Mẹ của lòng thương xót
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- JM. Lam Thy ĐVD.
MẸ CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
(LỄ ĐỨC MARIA MẸ THIÊN CHÚA)
Tín điều Đức Maria Là Mẹ Thiên Chúa được Công Đồng Chung Ê-phê-sô tuyên tín năm 431: “Tuyệt thông cho những ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (theotokos) vì Mẹ đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt.” (DS 252 hay “The Christian Faith” trang 149). Sở dĩ Giáo hội phải công bố tín điều này, vì khi nói Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa đã có không ít người phủ nhận. Đó là những bè rối, phản Ki-tô ở thế ký III & IV; đặc biệt nhất là Nes-tô-ri-ô ở thế kỷ V (Nes-tô-ri-ô là một linh mục có tư tưởng cực đoan, nhưng có tài hùng biện và lôi kéo được hoàng đế Thê-ô-đô-si-ô, nên được hoàng đế phong làm giáo chủ thành Con-tan-ti-nô-pô-li). Họ lý luận: “Nếu đã nói Thiên Chúa dựng nên (tức là sinh ra) con người, thì làm sao con người có thể sinh ra Thiên Chúa được? Ấy là chưa kể Người Con do Đức Mẹ sinh ra lại là Con Thiên Chúa thì càng vô lý hơn.” Mới thoạt nghe thì thấy cũng có lý, vì xét trên triết lý nhân sinh, con người không thể nào sinh ra Thiên Chúa được. Đức Maria quả thật đã không sinh ra Thiên Chúa.
Tuy nhiên, khi đưa ra lý luận phản bác như vậy, họ đã quên mất một điều: Nếu họ tin có một Ông Trời đã dựng nên cả vũ trụ và con người thì đối với Người, mọi sự “không thể” đều trở thành “có thể” ("Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được." – Mt 19, 23; “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." – Lc 1, 37). Rõ ràng lập luận phản bác nêu trên phản ảnh thực chất tư tưởng loài người, mà như thế thì làm sao có thể “suy sự Đức Chúa Trời” cho được? Ấy cũng bởi vì “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta.” (Is 55, 8). Vâng, "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." (Mt 16, 23).
Còn vấn đề tại sao Đức Mẹ lại sinh Con Thiên Chúa, thì phải hiểu đây là một mạc khải mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Nếu để cứu độ loài người, mà Thiên Chúa bay vù một cái từ trời cao xuống, thì chắc chắn chẳng ai tin và sẽ cho đó chỉ là tà ma quỷ mị, và khi chết trên thập giá thì sẽ bị phỉ nhổ “chết như thế là đáng” (như đã thực sự xảy ra). Còn nếu Thiên Chúa chỉ “phán một lời” là nhân loại sẽ được cứu rỗi, thì loài người với sự bất toàn và cứ đòi được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền), sẽ không nhận thức được và càng trở nên tự cao tự đại, rồi nhơn nhơn sa vòng tục luỵ, đắm chìm trong tội lỗi. Chính vì thế mới cần một người bằng xương bằng thịt như bao người khác nhưng có bản tính Thiên Chúa, để thi hành sứ vụ cứu độ nhân loại. Mà để người ấy hiện diện trên trái đất như loài người, thì lại phải cần có một bà mẹ mang thai và sinh đẻ như mọi bà mẹ khác. Người được chọn làm Mẹ đó chính là Đức Maria. Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, vâng phục thánh ý Chúa Cha đã “sinh làm con một người đàn bà và sống dưới lề luật, để chuộc những ai sống dưới lề luật.” (Gl 4, 4-5). Như vậy thì quả nhiên Đức Mẹ đã sinh ra Thiên Chúa, nhưng phải xác tín đây là Thiên-Chúa-làm-người. Vậy thì còn tước hiệu nào xứng hợp hơn để nói về Ðức Maria trong hoàn cảnh này bằng tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”?
Nhiều người cứ cho rằng mãi về sau này Giáo Hội mới tôn xưng Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Thực ra, ngay từ khi Đức Mẹ “xin vâng” đón nhận Người Con vào cung lòng, thì Mẹ đã được người chị họ (bà Ê-li-da-bet) chúc tụng: “Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy” (Lc 1, 43). Cũng cần nói thêm rằng, đến chính ngay Đức Maria khi được Sứ thần truyền tin, cũng bất ngờ và sửng sốt thốt lên: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" (Lc 1, 34). Nhưng vì đây là việc làm của Thiên Chúa (“Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." – Mt 1, 35-37); nên Đức Maria mới “xin vâng” đón nhận đặc ân cao trọng đó
.
Điều đó lại càng chứng tỏ Tình Yêu Thiên Chúa bao la khôn cùng, Người yêu thương đến độ còn muốn tôn vinh con người, cho dầu chẳng phải ai cũng được diễm phúc cưu mang và sinh hạ Thiên Chúa như Đức Maria. Người muốn dùng con người như những khí cụ hữu hiệu để Người luôn được sinh ra nơi lòng dạ con người mọi thời (“Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe Lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.” – Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, số 20).
Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã tôn vinh con người qua mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa, Người còn muốn con cái mình được vui hưởng hạnh phúc trong an bình. Vì thế, Người đã dùng các Thiên thần (là những sứ giả thân tín của Người) đem Lời chúc thần thiêng xuống cho loài người “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Như vậy, Đức Giê-su Ki-tô – hiện thân của Lòng Chúa Thương Xót – đã hóa thân thành nhục thể trong lòng Đức Trinh nữ Maria và được Mẹ sinh ra nơi hang đá Bê-lem để thực hiện lời Thiên Chúa hứa cùng nhà Ða-vít (“Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." – Lc 32-33). Đồng thời, cũng chính Người sẽ đem lại hòa bình cho nhân loại và vinh quang cho Đức Chúa Trời. Còn Ðức Maria, Mẹ của Người thì luôn ghi nhớ những điều ấy và suy nghĩ trong lòng.
Nhận rõ chân lý ấy, Ðức Chân phước Phao-lô VI đã thiết lập ngày Hoà bình Thế giới đầu tiên vào ngày 01/01/1968, nhằm khuyên mọi Ki-tô hữu hằng năm hãy dùng ngày Ðầu Năm để suy nghĩ và cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Và kể từ đó đã thành truyền thống, cứ vào ngày đầu năm dương lịch, các vị Giáo hoàng lại gửi Sứ điệp Hòa Bình đến toàn thế giới, nhằm kêu gọi các tín hữu – và nói chung, toàn thể nhân loại – cùng chung tay góp sức, thêm lời cầu nguyện để kiến tạo một nền hoà bình đích thực cho nhân loại (“Ngày này là thành quả trực giác của Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI theo sự quan phòng của Chúa, và được vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi là ĐGH Gio-an Phao-lô II tiếp tục với đầy xác tín, việc cử hành Ngày Hòa Bình này đã giúp Giáo Hội, qua dòng thời gian, với những Sứ điệp được công bố nhân dịp này, phát triển một đạo lý sáng ngời bênh vực thiện ích căn bản của con người.” – Sứ điệp “Ngày Hoà bình Thế giới lần thứ 41 - năm 2008” của ĐTC Bê-nê-đic-tô XVI, số 15).
Ngày đầu năm (dương lịch, âm lịch, và nói chung là tất cả các loại lịch hiện hữu) là ngày sum họp gia đính, để cầu nguyện, cầu chúc cho nhau những điều tốt lành, an vui. Đêm Giáng sinh, Thiên Chúa đã ban tặng “món quà an bình” vô giá là chính Con Một xuống thế làm người trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria. Chính Đức Mẹ đã cưu mang và sinh hạ ân sủng cao quý vô song đó: Đức Vua Hoà Bình Giê-su Ki-tô. Cũng chính là từ nơi Trái Tim vẹn sạch Đức Mẹ đã hiện thực hoá lời chúc thần thiêng của Thiên Chúa đến cho nhân loại (“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”). Như vậy, cùng với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội, Đức Maria còn là Mẹ của các gia đình – Người Mẹ đã đem an vui thái hoà tới cho đàn con nơi trần thế. Thật vô cùng ý nghĩa khi Giáo hội tôn vinh Mẹ là Nữ Vương Gia Đinh, Nữ Vương Hoà Bình, và chọn ngày đầu tiên của Năm Mới – trùng vào ngày lễ kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa – làm ngày cầu nguyện cho hoà bình thế giới, cũng gọi là NGÀY THẾ GIỚI HOÀ BÌNH (xc Lịch Phụng vụ Công Giáo).
Trong Sứ điệp “Ngày Hoà Bình Thế Giới lần thứ 46 – năm 2013” (số 1), ĐGH Biển Đức XVI đã viết: “Năm mới luôn mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Trong ánh sáng này, tôi nguyện xin Thiên Chúa, là Cha của nhân loại, ban cho tất cả chúng ta sự hoà thuận và bình an để những khao khát của chúng ta về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng có thể được thành tựu. Năm mươi năm sau ngày khai mạc Công Đồng Vatican II vốn là sự kiện giúp chúng ta đào sâu sứ mạng của Giáo hội trong thế giới, chúng ta phấn khởi nhận ra rằng những người Kitô hữu, như là Dân Thiên Chúa trong việc bước theo Người và sống giữa lòng thế giới, chúng ta dấn thân vào lịch sử để chia sẻ vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng, khi chúng ta công bố ơn cứu độ của Đức Ki-tô và thăng tiến hòa bình cho nhân loại.”
Mục đích ngày thế giới hoà bình không chỉ là “hoà đồng tôn giáo”, mà còn là “hoà đồng nhân loại”. Thế giới này còn quá nhiều những chiến tranh khủng bố bằng bom đạn, bằng những vũ khí tối tân nhất. Khốc liệt hơn là những cuộc chiến tranh khủng bố bằng tinh thần, bằng tư tưởng vẫn đầy rẫy (“Thật đáng báo động khi chứng kiến sự lan tràn của những căng thẳng và xung đột gây ra bởi sự phát triển của sự bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, sự lan tràn của não trạng cá nhân và ích kỷ vốn tìm thấy sự biểu hiện của nó trong chủ nghĩa tư bản tài chính thiếu sự kiểm soát. Bên cạnh những hình thức đa dạng của chủ nghĩa khủng bố và tội ác quốc tế, hoà bình cũng bị đe doạ bởi trào lưu chính thống và chủ nghĩa cuồng tín, bóp méo bản chất tôn giáo đích thực, vốn mời gọi cổ võ tình liên đới và sự hoà giải giữa mọi người.” – Sđ “Ngày Hoà bình Thế giới – năm 2013”, số 1).
Vì thế, nên vấn đề đặt ra là cả thế giới cần phải ngồi lại với nhau để tim kiếm một giải pháp chung xây dựng hoà bình. Một cách cụ thể là ngồi lại với nhau để trực diện đối thoại. Kể ra cũng khó khăn lắm để có thể thực hiện được mục tiêu đó. Thế giới đã chẳng có một Liên Hiệp Quốc từ trên nửa thế kỷ rồi đó sao? Vậy mà ngay trong nội bộ tổ chức này cũng vẫn còn không ít những bất đồng. Tuy nhiên “Thà thắp lên một ngọn đèn còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”, nếu cứ ngồi nguyền rủa bóng tối thì liệu có sáng lên được không? Hoá cho nên dù khó khăn cách mấy cũng phải làm, kiên trì làm. Tín hữu các tôn giáo nói chung – và cách riêng, những Ki-tô hữu – phải là những người đi tiên phong, thắp sáng lên ngọn đèn Hoà Bình bất diệt. Nói cách cụ thể là phải sống làm sao cho đúng với châm ngôn “Người trong bốn bể thật là anh em” (tứ hải giai huynh đệ).
Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã giải thích rất rõ trong Sứ điệp “Ngày Hòa Bình Thế Giới – 2015” (số 6) “Trong việc “loan báo chân lý tình yêu của Đức Ki-tô trong xã hội”, Giáo Hội luôn dấn thân không ngừng trong các hoạt động bác ái xuất phát từ chân lý về con người. Giáo Hội có nhiệm vụ phải phơi bày ra mọi con đường dẫn đến việc hoán cải, cho phép chúng ta thay đổi cái nhìn về những người thân cận của mình, để nhận ra nơi những người khác ấy, dù là ai, người anh chị em trong một gia đình nhân loại, và để thừa nhận phẩm giá bẩm sinh của họ trong chân lý và tự do… Chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta rằng: “Ngươi đã làm gì em ngươi vậy?” (x. St 4, 9-10). Toàn cầu hóa sự thờ ơ, vốn ngày nay đè nặng trên cuộc sống của nhiều anh chị em của chúng ta, đòi buộc chúng ta phải làm nên một sự toàn cầu hóa tình liên đới và tình huynh đệ, để có thể trao ban lại cho họ niềm hy vọng mới và giúp họ tiếp tục bước đi với sự dũng cảm qua những vấn đề của thời đại chúng ta và những chân trời mới mở ra và được Thiên Chúa đặt để vào tay chúng ta.”
ĐGH còn nhấn mạnh hơn trong Sứ điệp “Ngày Hòa Bình Thế Giới – 2016” (số 1) “Thiên Chúa không dửng dưng lạnh lùng! Thiên Chúa chăm sóc nhân loại! Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta! Mở màn cho một Tân Niên, tôi muốn chia sẻ chẳng những niềm xác tín sâu xa này mà còn cả những lời thân ái chúc nguyện tốt đẹp được thịnh vượng, bình an và viên trọn hết mọi niềm hy vọng của hết mọi con người nam nữ, của hết mọi gia đình, dân tộc và quốc gia ở khắp thế giới, bao gồm tất cả quý vị lãnh đạo Quốc gia và Chính quyền cũng như tất cả mọi vị lãnh đạo Tôn giáo. Chúng ta tiếp tục tin tưởng rằng năm 2016 sẽ chứng kiến thấy tất cả chúng ta mãnh liệt và tin tưởng dấn thân ở các lãnh vực khác nhau trong việc theo đuổi công lý và hòa bình. Bình an vừa là tặng ân của Thiên Chúa vừa là việc đạt thành của loài người. Là tặng ân của Thiên Chúa, nó được trao phó cho tất cả mọi con người nam nữ được kêu gọi để thành đạt nó.”
Và ở phần cuối Sứ điệp (số 8), ĐTC viết: “Theo tinh thần của Năm Thánh Lòng Thương Xót, tất cả chúng ta đều được kêu gọi để nhận thấy cách thức có thể tỏ hiện nơi đời sống của chúng ta, mà hoạt động một cách cụ thể để cải tiến thế giới chung quanh chúng ta, bắt đầu từ gia đình của chúng ta, hàng xóm của chúng ta và công sở của chúng ta. Xã hội dân sự cũng được kêu gọi để thực hiện những cử chỉ quan tâm đặc biệt và can đảm đối với những phần tử yếu kém dễ bị tổn thương nhất của mình, như các tù nhân, những người di dân, những ai thất nghiệp và những ai yếu bệnh… Tôi xin ký thác những suy tư này, cùng với những nguyện chúc Năm Mới tốt đẹp nhất của tôi, cho việc chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của chúng ta, Vị chăm sóc những nhu cầu của gia đình nhân loại chúng ta, để Mẹ có thể xin Con Mẹ là Hoàng Tử Hòa Bình, đáp lời cầu nguyện của chúng ta và chúc lành cho những nỗ lực hằng ngày của chúng ta về một thế giới huynh đệ và hiệp nhất.”
Như vậy thì ngày đầu năm phải là ngày dâng hiến mỗi gia đình, mọi gia đình cho Trái Tim vẹn sạch Đức Maria Mẹ Thiên Chúa – Nữ Vương Gia Đình – Nữ Vương Hoà Bình – để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Ôi, lạy Mẹ! Chúng con cảm tạ Mẹ bởi vì hôm nay, ngày đầu Năm Mới 2016 – Năm Thánh Lòng Thương Xót, chúng con nhìn lên Mẹ: Mẹ là Mẹ Thiên Chúa – Mẹ của Lòng Thương Xót – Mẹ là Nữ Vương của mỗi gia đình chúng con, Mẹ còn là Nữ Vương Hoà Bình của toàn thế giới, Mẹ chính là Mùa Xuân vĩnh cửu của nhân loại. Với tình mẫu tử chan hoà Tình Yêu Thiên Chúa bao la, Mẹ luôn yêu thương ấp ủ mọi người chúng con trong trái tim vẹn tuyền của Mẹ, như xưa Mẹ đã yêu thương ấp ủ Đức Giê-su Con Thiên Chúa và cũng là con của Mẹ. Cúi xin Mẹ giúp chúng con luôn biết sống ý nghĩa của Mùa Xuân vĩnh cửu; để như Mẹ, chúng con biết “xin vâng” đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào trong lòng chúng con. Từ đó, Mẹ sẽ bầu cử cùng Chúa cho chúng con biết sám hối và đổi mới tâm hồn, biết tự hoà giải bản thân để đi đến hoà giải với anh em, ngõ hầu đóng góp một chút nào đó cho nền hoà bình thế giới.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, ngày Ðức Trinh Nữ Maria sinh hạ Ðấng Cứu Thế, Chúa đã tặng ban cho nhân loại kho tàng ơn cứu độ muôn đời. Xin cho chúng con được nhờ lời Ðức Mẹ nguyện giúp cầu thay, vì chính nhờ Ðức Mẹ chúng con mới đáng nhận lãnh nguồn sức sống vĩnh cửu là Ðức Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa).
JM. Lam Thy ĐVD.