Nhảy đến nội dung

Lửa Thử Vàng

LỬA THỬ VÀNG (CN XII/TN-B)

năm nay Chúa nhật XII/TN-B trùng vào lễ sinh nhật Thánh Gio-an Tẩy Giả, nên 3 bài đọc trong CN này (Bđ 1: G 38, 1.8-11; Bđ 2: 2Cr 5:14-17; TM: Mc 4, 35-41), có thay đổi (Bđ 1: Is 49, 1-6; Bđ 2: Cv 13, 22-26; TM: Lc 1, 57-66.80). Xin được chia sẻ cả 2 chủ đề:

Ở nhiều lớp học về Giáo lý cũng như những buổi chia sẻ Lời Chúa, tôi thường được khá nhiều học viên đặt câu hỏi: “Tại sao lại gọi là Thánh Gio-an Tiền Hô hoặc Thánh Gio-an Tẩy Giả?”  Tên gọi và sự xuất hiện của Thánh Gio-an Tiền Hô đã được báo trước (khoảng 500 năm) từ ngôn sứ I-sai-a (“Trong sách ngôn sứ I-sai-a có chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” – Mc 1, 2-3). Như vậy, Tiền Hô có nghĩa là nói trước, báo trước (tiền: phía trước ; hô: nói lớn tiếng). Còn vì sao lại gọi là Thánh Gio-an Tẩy Giả? Tẩy Giả là người làm cho (người khác) sạch sẽ (Tẩy: làm sạch; Giả: người). Thánh Gio-an Tẩy Giả  được Thiên Chúa sai đến để giục lòng con người biết ăn năn hối cải, dọn sạch tâm hồn mà đón nhận Lời Hằng Sống (“Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” – Mt 3, 3). Đối với con người, nếu muốn làm sạch thân thể hoặc một vật dụng nào đó, thì phải dùng nước – nước là nguyên liệu chính – để rửa sạch mọi vết nhơ. Từ thực tế đó, Thiên Chúa dùng nước làm biểu tượng Ngôi Ba Thiên Chúa, vì chỉ có Chúa Thánh Thần mới tẩy rửa tâm hồn con người  nên trong sạch,  thiện hảo được mà thôi (“Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” – Mt 3, 11). Như vậy, Thánh Gio-an Tẩy Giả, cũng gọi là Thánh Gio-an Tiền Hô, được Thiên Chúa sai xuống trần với sứ vụ là “Hô” lên, là “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Mc 1, 4). Và khi mọi người nghe, rồi hưởng ứng tiếng “Hô” của ngài, thì chính ngài sẽ thực hiện sứ vụ “Tẩy” sạch tâm hồn của họ (“Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan” – Mc 1, 4-5), để xứng đáng tiếp đón Đấng Cứu Độ.

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật về ngày sinh của Thánh Gio-an Tẩy Giả. Đến thời điểm đã định, Thiên Chúa sai sứ thần – qua một thị kiến trong Đền Thờ – truyền tin cho ông Da-ca-ri-a biết là vợ ông (bà Ê-li-za-bet) sẽ thụ thai và “sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa” (Lc 1, 13-15). Sứ thần hiện ra với ông Da-ca-ri-a cũng chính là sứ thần hiện ra truyền tin cho Đức Mẹ thụ thai Chúa Giê-su, đó là sứ thần Gap-ri-en. Điều này chứng tỏ vị thế của Thánh Gio-an Tiền Hô rất cao trọng, bởi chính ngài là “một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1, 6-8). Thế là “Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-za-bét sinh hạ một con trai. Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.” (Lc 1, 57-58).

Trong bài Tin Mừng có một chi tiết rất đáng lưu ý, đó là khi nghe bà Ê-li-da-bet sinh con, láng giềng và thân thích tới chúc mừng và làm hiệu hỏi ông Da-ca-ri-a xem ông định đặt tên cho trẻ là gì, thì "Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: "Tên cháu là Gio-an." Ai nấy đều bỡ ngỡ. Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê" (Lc 1, 63-65). Điều này cho thấy ông Da-ca-ri-a bị câm và đúng vào thời điểm láng giềng yêu cầu ông đặt tên cho con trẻ thì cũng là lúc ông nói được. Đọc lên phía trước đoạn trình thuật này, sẽ thấy khi sứ thần truyền tin cho ông biết vợ ông sẽ thụ thai và sinh cho ông một con trai "Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa." (Lc 1, 17); ông đã không tin vào lời sứ thần vì "tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi". Ngay lập tức, ông được sứ thần đáp: "Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi." (Lc 1, 19-20). Và thế là ông bị câm, câm vì không tin và chỉ đến khi các điều sứ thần truyền tin thực sự xảy ra, ông Da-ca-ri-a mới tin và nói được trở lại như xưa.

Đến bài Tin Mừng CN XII/TN-B (Mc 4, 35-41) thì lại trình thuật về biến cố “Đức Giê-su dẹp sóng gió”: Các Thánh Tông Đồ đang chèo thuyền trên Biển Hồ Ti-bê-ri-a trong đêm tối, thì sóng to gió lớn nổi lên, nước ùa vào trong thuyền đến nỗi thuyền sắp chìm, mà Chúa Giê-su cứ “ngủ yên” như không biết gì cả. Các Tông Đồ phải đánh thức Người dậy: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?" (Mc 4, 39). Chúa Giê-su đã thức dậy và làm phép lạ cho gió yên, biển lặng; rồi Người quở trách các Tông Đồ: "Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?" (ibid, 41). Đây có lẽ cũng là một thử thách Chúa gửi đến cho các môn đệ, nên Người vờ ngủ yên làm như không biết sự gì đang xảy ra. Một cách trắc nghịêm lòng tin nơi các Tông đồ. Và sự thật đã chứng tỏ các môn đệ vẫn chưa tin Thầy mình là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật. Cái hoảng hốt khi thấy cuồng phong nổi lên muốn đánh chìm thuyền cũng là lẽ thường tình, nhưng khi thấy Thầy đã dẹp yên biển động, thậm chí còn quở trách “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”, mà các Tông đồ vẫn còn “hoảng sợ và nói với nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?" (Mc 4, 41), thì quả thật là… hết biết!

Trước đây, ông Da-ca-ri-a không tin nên bị câm, điều này còn có thể hiểu được, vì ông chỉ được tiếp xúc vời sứ thần, nhưng đến các Tông đồ sống liền bên với Thầy Giê-su Thiên Chúa, chứng kiến tận mắt phép lạ Thầy dẹp yên biển động mà vẫn không tin thì lạ thật! Còn nhân vật Gio-an Tẩy Giả thì sao? Tuy Thánh nhân không phải là một môn đệ được tuyển chọn của Chúa Giê-su, ngài chỉ là người được sai đi dọn đường mở lối cho Chúa mà thôi. Không phải là môn đệ mà lại tin vào Đấng Cứu Thế hơn cả các môn đệ chính tông (Tông đồ). Xem thế thì đủ biết đức tin của Thánh Gio-an Tẩy Giả vững chắc như thế nào. Nhiều người cho rằng không thể so sánh các Tông đồ với Thánh Gio-an Tẩy Giả vì các môn đệ của Chúa Giê-su chịu nhiều thử thách hơn Thánh Gio-an. Nếu chỉ nhìn trên bình diện sự kiện, thì có thể nói như vậy, nhưng nếu nhìn sâu vào chiều kích siêu linh, sẽ thấy Thánh Gio-an Tẩy Giả đã vì lòng tin mà ngay từ thủa nhỏ đã vào trong hoang địa “mặc áo lông cừu, ăn châu chấu và mật ong rừng” để đối diện với những thử thách, cầu nguyện cùng Thiên Chúa thêm sức cho mà thi hành sứ vụ cao trọng đã được trao phó. Cuối cùng, cũng vì “ông đến để làm chứng về ánh sáng”, làm chứng về Sự Thật, mà Thánh nhân đã bị hung thần Hê-rô-đê trảm quyết. Xem thế thì đủ biết về mặt đức tin, Thánh Gio-an Tẩy Giả còn là đàn anh – nếu không muốn nói là bậc thầy – của các Tông đồ (“Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” – ibid).

Thánh Gio-an Tẩy Giả được hạ sinh trước Đấng Cứu Thế 6 tháng. Như vậy là thánh nhân cùng tuổi với Đức Ki-tô. Đối với thế nhân, những người cùng tuổi, và lại là anh em trong họ với nhau, ít có ai chịu lép vế ai trong sinh hoạt đời thường, đừng nói là có một lòng khiêm hạ đến độ “tôi không đáng cởi dép cho Người” (Cv 13, 25). Tuy nhiên, Thánh Gio-an Tẩy Giả đã là người như thế, vì chính thánh nhân cũng là một sứ giả của Thiên Chúa như Sứ giả Giê-su (“Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến” – Mt 11, 10). Cùng đuợc sai đi thi hành sứ vụ, nhưng sứ vụ khác nhau: Chúa Giê-su được sai xuống trần để cứu chuộc nhân loại, còn Thánh Gio-an được sai đi dọn đường mở lối cho Đức Ki-tô. Bản thân 2 sứ giả cũng có khác: Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, còn Người Dọn Đường chỉ là một ngôn sứ, một nhân chứng sống cho Tin Mừng Cứu độ.

Tóm lại, Thánh Gio-an Tầy Giả hay các Tông đồ và nói chung là các tín hữu sống trên trần gian, luôn luôn phải đối diện với sóng gió cuộc đời. Và cũng chẳng ít lần sóng gió đó là những trận cuồng phong dữ dội, sẵn sàng nhấn chìm con thuyền đức tin vào biển đời đen tối. Có lẽ cũng vì thế, nên trong bài Tin Mừng CN XII/TN-B, Giáo Hội trích bài trình thuật biến cố “Đức Giê-su dẹp yên biển động”, là có chủ ý thông qua việc Đức Ki-tô củng cố đức tin cho các môn đệ tại biển hồ Ti-bê-ri-a, thì cũng như chính Ngôi Lời nhập thể củng cố đức tin cho những người tin và đi theo Người ở muôn thế hệ. Năm nay, Giáo Hội cử hành lễ kính trọng thể ngày sinh của Thánh Gio-an Tẩy Giả vào đúng CN XII/TN cũng là muốn nhắc nhở các tín hữu hãy nhìn vào tấm gương ông Da-ca-ri-a, học theo gương Thánh Gio-an Tiền Hô mà vào trong hoang địa cuộc đời để trui rèn ý chí, củng cố đức tin, ngõ hầu sẵn sàng “làm chứng về ánh sáng”, mà “đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mứng cho mọi loài thụ tạo”. Chính vị thánh đã được thử lửa trong biến cố Đa-mat cũng xác tín: “Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời.” (2Cr 4, 17)

Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, đúng như lời dạy của Thánh Phê-rô: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” (1Pr 1, 6-7). Mọi Ki-tô hữu cần ý thức rằng cuộc sống trần gian luôn đầy sóng gió, ai ai cũng phải đương đầu không nhiều thì ít, và nhiều khi những trận cuồng phong dữ dội xảy đến với mỗi người mỗi khác, không ai giống ai. Vì thế, đừng so sánh mình với bất cứ ai để rồi oán trach Thiên Chúa bất công trong đối xử, hoặc ỷ tài cậy sức mà sinh lòng kiêu ngạo, lại càng không nên nghi ngờ “Chúng con sắp chết đến nơi mà Thày không quan tâm đến sao?” Thiên Chúa chẳng ngó lơ “không quan tâm”, cũng chẳng hề “bất công”, chỉ có con người “tin hay không tin” mà thôi! Gặp thử thách phải biết cậy dựa vào Thần Khí và “phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống” (Gc 1, 6).

Ôi ! Lạy Chúa ! Xưa "Dân cư thành Giê-ru-sa-lem và các thủ lãnh của họ đã không nhận biết Đức Giê-su; khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi ngày sa-bát" (Cv 13, 27). Họ chế nhạo Người, đóng đinh Người chết treo trên thập giá vì họ có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc, lòng trí họ chai đá không tin vào vị Sứ giả Cứu Độ là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật. Cúi xin Chúa thương ban cho chúng con được sáng mắt sáng lòng để chúng con hiểu rằng chính những đau khổ, thử thách tôi luyện, trui rèn cho đức tin của chúng con trở nên vững chắc hơn. Đau khổ và thử thách cũng là những dịp để chúng con được thông phần với sự đau khổ Chúa đã chịu để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con đủ kiên gan bền chí đối diện với mọi nghịch cảnh thử thách, để được như vàng thật không sợ lửa, dũng khí chẳng ngại gian nan. Ôi! Lạy Chúa! “Tôi tin, tôi tin Chúa đã thương tôi, nên Người đã chết, chết vì tôi… Tôi tin Chúa vẫn thương tôi, cho dù đời tôi bao phen giông tố…” (“Tôi Tin” – Thành Tâm – TCCĐ) 

JM. Lam Thy ĐVD.

Tác giả: