Mẹ Thiên Chúa là Mẹ của Lòng Thương Xót đối với chúng ta - Cuộc vật lộn của tôi với chứng trầm cảm.
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Lại Thế Lãng
Mẹ Thiên Chúa là Mẹ của Lòng Thương Xót đối với chúng ta.
Tác giả: LM Andrew Apostoli, CFR – Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Đức Mẹ là tuyệt đối độc nhất vô nhị trong số tất cả các tạo vật của Thiên Chúa vì Mẹ đứng trong một mối quan hệ đặc biệt với Ba Ngôi Chí Thánh. Mẹ là nữ tử yêu thương của Đức Chúa Cha. Mẹ là mẹ nhân từ của Đức Chúa Con. Mẹ là hiền thê yêu thương của Đức Chúa Thánh Thần.
Mẹ cũng là mẹ của chúng ta. Tại sao? Bởi vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu, Đấng đã đến để mang lại cho chúng ta sự sống sung mãn. Vì Maria đã kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu trong công việc cứu chuộc của Ngài, Mẹ là một người mẹ mang lại sự sống cho tất cả các con cái của Mẹ. Mẹ là Evà thực sự, vừa là mẹ của toàn thể Giáo hội, vừa là mẹ của mỗi người chúng ta theo một cách rất riêng. Mẹ Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, bày tỏ cho chúng ta thấy tình yêu tuyệt đối của Mẹ và chuẩn bị tâm hồn chúng ta để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta có thể tin tưởng rằng Mẹ Maria sẽ luôn đáp lại những lời cầu nguyện của chúng ta khi đưa chúng đến trước Thánh Tử của Mẹ.
Một lời cầu nguyện với đôi cánh. Một trong những lời cầu nguyện yêu thích của tôi là kinh Hãy nhớ đã được sử dụng hàng trăm năm bởi hàng triệu người để tìm kiếm sự giúp đỡ của Đức Mẹ. Khi Đức Mẹ nghe câu đầu tiên của lời cầu nguyện tuyệt vời đó, bạn có nghĩ rằng Mẹ có thể bịt tai được không? Sự tự tin được thể hiện trong những từ này là gì? Tin cậy gì!
Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Ðức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp mà Ðức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy, con lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Ðức Mẹ là Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh, xin Ðức Mẹ đoái đến con là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là Mẹ Chúa Cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một dủ lòng thương mà nhận lời con cùng. Amen.
Và đó là cách mà chúng ta nên luôn đến gần Mẹ của Lòng Thương Xót. Đừng cho rằng lời cầu nguyện của bạn đã không được lắng nghe nếu không có gì xảy ra ngay lập tức. Nếu bạn không nhận được câu trả lời ngay lập tức cho lời cầu nguyện của mình, bạn sẽ không phải là người đầu tiên phải liên tục gõ cửa. Bạn có thể phải tiếp tục cầu xin nhiều lần hoặc tìm kiếm trong một thời gian! Tôi đã tự mình học được điều này từ kinh nghiệm của chính mình. Nó cũng được xác nhận trong những câu chuyện về cuộc đời của các vị thánh vĩ đại.
Một trong số đó là Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Bà đã trao cho tôi vật sở hữu lớn nhất trần gian: một chuỗi hạt Mân Côi mà tôi luôn mang theo bên mình. Nó là một chuỗi tràng hạt đơn giản được làm từ những hạt nhỏ mọc ở Ấn Độ. Những hạt này thường được gọi là “nước mắt của Job” vì mỗi hạt trông giống như một giọt nước mắt nhỏ. Chuỗi tràng hạt này rất quý đối với tôi vì nó đã được tặng cho tôi bởi một người mà tôi biết một ngày nào đó sẽ là một vị thánh.
Một vị thánh của Tuần cửu nhật “bay”. Vào lần đầu tiên tôi gặp Mẹ Têrêsa, tôi đang dạy một nhóm nữ tu của bà ở South Bronx. Tôi sẽ không bao giờ quên những lời Mẹ Têrêsa nói với tôi khi bà đặt chuỗi hạt vào tay tôi. Bà cảm ơn tôi đã dạy dỗ các nữ tu của bà và nói “Cha biết rằng Đức Mẹ ở khắp mọi nơi để đưa mọi người đến với Con của Mẹ”. Sau đó, bà chia sẻ một bí mật tuyệt vời của Hội Thừa sai Bác ái. Bà nói với tôi rằng khi các nữ tu cần một việc gì đó gấp gáp, họ đã làm tuần cửu nhật “bay”. Tuần cửu nhật “bay” này bao gồm việc đọc kinh Hãy nhớ chín lần liên tiếp. So với việc di chuyển quãng đường dài bằng phương tiện giao thông mặt đất, việc bay sẽ giúp bạn đến đó nhanh hơn và trực tiếp hơn rất nhiều. Mẹ Teresa hoàn toàn biết rõ sức mạnh của sự cầu bầu của Mẹ chúng ta với Thánh Tử của Mẹ. Cố gắng tự cầu nguyện cũng giống như sử dụng phương tiện giao thông mặt đất còn để tìm kiếm sự cầu thay của Mẹ chúng ta cũng tương đương tâm linh với việc bay.
Sau đó, Mẹ Têrêsa kể lại một sự việc mà bà có liên quan cho thấy rõ ràng hiệu quả của tuần cửu nhật “bay”. Bà nói rằng Hội Thừa sai Bác ái có một tu viện ở Đông Berlin, khi đó đang nằm dưới sự kiểm soát của Cộng sản. Bề trên ở đó đã trở nên khá đau yếu. Mẹ Têrêsa nói với tôi:
Cha ạ, con đã phải gửi người chị em này trở lại Ấn Độ. Con đã phải thay thế nữ tu ấy. Nhưng vì Đông Berlin đang ở trong một tình huống rất khó khăn đặc biệt là đối phó với Cộng sản nên không phải bất cứ chị em nào cũng có thể xử lý được tình hình. Con phải đưa một người chị em có năng lực từ Ấn Độ sang. Điều này có nghĩa là con cần phải có thị thực nhưng một viên chức của chính phủ đã nói với chúng con rằng chúng con sẽ phải đợi sáu tháng để tiến hành thị thực này. Vì vậy, con đã tập hợp các chị em lại với nhau và bắt đầu làm tuần cửu nhật “bay” – chín kinh Hãy nhớ liên tiếp! Khi chúng con đến ngày thứ tám, điện thoại đổ chuông. Một quan chức chính phủ nói với chúng con một lần nữa rằng chúng con sẽ phải đợi sáu tháng để được cấp thị thực.
Các chị em tiếp tục cầu nguyện. Khi họ hoàn thành ngày thứ chín, Mẹ Têrêsa đã nói chuyện với Đức Mẹ một cách thân mật hơn. “Maria, chúng con đã hoàn thành việc cảm tạ Mẹ để có được sự ưu ái này cho chúng con nhưng Mẹ đã không ban, vì vậy chúng con sẽ cầu xin Mẹ một lần nữa.” Và bà ngay lập tức bắt đầu làm tuần chín ngày nữa. Đến ngày thứ tám của tuần chín ngày lần thứ hai điện thoại lại reo. Đó là một quan chức chính phủ khác thông báo cho bà rằng bà có thể có thị thực ngay lập tức.
Chẳng phải đức tin ấy di chuyển cả những ngọn núi sao? Trong lúc túng quẫn, Mẹ Têrêsa đã đi đâu? Tới nhờ Mẹ của lòng thương xót chuyển cầu: “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Ðức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp mà Ðức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời”
Maria thực sự là một người mẹ biết lắng nghe những lời khẩn cầu của tất cả con cái mình. Khi chúng ta kêu xin trong lời cầu nguyện với Mẹ Maria, tai của người mẹ - trái tim của người mẹ - luôn luôn lắng nghe chúng ta./.
*****************
Cuộc vật lộn của tôi với chứng trầm cảm.
Tác giả: Kathleen Hervochon – Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Chồng tôi, George và tôi đã vui mừng khôn xiết khi biết mình đang mong chờ đứa con thứ ba. Mặc dù lần mang thai này bị đe dọa bởi nhiễm độc máu và có thể sinh non, đứa con gái quý giá thứ ba của chúng tôi là Megan đã chào đời vào đúng hạn kỳ. Chúng tôi đã nhận ra sự tốt lành của Thiên Chúa khi bé chào đời khỏe mạnh và nóng lòng được chia sẻ tình yêu của chúng tôi với bé.
Bất ngờ trong những tuần sau đó, tôi rất khó ngủ và thấy mình trở nên cáu kỉnh và trầm cảm. Tôi đã hỏi ý kiến bác sĩ sản khoa của mình với hy vọng rằng cô ấy sẽ đưa ra lời đảm bảo an ủi rằng những ngày đen tối này sẽ sớm biến mất. Trước sự sốc và kinh hoàng của tôi, cô ấy đã giới thiệu tôi đến một chuyên gia về bệnh tâm thần. Mười phút sau khi thăm khám, bác sĩ tâm thần chẩn đoán tôi bị trầm cảm nặng sau khi sinh và sắp xếp đưa tôi vào khoa tâm thần của một bệnh viện gần đó.
Chồng tôi chở tôi đến thẳng bệnh viện và sau đó về nhà để đón đứa con mới chào đời của tôi. Megan có thể ở lại với tôi nhưng vì tôi được tiêm thuốc an thần và thuốc chống trầm cảm nên tôi phải ngừng cho bé bú.
Tôi cảm thấy như bị mắc vào một cơn ác mộng. Làm sao chuyện này có thể xảy ra? Khi tôi và Megan trở về nhà hai tuần sau đó, tôi vẫn cảm thấy mình hoàn toàn mất năng lực và vô dụng. Tôi đã rất xấu hổ.
Cầu nguyện và Đau đớn. Những người bạn thân yêu đã tập hợp lại xung quanh gia đình tôi với những bữa ăn nấu sẵn, giúp giữ cháu bé, hỗ trợ cảm xúc và cầu nguyện liên tục. Chúng tôi thuê một người phụ nữ đến mỗi ngày từ tám giờ sáng đến bốn giờ chiều để chăm sóc các con gái của chúng tôi và giúp đỡ tôi trong ngày. Người giúp đỡ tôi là một người bạn tốt. Cô ấy dẫn tôi đi ra ngoài vào mỗi buổi sáng để tham dự Thánh lễ mặc dù tôi muốn được che chở và “an toàn” ở nhà. Cô ấy cũng nài nỉ rằng tôi cần tập thể dục và hướng dẫn tôi đi bộ đến tận gốc cây sồi già to lớn nằm chênh vênh bên mép đường.
Khi tôi đến nơi này mỗi ngày, tôi sẽ dựa lưng vào thân cây, ngẩng đầu lên để nhìn qua những cành cây to lớn vươn ra và đọc kinh Lậy Cha. Sau đó tôi đi bộ một dặm để trở về nhà. Tôi gọi cây sồi khổng lồ này là "Cây kinh Lậy Cha". Với mỗi lần đến đó, tôi cố gắng dâng lời cầu nguyện chân thành, thật tâm nhất mà tôi từng thốt ra.
Mặc dù có thuốc và với hàng giờ tư vấn, tôi vẫn cảm thấy ít nhẹ nhõm. Cảm giác hụt hẫng và vô dụng của tôi tiếp tục nhân lên. Nhiều tuần tuyệt vọng biến thành hàng tháng; hàng tháng biến thành hai năm. Tôi được giới thiệu từ bác sĩ này sang bác sĩ khác khi mỗi đợt điều trị thất bại. Tôi đã trải qua mười hai lần điều trị bằng liệu pháp sốc điện và đã trải qua tổng cộng tám tháng làm bệnh nhân tâm thần ở ba bệnh viện khác nhau. Bạn bè vẫn ủng hộ nhưng đã trở nên mệt mỏi và gia đình tôi đã tan nát.
Khuôn mặt của Chúa Kitô. Trong thời gian vô cùng hỗn đợnn này, tôi đã tuyệt vọng tìm kiếm sự an ủi và xoa dịu từ lời Chúa. Tôi đã thuộc lòng những câu trích dẫn trong Kinh thánh "Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ." (Tv 16:8). "Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng." (Rm 15:13). Những câu này lặp đi lặp lại trong tâm trí tôi. Đã nhiều lần tôi kêu lên hỏi Chúa "Bây giờ Ngài đang ở đâu khi con cần Ngài nhất?"
Tôi đang vật lộn với hoàn cảnh của mình và sự thờ ơ rõ ràng của Thiên Chúa thì một hình ảnh dần dần hình thành trong tâm trí tôi. Tôi không nhìn thấy hình ảnh này bên ngoài bản thân mình. Nó được trưng bày trên một sân khấu nội tâm, ngang tầm mắt khi tôi tĩnh lặng. Dần dần tôi xác định thị kiến như là sự đóng đinh của Chúa Kitô. Tôi trở nên căng thẳng trong sự đau khổ của Ngài. Tôi đã thấm thía nỗi thống khổ của Ngài.
Sau đó, từng chút một các nét trên khuôn mặt của Chúa Kitô bắt đầu thay đổi. Từ từ, tôi nhận ra khuôn mặt của tôi chuyển sang khuôn mặt của Ngài. Ấn tượng về khuôn mặt của tôi xen kẽ với khuôn mặt của Chúa Kitô giống như sự xuất hiện của một bức ảnh ba chiều. Rất bối rối trước những gì tôi nhìn thấy, tôi đã hét lên phản kháng Chúa. Tôi nổi loạn ở tận đáy của nỗi đau mà Ngài dường như đang yêu cầu tôi chịu đựng. Nhưng trong khoảng thời gian vài tuần, tôi đã hiểu một cách miễn cưỡng về hình ảnh này. Tôi bắt đầu hiểu được "sự đau khổ được chia sẻ." Chúa Giêsu đang nói với tôi rằng Ngài biết và cảm nhận được nỗi đau của tôi.
Sự đau khổ của tôi không giảm đi mà còn tăng thêm bởi sự giao tiếp sâu sắc này. Tôi không tiết lộ điều đó cho ai vì sợ rằng tôi sẽ bị cho là bị ảo giác.
"Tôi Sống Bằng Niềm Tin." Mặc dù trải nghiệm này, chứng trầm cảm của tôi vẫn tiếp tục không ngừng. Tôi bắt đầu tìm thấy sự an ủi trong ý nghĩ kết thúc sự điên rồ của mình bằng cách tự kết liễu cuộc đời. Vào lúc hai giờ sáng một buổi sáng tháng chín, với một đống thuốc đã kê trước đó và một bình nước, tôi bắt đầu đi về phía cửa để tiến sâu vào khu rừng phía sau nhà tôi. Tôi lý luận rằng vào thời điểm gia đình tôi thức dậy và tìm thấy tôi thì ý định của tôi đã được thực hiện.
Trước khi mở cửa, tôi đã cầu nguyện "Lạy Chúa, con cho Chúa một cơ hội để ngăn con lại”. Cuốn Kinh thánh của tôi nằm ở trên bàn cạnh cửa và tôi cảm thấy bị thúc đẩy để mở nó ra. Mắt tôi rơi vào bức thư của thánh Phalô gửi tín hữu Galat ở chương 2 câu 19-20:
“Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.”
Tôi đã choáng váng. Những từ này đã xác nhận thị kiến của tôi. Trong thâm tâm tôi thực sự được neo chặt vào Chúa Kirô - nhưng tôi phải sống một đời sống đức tin nơi Con Thiên Chúa, Đấng đã chết trên thập giá và Đấng thấu suốt nỗi đau của tôi. Tôi không thể cả gan làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô nghĩa (Gl 2:21).
Tôi trở lại giường và chìm vào giấc ngủ say. Sáng hôm sau, tôi chia sẻ với chồng tôi cách bàn tay của Thiên Chúa đã dẫn tôi đến một đoạn Kinh thánh cách kỳ diệu khiến tôi không thể hủy hoại mạng sống của mình. Tôi đã nói với George rằng lời Chúa đã nói với tôi trực tiếp như thế nào trong giờ phút tuyệt vọng đó cũng sống động và tích cực như lời của Thánh Phaolô khi ông viết nó. Cả hai chúng tôi đều kinh ngạc khi nhận ra rằng lời Chúa không trở nên trống rỗng với Ngài mà là thực hiện ý muốn của Ngài.
Căn bệnh trầm cảm của tôi vẫn đeo bám tôi trong năm năm nữa và có những ngày tôi cảm thấy đỡ hơn những ngày khác. Nhưng trong suốt những năm đó, tôi vẫn tin chắc rằng tự tử không phải là một lựa chọn. Bởi vì Chúa dẫn tôi đến với thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Galát vào một thời điểm rất quan trọng, tôi có thể dễ dàng tin vào tình yêu và sự can thiệp thiêng liêng của Ngài. Chúa Giêsu đã cho tôi một thị kiến để cho tôi thấy rằng sự đau khổ của tôi có liên hệ với Ngài và để đảm bảo với tôi rằng giống như Ngài, tôi sẽ sống lại. Ngài đã trung thành với lời của mình./.