsu có thể là một ngôn sứ (x. câu 39), hoặc ít ra Người cũng là một vị thầy du thuyết, đã có lần lên tiếng trong hội đường.

Tuy nhiên, hoàn cảnh vẫn có tính hàm hồ. Ông chủ nhà nghĩ mình là người quan trọng, ông nắm hoàn cảnh trong tay, ông không phải đánh liều gì cả: ông đã tiếp đón Đức Giêsu nhưng với một mức lịch sự tối thiểu bởi vì ông mong muốn làm vui lòng mọi người. Bằng cách mời Đức Giêsu đến ăn tiệc, ông chứng tỏ ông có tâm trí cởi mở, có khả năng để ý đến các tư tưởng mới, một con người có một trí thông minh nào đó; tuy nhiên, bằng cách bỏ qua những cách tiếp khách quen thuộc (“Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi… Ông đã chẳng hôn tôi một cái”, câu 44-45), ông luôn luôn có thể nói rằng ông đã giữ khoảng cách và chỉ làm một chuyện là ngó tới Người để nghe xem Người nói gì mà thôi.

Thái độ của ông chủ như thế hẳn đã làm cho bầu khi ra căng thẳng và nặng nề rồi; những người khác lại cũng đang trông chừng nhau và hẳn là cũng nói những chuyện chung chung để khỏi làm mất lòng ai.

Giữa tình thế ấy, một người phụ nữ đi vào, lại là “một người tội lỗi trong thành”, ai cũng biết (câu 37). Bà này bất kể các quy ước xã hội, bà không sợ hãi gì cả, bà tiến đến. Rồi bằng một cử chỉ thú nhận tội lỗi công khai, bà bày tỏ với Đức Giêsu những dấu chỉ diễn tả là quý mến, lòng biết ơn và tôn kính mà không một ai đã bày tỏ với Người trước đó: “lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người” (câu 38; x. câu 44), “lấy tóc mình mà lau” (câu 38; x. câu 44), “hôn chân Người” (câu 38; x. câu 45), “và lấy dầu thơm mà đổ lên” (câu 38; x. câu 46). Lòng biết ơn của bà chan hòa đến độ bà không ngại xõa tóc ra để lau chân Đức Giêsu, cho dù bỏ khăn và xõa tóc ra trước mặt phái nam là một sự ô nhục cùng cực. Bà đã làm như thế, vì bà quá sợ khi thấy nước mắt mình làm hoen ố chân Đức Giêsu, sợ đến mức quên những người đang ở chung quanh.

Không một ai đã dám làm một cử chỉ đánh liều; người phụ nữ này đã liều một bước lớn: Đức Giêsu sẽ làm gì, Người đứng về phía nào? Đức Giêsu lại chứng tỏ sự khéo léo mà lật ngược các hoàn cảnh. Người không bắt đầu với một lời trách; Người hành động cách cẩn thận. Người kể một dụ ngôn cho Simon: “Một chủ nợ kia có hai con nợ…” (câu 41tt), rồi đến cuối, Người hỏi ông một câu để ông nhận định. Ông đã “xét đúng” về câu chuyện, theo hình thức (câu 43): Kẻ được tha nhiều hơn, thì yêu mến nhiều hơn.

Thật ra đây là một lý luận theo số lượng. Nhưng từ đó Đức Giêsu đưa ông đến chỗ biết rằng theo cái nhìn của Thiên Chúa, và cũng từ quan điểm của sự thành thật con người, hoàn cảnh này hoàn toàn ngược lại với những gì mỗi người đang nghĩ. Ông “xét đúng” câu chuyện, nhưng ông lại xét sai những con người (người phụ nữ và Đức Giêsu). Ông có một cái bên ngoài đúng đắn, có học thức và lịch thiệp, và có một cái bên trong đối lập với người phụ nữ và Đức Giêsu. Kẻ không mời mà đến, kẻ phải thật sự xấu hổ về chính mình, kẻ không đã biết cách cư xử, chính là Simon; còn người đã xử sự đúng như hoàn cảnh đòi hỏi, đáp trả theo một cách đúng là người, đó là người phụ nữ: bà là người đã hiểu và đã nắm lấy đúng hoàn cảnh.

Nói cho cùng, từ ngữ “tình yêu” tuy không được viết ra, lại là từ ngữ trung tâm: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (câu 47). Thật ra, những người tội lỗi, những người không tin nên không mở ra với ân sủng của Đức Giêsu cũng là những người tưởng mình công chính. Đức Giêsu vẫn tiếp tục đồng bàn với họ. Như thế, có một sự lật ngược tình thế, đó là: Đức Giêsu mà người Pharisees chỉ trích vì “đồng bàn” với người thu thuế và kẻ tội lỗi, cũng là Đức Giêsu không ngại đồng bàn với những kẻ vẫn tưởng mình đàng hoàng, nhưng thật ra có con tim khép kín với tình yêu và sự tha thứ. Với cả hai bên, Đức Giêsu đều có thể nói: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32).

Cuộc gặp gỡ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của thái độ khoan nhượng của Chúa Giêsu. Chính trong một bữa tiệc được một người giàu có và đạo đức khoản đãi mà Chúa Giêsu đã gặp gỡ một người đàn bà tội lỗi nổi tiếng trong thành phố, Ngài luôn có thái độ khoan nhượng đối với mọi người.

Sự khoan nhượng là thái độ cần thiết cho mọi người bởi vì xã hội nào cũng gồm những thành phần khác biệt nhau bởi vì nhân loại gồm những con người khác biệt mà họ cần đối xử với nhau bằng thái độ khoan nhượng. Hai chìa khóa để mở cánh cửa của khoan nhượng là sự chấp nhận và cảm thông. Chấp nhận thường đi trước sự cảm thông. Chấp nhận sự khác biệt nơi người khác để dễ dàng cảm thông với họ hơn, nhưng dĩ nhiên khoan nhượng không hề đồng nghĩa với đồng lõa.

Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và tha thứ với những người tội lỗi nhưng Ngài không bao giờ nhân nhượng trước tội lỗi; Ngài khoan dung tha thứ bao nhiêu với tội nhân thì lại càng cương quyết bấy nhiêu với tội lỗi. Chính vì thế mà sự tha thứ của Ngài luôn đi kèm với mệnh lệnh: "Con hãy đi về và đừng phạm tội nữa". Với người biệt phái tên là Simon, Ngài đã kêu gọi với thái độ khoan nhượng khi để cho người đàn bà tội lỗi đến thể hiện lòng sám hối của mình bằng việc xức dầu thơm cho Ngài. Với người đàn bà tội lỗi, Ngài cho cảm nhận được ơn tha thứ. Ngài kêu gọi chúng ta: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Lời ấy bảo đảm cho chúng ta ơn tha thứ và sự bình an của Ngài, đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy sống khoan nhượng và tha thứ đối với mọi người.

Tác giả: