Nhảy đến nội dung

Lòng Xót Thương Vô Biên Của Chúa - Ý Nghĩa Của Cuộc Sống

Thứ Ba Tuần 24 Thường Niên Năm B

Tin Mừng (Lc 7, 11-17)

LÒNG THƯƠNG XÓT VÔ BIÊN CỦA CHÚA

Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giê-su động lòng thương xót bà góa thành Na-in, người vừa mất đứa con trai duy nhất. Hình ảnh một bà mẹ goá không chồng, không con, gợi lên nỗi đau khôn tả. Chúng ta được chứng kiến một trong những phép lạ cảm động và đầy ý nghĩa về lòng thương xót của Chúa Giê-su. Câu chuyện xảy ra tại thành Na-in, khi Chúa Giê-su trên đường đi cùng các môn đệ thì gặp đám tang của một người con trai duy nhất của một bà góa. Trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, mất con không chỉ là nỗi đau về tình cảm mà còn là sự mất mát về mặt bảo đảm cuộc sống. Bà đã mất đi nguồn an ủi duy nhất, người con trai là chỗ dựa duy nhất của bà. Tuy nhiên, Chúa Giê-su không chỉ đứng nhìn nỗi đau của bà, Người đến gần, và ngay lập tức, lòng thương xót của Người được thể hiện qua hành động cứu sống người con.

Câu chuyện bắt đầu với một bối cảnh đầy đau thương. Bà góa thành Na-in vừa mất đi người con trai duy nhất, người đã trở thành niềm an ủi, chỗ dựa và nguồn hy vọng cho cuộc đời bà sau khi chồng bà qua đời. Nỗi mất mát ấy không chỉ là về tình cảm, mà còn là sự mất đi người nối dõi và nguồn lực chăm sóc khi bà về già. Đối với người phụ nữ thời bấy giờ, đặc biệt là một người góa phụ, không có con cái đồng nghĩa với sự cô độc và bất lực.

Khi Chúa Giê-su gặp bà, Ngài động lòng thương xót trước nỗi đau sâu sắc này. Tình thương của Ngài không dừng lại ở sự cảm thông, mà là một tình yêu hành động. Chúa đến gần và nói với bà: "Đừng khóc nữa." Đây là lời an ủi đầy quyền năng, vì Chúa Giê-su không chỉ xoa dịu nỗi đau, mà còn chuẩn bị một phép lạ lớn lao.

Chúa Giê-su không chỉ đứng từ xa quan sát, mà Ngài can thiệp trực tiếp vào tình cảnh của bà góa. Ngài đến gần chiếc quan tài, chạm vào nó và truyền lệnh cho người thanh niên: "Hỡi người thanh niên, Ta truyền cho ngươi: hãy chỗi dậy!" Và ngay lập tức, người chết liền sống lại, ngồi dậy và bắt đầu nói. Đây là hành động thể hiện quyền năng tuyệt đối của Chúa Giê-su trên sự sống và cái chết.

Phép lạ này không chỉ là dấu chỉ về quyền năng của Chúa, mà còn là một lời khẳng định về bản chất của Ngài – Đấng mang sự sống. Chúa Giê-su không chỉ đến để an ủi những người đang đau khổ, mà Ngài còn đem lại sự sống mới, hy vọng mới cho những ai tin tưởng vào Ngài. Hành động này cho thấy rằng Ngài không chỉ là Đấng chữa lành về mặt thể xác mà còn phục sinh tâm hồn và cuộc sống của chúng ta.

Phép lạ này cũng là một biểu tượng cho sứ mạng của Chúa Giê-su: ban tặng sự sống và đem lại hy vọng cho những ai đang sống trong tuyệt vọng. Trong cuộc sống, chúng ta không ít lần đối diện với nỗi đau, mất mát và thất vọng. Đôi khi, những nỗi đau ấy dường như quá lớn, khiến ta cảm thấy mất đi mọi hy vọng.

Tuy nhiên, qua phép lạ này, Chúa Giê-su nhắc nhở chúng ta rằng Ngài luôn hiện diện, lắng nghe và hành động. Chúa Giê-su là nguồn hy vọng cho những ai tuyệt vọng. Ngài có quyền năng phục sinh cả về mặt thể xác lẫn tâm hồn, và Ngài luôn sẵn sàng đến gần chúng ta trong những lúc yếu đuối nhất.

Chúa Giê-su không chỉ là Đấng quyền năng làm phép lạ, nhưng hơn hết, Người là Đấng đầy lòng trắc ẩn và yêu thương. Động lòng thương của Chúa không chỉ là một sự cảm thông từ xa, mà là lòng thương được chuyển hóa thành hành động cứu giúp. Qua đó, Chúa muốn dạy chúng ta rằng tình yêu thực sự phải đi kèm với hành động, không chỉ là sự cảm thông hời hợt.

Khi gặp bà góa, Chúa Giê-su nói: "Đừng khóc nữa." Đây không phải là lời nói theo thói quen để an ủi ai đó trong lúc đau khổ, mà là lời nói từ trái tim yêu thương và đầy quyền năng của Đấng có thể biến đau thương thành niềm vui. Qua câu nói này, Chúa Giê-su khẳng định rằng trong mọi hoàn cảnh, Ngài có thể mang lại hy vọng, ngay cả trong những tình huống tưởng chừng vô vọng như cái chết.

Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta cũng phải đối diện với những mất mát, đau khổ, và tưởng chừng như mọi cánh cửa đã đóng lại. Nhưng Chúa Giê-su luôn đứng đó, với lời nhắn gửi: "Đừng khóc nữa," vì Ngài chính là nguồn hy vọng và ơn cứu độ. Ngài có thể biến đổi mọi sự và mang lại sự sống mới, niềm vui mới.

Qua phép lạ làm cho con trai bà góa sống lại, Chúa Giê-su không chỉ thể hiện quyền năng của mình trên sự sống và cái chết, mà còn khẳng định rằng Ngài chính là nguồn sự sống đích thực. Phép lạ này là hình ảnh tiên báo về sự phục sinh của Chúa, Đấng sẽ chiến thắng sự chết và ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài.

Trong đời sống đức tin, chúng ta không chỉ được kêu gọi tin vào quyền năng của Chúa, mà còn phải sống niềm tin ấy trong mọi khía cạnh của cuộc đời. Chúa không chỉ đến để cứu ta khỏi những khó khăn tạm thời, mà còn ban cho ta sự sống vĩnh cửu, đời sống sung mãn trong Ngài.

Khi chứng kiến phép lạ, đám đông đã tôn vinh Thiên Chúa và loan báo khắp miền Giu-đê về việc Chúa Giê-su làm. Đó là mẫu gương cho chúng ta: khi nhận được hồng ân từ Thiên Chúa, chúng ta không giữ lại cho riêng mình mà cần phải chia sẻ, loan báo niềm vui ấy đến với người khác. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi trở thành chứng nhân cho tình yêu và lòng thương xót của Chúa trong đời sống hằng ngày.

Tin Mừng nhắc nhở chúng ta về lòng thương xót vô biên của Chúa Giê-su, Đấng luôn đến với chúng ta trong những lúc khốn khó và đem lại niềm an ủi, hy vọng. Ngài là Đấng chiến thắng sự chết và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Chúng ta hãy tin tưởng và cậy dựa vào Ngài trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, đồng thời biết chia sẻ tình yêu và lòng thương xót đó với những người xung quanh.

Tin Mừng cho thấy Chúa Giê-su là Đấng đầy lòng thương xót và quyền năng. Ngài đã đến, không chỉ để đồng cảm với nỗi đau của chúng ta, mà còn để hành động, mang lại sự sống và niềm hy vọng. Chúng ta hãy đặt niềm tin nơi Chúa, biết rằng Ngài luôn hiện diện và chăm sóc mỗi người chúng ta trong những lúc khổ đau. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi trở nên hiện thân của lòng thương xót, chia sẻ tình yêu và niềm vui phục sinh của Chúa đến với những người xung quanh.

Xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương Chúa, luôn động lòng thương và hành động để mang lại sự sống, niềm vui và hy vọng cho những ai đang đau khổ. Amen.

17.9 Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mươi-Tư Mùa Quanh Năm

1 Cr 12:12-14,27-31; Tv 100:1-2,3,4,5; Lc 7:11-17

Ý Nghĩa Của Cuộc Sống

Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham dự nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm cho kẻ chết sống lại được Tin Mừng ghi lại không quá ba lần: một em bé gái con của vị kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của Marta và Maria; người thanh niên con của bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ là hồi sinh, chứ không phải là phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của những người này chỉ kéo dài được thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng trở về với bụi đất.

Thành Nain trở thành điểm hẹn giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, cùng đông đảo dân chúng. Nơi đây Chúa Giêsu làm phép lạ và an ủi một bà goá có người con duy nhất qua đời. Chúng ta học được gì từ những hành động tuyệt vời của Chúa Giêsu?

Trước tiên, Chúa Giêsu chạnh lòng thương hoàn cảnh của bà. Điểm hẹn Nain là điểm hẹn tỏ lộ lòng thương xót của Chúa đối với nhân loại. Chúa Giêsu thương xót một hoàn cảnh bi đát, và trên hết, Chúa thương xót con người. Là môn đệ và là con Chúa, chúng ta học được từ Người về tính cảm thương đối với người khác. Là con Chúa, chúng ta biết thương xót, biết cảm thông, biết xúc động và trái tim chúng ta không trở nên chai đá trước các hoàn cảnh đòi buộc chúng ta phải lên tiếng. Chúng ta giúp đỡ và thương cảm với các hoàn cảnh đau thương vì họ cần chúng ta, nhưng trên hết chúng ta làm là vì chính Chúa đã làm như vậy. Tắt một lời, Chúa mời gọi chúng ta yêu thương nhau.

Kế đến, các việc làm cụ thể mà Chúa Giêsu dành cho bà goá và người con của bà đã chết: Người an ủi bà: “bà đừng khóc nữa” ; sau đó, Người lại gần và chạm vào quan tài rồi nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” . Ta có cảm tưởng, qua những hành động này của Chúa Giêsu, Người như là chính người mẹ của người chết: nỗi đau mất con, khát khao gần bên con, tiếc thương con, mong con được sống lại. Ta có thể nói, khát khao của người mẹ là của Chúa Giêsu, nhưng người mẹ thì tuyệt vọng, còn Chúa Giêsu là hy vọng. Tình yêu của Chúa vượt lên trên cả những gì người mẹ cần, và trên cả những gì con người muốn.

Chúa Giêsu đã không đến để làm cho con người được trường sinh bất tử ở cõi đời này, đúng hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải kinh qua cái chết. Chết vốn là thành phần của cuộc sống và là một trong những chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu đến nhắc nhở cho con người. Mang lấy thân phận con người là chấp nhận đi vào cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết: "Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá". Ðón nhận cái chết và đi vào cõi chết như thế nào để cuộc sống có ý nghĩa, đó là điều Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người khi đi vào cái chết.

Một trong những cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối bỏ ý nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự sống của mình. Những cái chết như thế là lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc sống không còn ý nghĩa và như vậy không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người phát ngôn của cả thế hệ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác phẩm "Buồn Nôn": "Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống là để bảo tồn sự quí giá của chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối không có lý do gì để sống cả".

Cuối cùng, chúng ta hãy để ý đến chính hành động của người thanh niên khi Chúa Giêsu cho sống lại. Khi Chúa Giêsu cho người thanh niên sống lại thì “người chết liên ngồi lên và bắt đầu nói” . Khi nói được tức là người đó có khả năng diễn đạt chính mình (diễn đạt bằng ngôn ngữ hoặc bằng hành động), và việc nói lên được điều suy nghĩ nó diễn tả được tính cách của mình. Đức cố Hồng y, Tổng giám mục Milan, Carlo Maria Martini đã nói về đoạn này như sau: “Chúa Giêsu phục hồi khả năng của anh ta để anh ta tự nói,… quan trọng nhất là việc thủ đắc khả năng diễn đạt chính mình, và các thực tại trong đời sống, đưa chúng vào trong một ngôn ngữ giàu tưởng tượng và hiệu quả” . Ở đây, chúng ta có thể hiểu thêm rằng, chúng ta không biết người thanh niên nói gì, nhưng hẳn là, nếu anh ta diễn đạt được nhân cách của mình thì chắc chắn anh ta sẽ biết cảm ơn Chúa Giêsu và bước theo Người là Đấng đã cứu chữa anh.

Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái chết, Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống sung mãn, Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống. Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy điểm đến và vinh quang đích thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã vâng phục cho đến chết. Vâng phục của Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó thác, trong khiêm tốn và yêu thương; đó là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và làm cho cuộc sống trở thành đáng sống.

Bình thường mỗi người chúng ta ai cũng phải qua bốn cửa ải là: sinh, lão, bệnh, tử. Đã có sinh ắt phải có tử. Cuối cùng, mọi người sinh ra trên trần gian đều phải kết thúc cuộc hành trình bằng cái chết. Từ thời Cựu ước, dân Ítraen đã coi chết là một điều khó hiểu: Tại sao Thiên Chúa nhân từ đã dựng nên vũ trụ vạn vật mà lại để cho sự chết lọt vào trần gian như vậy. Nhưng rồi Lời Chúa trong Thánh Kinh đã dần dần cho thấy: Chết chính là hậu quả của tội lỗi của loài người, bắt đầu từ tội tổ tông như lời tuyên phán của Thiên Chúa: “Ngày nào ngươi ăn quả cây ấy thì ngày ấy ngươi sẽ phải chết”. Nguyên tổ Ađam Evà đã phạm tội nghe ma quỷ cám dỗ ăn quả cây trái cấm ấy nên đã phải chịu phạt là phải chết: Chết về thể xác cũng như linh hồn. Nhưng Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế đến chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh vinh quang.

Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế quyền năng. Thánh Luca trong Tin Mừng hôm nay đã dùng từ “Chúa” cho Đức Giêsu. Chúa theo tiếng Hy lạp có nghĩa là “Ông Chủ”. Nhận Đức Giêsu là Chúa là nhận Người chính là ông chủ của sự sống và có quyền trên sự chết.

Tác giả: