Nhảy đến nội dung

Món Quà Và Nỗi Đau - Chuyện Lạ Kinh Thánh

MÓN QUÀ và NỖI ĐAU

Chúa Giêsu cho biết: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.” (Ga 15:18) Lời này quen thuộc với chúng ta là những Kitô hữu, nhưng chúng ta cảm nhận được sự chân thực của điều đó khi sự khinh miệt được phơi bày trong tội phạm thánh. Việc phá hoại nhà thờ, ảnh tượng và chế giễu các dòng tu diễn ra thường xuyên. Nỗi đau buồn nổi lên và kêu gào sự hiểu biết và chữa lành. Sau sự phạm thánh, chúng ta tự hỏi: “Tại sao Kitô giáo thường là mục tiêu của sự lạm dụng và tại sao Kitô hữu lại quan tâm sâu sắc đến nó như vậy?”

Không thiếu những lời giải thích thực dụng cho sự báng bổ và phạm thánh. Kitô giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất trên thế giới, nó rất phổ biến trong trí tưởng tượng văn hóa, do đó dễ bị chiếm đoạt và ngược đãi. Sự lạm dụng và bạo lực bất công gây ra nhân danh Chúa Giêsu là điều chắc chắn, đôi khi thậm chí là đúng đắn, đã khiến những người tự nhận là Kitô hữu trở thành chủ đề của sự châm biếm và chỉ trích. Tình cảm này có thể tràn lan thành sự căm ghét chính Chúa Kitô. Giáo lý của Giáo hội xung đột với nền văn hóa thế tục, tương đối về mặt đạo đức, vốn cố gắng hạ thấp và coi thường Chúa Kitô để củng cố chương trình nghị sự của riêng mình. Những câu trả lời thực tế này rất thuyết phục, nhưng cũng có những cân nhắc về thần học cần lưu ý. Có thể có lý do sâu xa hơn khiến Kitô giáo, đặc biệt là đức tin Công giáo, trở thành chủ đề của sự chế giễu và tấn công hay không?

NHẬP THỂ

Trọng tâm của Kitô giáo là Sự Nhập Thể – sự kiện căn bản của Thiên Chúa trở thành con người. Đây là sự đầu hàng của tình yêu: Thiên Chúa mong muốn gặp gỡ chúng ta sâu sắc đến nỗi “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.” (Ga 1:14) Nhiều tôn giáo tuyên bố có thể tiếp cận hoặc hiểu biết về thần thánh, nhưng chỉ có Kitô giáo tuyên bố rằng Thiên Chúa đã trở thành Con Người. Điều này phân biệt Kitô giáo với các tôn giáo khác. Bởi vì Thiên Chúa có thân thể, khuôn mặt và danh xưng, chúng ta có thể ôm lấy Ngài trong tình yêu. Bởi vì Chúa Giêsu đã trở nên giống chúng ta, và chúng ta có thể trở nên giống Ngài.

Sự Nhập Thể đã cho phép chúng ta được Chúa Kitô thần thánh hóa, nhưng nó cũng cho chúng ta cơ hội làm ô uế Ngài. Bởi vì Thiên Chúa đã trở thành Con Người, nên Con Người đó có thể bị lạm dụng. Điều đó đã xảy ra trên đồi Canvê, và nó vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, cả ở quảng trường công cộng và trong trái tim loài người. Một người có thể dễ dàng bị nhắm mục tiêu, được đưa lên trong một cuộc diễu hành rõ ràng hơn là một triết lý hay giáo lý. Bằng cách trở thành Con Người, Chúa đã đặt mình vào tầm ngắm như một chủ đề để khinh miệt và chế giễu. Điều đó không phải là ngẫu nhiên đối với Sự Nhập Thể của Ngài, nó đã được dự đoán và chấp nhận vì lợi ích của tình yêu. Sự báng bổ và phạm thánh có thể được thực hiện một cách nghiêm trọng, bởi vì Thiên Chúa đã trở thành con người.

THÁNH THỂ

Sau khi thân xác nhập thể của Chúa Giêsu thăng thiên, Ngài vẫn ở lại với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể. Vì thế, Bí tích Thánh Thể trở thành đối tượng thù ghét đối với những kẻ chống đối Ngài. Sự phạm thánh đối với Bí tích Thánh Thể là một minh chứng cho Sự Hiện Diện Đích Thực của Chúa Kitô; nếu không, Bí tích Thánh Thể sẽ không phải là đối tượng của hành vi trộm cắp và lạm dụng. Bởi vì Bí tích Thánh Thể không chỉ là một biểu tượng, vì đó là Mình và Máu của Chúa Giêsu, nên nó được đánh dấu riêng cho hành vi tấn công.

Đây là lý do tại sao việc chế giễu Bữa Tiệc Ly, được thấy tại Thế Vận Hội Paris 2024, đã chạm đến người Công giáo sâu sắc đến vậy. Việc thiết lập Bí tích Thánh Thể là khoảnh khắc của món quà thân mật. Khi sự yếu đuối của sự thân mật đó bị lợi dụng, người Công giáo đau buồn. Điều này có thể biểu hiện theo những cách có hại như tức giận, sợ hãi hoặc thu mình, nhưng dù sao thì nỗi đau buồn vẫn có thể hiểu được. Trong những khoảnh khắc này, chúng ta được kêu gọi nhận ra những cảm xúc và noi gương Chúa Giêsu, khiêm nhường đối mặt với bất công, cùng mời gọi người khác gặp gỡ và tôn vinh Thiên Chúa.

KHÔNG SỢ KHI YÊU

Một cân nhắc cuối cùng về lý do sự báng bổ và phạm thánh vẫn tồn tại, đây là lý do: “Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo.” (1 Ga 4:18) Thiên Chúa là tình yêu, và vì tình yêu đó, Ngài đã phơi bày chính mình. Ngài không ép buộc chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài bằng những lời đe dọa hoặc hình phạt, nhưng mời gọi chúng ta chấp nhận và ôm lấy Ngài trong sự tự do. Thế gian không sợ chế giễu và chỉ trích Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài vì Ngài sẽ không trả thù bằng bạo lực trong cuộc sống này. Sự dịu dàng của Thiên Chúa cho phép chúng ta hoang phí, nhưng cũng mời gọi chúng ta khiêm nhường. Trong sự tiếp thu và tôn kính Thiên Chúa, chúng ta sẽ sống trong sự thật về con người chúng ta. Những điều duy nhất chúng ta cần phải sợ là tội phạm thượng và phạm thánh, mà qua đó chúng ta từ chối tình yêu của Thiên Chúa và tự chuốc lấy đau khổ.

Trở lại câu hỏi: “Tại sao hành vi phạm thánh và báng bổ chống lại các Kitô hữu lại được thực hiện một cách trắng trợn như vậy?” Đó là vì chỉ trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa mới trở thành Con Người, và chỉ có một con người mới có thể bị làm nhục. Sự bất công này kêu gọi lương tâm chúng ta, ra hiệu cho chúng ta ăn năn và tận tụy với Thiên Chúa, Đấng đã tự hiến mình vì chúng ta.

Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Đức Giêsu Kitô là Chúa’.” (Pl 2:2-11)

LAUREN MEYERS

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

***********

CHUYỆN LẠ KINH THÁNH

Đám đông vài ngàn người được Chúa Giêsu cho ăn uống no nê chỉ với vài chiếc bánh và vài con cá, họ có thực sự đòi hỏi một phép lạ nào khác để thỏa mãn? Vị tướng giỏi có thực sự chiến thắng nhờ người ta phao tin đồn rùm beng? Vua Babylon có thực sự bò đi khắp nước và gặm cỏ như những con bò sau khi phỉ báng Thiên Chúa?

Kinh Thánh có nhiều chuyện lạ mà nhiều người thích kể lại để chứng tỏ rằng Kitô giáo, Thời Phục Hưng, văn minh Tây phương và niềm tin của các Kitô hữu hoàn toàn dựa vào những chuyện vớ vẩn.

Tại sao Kinh Thánh lại có nhiều chuyện lạ như vậy? Thánh Phaolô nhắc nhở một số người lầm lạc tại Hy Lạp cổ đại: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.” (1 Cr 1:25) Điều đó có nghĩa gì? Thánh Phaolô giải thích: “Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán.” (1 Cr 2:14) Chúng ta xem lại những chuyện xúc phạm nhất:

1. BÀ ÊVA CHO RẰNG BÀ KHÔNG NÓI CHUYỆN VỚI CON RẮN

Bà Êva có ngạc nhiên khi thấy con rắn biết nói? Có, hai ông bà vẫn ngây thơ như trẻ nhỏ, thậm chí họ cũng không hề nhận biết mình “trần như nhộng.” Nhưng Kinh Thánh nói rằng họ vẫn nói chuyện với Thiên Chúa hằng ngày. Vậy tại sao bà lại ngạc nhiên khi con rắn muốn nói chuyện với bà? Hằng ngày, hai vợ chồng trải nghiệm mọi thứ mới lạ: Cảm xúc, âm thanh, ngoại cảnh,... Họ cũng có cảm giác về động vật như chúng ta ngày nay.

Trong thời đại ngày nay, chúng ta biết rằng động vật không thể nói như con người. Hai ông bà ngày xưa không có thời thơ ấu, không có người khác để học hỏi. Vì thế, hằng ngày họ thấy cái gì cũng lạ, rồi tự rút kinh nghiệm. Tại sao bà Êva không nên nói chuyện với con rắn? Dĩ nhiên đây không chỉ là khoảnh khắc trong Kinh Thánh mà con rắn biết nói. Ngôn sứ bất tuân Bilơam (Balaam) đã hoảng hốt khi bị con lừa cãi lại. (Ds 22:21-35) Đó không là điều vô lý khi bà Êva – một phụ nữ dịu dàng, ngây thơ, vô tội – muốn nói chuyện với con rắn, vì bà cũng đâu biết Satan đội lốt con rắn để tách con người ra khỏi Thiên Chúa nhân lành.

2. THỜI CỰU ƯỚC CÓ MỘT NGÔN SỨ “TRẦN NHƯ NHỘNG”

Đó chính là ngôn sứ Isaia. Kinh Thánh cho biết: Vào năm vua Átsua là Sácgôn biệt phái tướng tổng tư lệnh đến giao chiến và hạ thành Átđốt, thì chính lúc ấy, Đức Chúa phán qua trung gian của ông Isaia, con ông Amốc: “Hãy bỏ miếng vải thô ngang thắt lưng ngươi đi, và cởi dép khỏi chân.” Theo lời dạy, ông đã ở trần và đi chân không. Đức Chúa lại phán: “Cũng như tôi tớ Ta là Isaia suốt ba năm trường đã ở trần và đi chân không để nên dấu chỉ điềm báo cho người Ai Cập và người Cút thế nào thì cũng vậy, vua Átsua sẽ dẫn người Ai Cập đi tù và người Cút đi đày, trẻ cũng như già, mình trần, chân không, mông hở. Thật là nhục nhã cho người Ai Cập.” (Is 20:1-4)

Nhưng Isaia có thực sự như vậy? Có, văn sĩ tôn giáo David Jay Jordan cho biết: “Mọi thứ còn thuần khiết, Isaia được Thiên Chúa ban cho ơn nói tiên tri nhưng bảo ông cởi hết đồ ra, đi giữa mọi người, không chỉ một lúc mà suốt ba năm. Đó là lý do khiến Isaia trở nên một ngôn sứ lớn, vì ông không cần biết người khác nghĩ gì, ông chỉ muốn vâng lời Thiên Chúa.”

3. MỘT VỊ TƯỚNG ĐÁNH BẠI VẠN QUÂN NHỜ BINH SĨ ĐỒN THỔI

Khi đoàn quân gồm 135.000 người Midian và Amaléc xâm lăng Israel, Kinh Thánh nói rằng họ “nhiều như châu chấu, lạc đà không thể đếm nổi, nhiều như cát biển.” Theo Bách Khoa Tự Điển Công Giáo, người lãnh đạo Israel là Gideon đã kêu gọi tình nguyện. Chỉ có 32.000 người, nhưng thay vì kêu gọi thêm, Thiên Chúa bảo Gideon cho những ai nhát đảm về nhà – và chỉ còn 22.000 người. Thiên Chúa bảo Gideon đưa mọi người tới con lạch để lấy nước uống – chỉ múc nước bằng một tay, còn tay kia cầm gươm. Và rồi chỉ còn lại 300 người. Những người khác trở về nhà. Nhưng hướng dẫn của Thiên Chúa vẫn hoàn hảo.

Khi quân xâm lăng ngủ, 300 quân của Gideon bao vây doanh trại của họ – mỗi quân Israel chỉ có một chiếc tù và với cây đuốc giấu trong những chiếc bình bằng đất sét. Họ thổi tù và, đập vỡ những chiếc bình, giơ cao ngọn đuốc và hô to: “Lưỡi gươm của Thiên Chúa và của Gideon!” Quân thù thức giấc hốt hoảng thấy khi thấy đuốc sáng và chen lấn ngã đè lên nhau. Trong lúc hoảng hốt, họ chém giết lẫn nhau. Kinh Thánh nói rằng “Thiên Chúa đặt lưỡi gươm của mỗi người đối nghịch với quân thù trong doanh trại.” Trong cảnh hỗn loạn, quân thù tự giết nhau, còn 300 quân của Gideon vẫn thản nhiên. Quả thật, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể.

4. HAI VỢ CHỒNG NGÃ LĂN RA CHẾT VÌ TỘI NÓI DỐI

Sách Công Vụ có câu chuyện về một người tên là Anania (Ananias – theo tiếng Do Thái nghĩa là “Thiên Chúa nhân từ” và bà vợ tên là Saphira (Sapphira – theo tiếng Aram nghĩa là “đẹp”). Sau khi Chúa Giêsu chịu chết, các Kitô hữu phải ẩn trốn vì luật La Mã bắt thờ các thần Jupiter, Venus, Mars, Mercury và Apollo khi Xêda (Caesar) lên ngôi. Các tín hữu góp chung của cải và chia sẻ với nhau. Một hôm, Anania và Saphira bán một thửa đất, nhưng họ giấu, không muốn góp tiền vào của chung. Không có gì sai trong việc này. Tuy nhiên, Anania đến trước nhà thờ, giả bộ góp một số tiền nhỏ. Ông Phêrô hỏi bán được bao nhiêu, nhưng Anania nói dối nên liền ngã chết.

Sau đó, Saphira đến, cũng giả bộ đạo đức và hào phóng. Ông Phêrô cũng hỏi bán được bao nhiêu, cho bà cơ hội sám hối, nhưng bà vẫn cố chấp. Và Saphira cũng lăn ra chết. Lúc đó, toàn thể Hội Thánh và tất cả những ai nghe kể chuyện này đều rất sợ hãi. Sự việc này dạy chúng ta một bài học quan trọng: ĐỪNG GIẢ DỐI. Thật vậy, Chúa Giêsu cũng rất ghét người giả nhân giả nghĩa. Ngài đã nhiều lần nặng lời nguyền rủa: “Khốn cho những kẻ giả hình!” (x. Mt 23:13-32; Mc 12:40; Lc 11:39-48; 20:47)

5. NGƯỜI TỘI LỖI NHẤT ĐÃ GIẬN DỮ NÓI NGƯỜI KHÁC LÀ KẺ TỘI LỖI

Một khi Thiên Chúa không thể tha thứ những kẻ bất tín, Ngài chọn một người tội lỗi để trừng phạt họ. Sử gia Josephus nói rằng vua Babylon là Nabucôđônôxo (Nebuchadnezzar), một con người tội lỗi, đã giết vua Do Thái, khoét mắt người khác, xử tử các trưởng lão Do Thái, bắt nhiều người làm nô lệ,... Theo Bách Khoa Tự Điển Do Thái, trong suốt 18 năm luôn có tiếng từ trời bảo ông ta được Thiên Chúa cho phép tiêu diệt dân Israel, vì “con cái không còn vâng lời Ngài.” Tuy nhiên, vua Nabucôđônôxo cảm thấy lo vì sợ quyền lực siêu nhiên. Chính Thiên Chúa cho vua Nabucôđônôxo thấy rằng Ngài đã can ngăn tay của Tổng lãnh Thiên thần Micae, vị thần hộ mệnh của dân Israel. Vua Nabucôđônôxo vâng lời và tấn công không chút xót thương.

Trên đường tiến về Babylon, các tù binh bị đày bị xiềng xích không được dừng lại một giây phút nào vì ông ta sợ họ cầu nguyện và Thiên Chúa sẽ nhậm lời họ khi họ đã ăn năn. Ông ta chỉ cảm thấy an toàn khi đến bờ sông Êuphơrát (Euphrates), mở tiệc ăn mừng khi các hoàng tử của Giuđa nằm la liệt ở bờ sông. Vua Nabucôđônôxo truyền lấy sách thánh bỏ vào bao, rồi dồn cát vào, và bắt tù nhân phải vác về Babylon. Vua Nabucôđônôxo nhẫn tâm giết hàng ngàn thanh niên vì “tội” điển trai – chính vẻ đẹp trai của họ đã làm say mê các phụ nữ Babylon.

6. TÀU ÔNG NÔÊ KHÔNG CÓ KỲ LÂN HOẶC TÊ GIÁC

Năm 1967, một ca khúc nổi tiếng của Irish Rovers cho biết rằng câu chuyện kỳ lạ về cách ông Nôê không thể thuyết phục mấy con kỳ lân lên tàu vì chúng không muốn đi trong mưa. Nhưng Kinh Thánh nói gì? Ngày xưa có con kỳ lân hay không? Chữ “kỳ lân” xuất hiện trong bản dịch của King James. Ds 23:22 theo bản dịch của King James cho biết: “God brought them out of Egypt; he hath as it were the strength of a unicorn.” (Thiên Chúa đã đưa họ ra khỏi Ai Cập, Người có sức mạnh tựa con kỳ lân.) Tuy nhiên, bản dịch của Douay-Rheims (Công giáo) cho biết: “God hath brought him out of Egypt, whose strength is like to the rhinoceros.” (Thiên Chúa đã đưa họ ra khỏi Ai Cập, Người có sức mạnh tựa con tê giác.) [Theo Anh ngữ, “unicorn” là kỳ lân, “rhinoceros” hoặc “rhinos” là con tê giác, bản Kinh Thánh Công giáo Việt ngữ hiện dùng thì nói: “Người là sức mạnh của nó tựa sừng trâu.” – chú thích của người dịch.]

Kỳ lân, tê giác, hay trâu? Các tác giả cổ dùng chữ “unicorns” – gồm có Aelian, Strabo, Pliny và Tertullian. Marco Polo nói về chuyến đi của ông tới Trung quốc: “Họ có những con voi rừng nhiều con kỳ lân, không nhỏ hơn nhiều so với con voi. Kỳ lân có lông như trâu/bò nhưng chân như chân voi, có ngà đen lớn ở giữa trán. Nhìn chúng rất xấu và dữ tợn.” Thế thì đúng là con tê giác rồi!

7. ÔNG GIÔSUÊ KHIẾN MẶT TRỜI VÀ MẶT TRĂNG DỪNG LẠI

Trong Gs 10:12-14, Thiên Chúa đáp lại người cầu nguyện sốt sắng bằng cách làm cho mặt trời và mặt trăng đứng im để ông Giôsuê có thể hoàn tất cuộc chiến đấu lúc còn là ban ngày, để kẻ thù không thể chạy thoát. Điều này có thực sự xảy ra? Có chứ sao không? Nhưng còn sự phiền toái xảy ra khi trái đất ngừng quay? Giáo sư khoa Cựu Ước Gleason Archer cho biết: “Nếu trái đất ngừng quay một lúc thôi, đúng là đại họa đối với hành tinh của chúng ta. Quyền năng của Thiên Chúa sẽ không cho đại họa như vậy xảy ra, Ngài vẫn giữ cho mọi thứ theo đúng quy luật tự nhiên.”

8. CHÚA CHO ĐÁM ĐÔNG ĂN NO NÊ, NHƯNG HỌ MUỐN CÓ THÊM PHÉP LẠ MỚI TIN

Trình thuật Ga 6:24-30 cho biết rằng đám đông vài ngàn người xin Chúa Giêsu làm phép lạ khác để họ đủ tin. Họ được ăn no nê chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá của một cậu bé, sau đó còn thu được 12 thúng đồ dư. Phép lạ lớn chưa từng có. Thế mà họ vẫn chưa thực sự tin. Chúng ta cũng vậy, chẳng hơn gì họ, vì chúng ta thấy phép lạ xảy ra hằng ngày với chính mình và với người khác, nhưng chúng ta vẫn chưa đủ lòng tin!

9. NGƯỜI MẠNH MẼ NHẤT HÓA YẾU ĐUỐI KHI BỊ PHỤ NỮ CẮT TÓC

Samsôn là nhân vật điển hình về sức mạnh phi thường. Thiên sứ hiện ra với người vợ vô sinh của Manôác (Manoah) và nói rằng đứa con chưa sinh của bà sẽ giải thoát dân tộc, nhưng nó phải kiêng cữ rượu và những thứ có men, kiêng cữ mọi thứ không thanh sạch, không bao giờ cắt tóc. Thật vậy, con trẻ Samsôn có sức mạnh vô song để làm nên các chiến công hiển hách, cứu dân Israel khỏi tay quân Philitinh. Nhưng các việc đó có vẻ chỉ phô trương và gây ấn tượng với các phụ nữ đẹp. Và rồi chính Đalila (Delilah) đã phản trắc vì âm mưu với quân thù, nhõng nhẽo và nịnh hót Samsôn, năn nỉ cho biết bí quyết có sức mạnh. Samsôn nói dối nàng, nhưng không xong. Đalila đã giả vờ khóc lóc để làm xiêu lòng Samsôn.

Cuối cùng, Samsôn cho biết rằng cắt tóc thì sẽ yếu. Khi Samsôn ngủ, Đalila trắc nết và thâm độc đã cắt tóc Samsôn. Khi thức dậy, Samsôn thấy quân thù đã vây quanh mình. Phụ nữ thật là thâm hiểm. Samsôn bị bắt làm trò cười cho thiên hạ và bị bắt làm nô lệ. Bị xiềng xích, Samsôn xin Chúa ban cho ông sức mạnh lại, và Thiên Chúa đã nhậm lời ông. Sau đó, ông đã ôm cột tòa nhà rồi kéo đổ sập. Tất nhiên Samsôn cũng chết trong đó.

10. NGƯỜI LÃNH ĐẠO VĨ ĐẠI NHẤT LÀM PHIỀN CHÚA VÀ PHẢI BÒ MÀ ĐI BẢY NĂM

Sau khi đưa hàng ngàn người Israel tới Babylon và giết hàng ngàn người khác, vua Nabucôđônôxo đã bị cậu bé Đanien vạch trần tội lỗi. Thiên Chúa ban cho Đanien có biệt tài giải mộng. Một đêm, vua Nabucôđônôxo có giấc mơ lạ khiến ông lo sợ. Ông không hiểu, các quan đại thần và những nhà thông thái cũng không thể hiểu. Đanien được nhờ giải mộng: “Ngài sẽ bị đuổi, không được chung sống với người ta, nhưng phải sống chung với thú vật ngoài đồng, phải ăn cỏ như bò, và dầm sương suốt bảy năm ròng rã, cho tới lúc ngài chịu nhận ra rằng Đấng Tối Cao cai trị vương quốc loài người, và Người trao cho kẻ nào Người muốn.” (Đn 4:22) Mọi điều ứng nghiệm đúng như Đanien nói.

Cuối cùng, vua Nabucôđônôxo đã phải thú nhận: “Khi mãn hạn, ta là Nabucôđônôxo, ta ngước mắt lên trời; cùng lúc, ta tỉnh trí lại và chúc tụng Đấng Tối Cao. Ta ca ngợi, tôn vinh Đấng Hằng Sống: Người nắm quyền thống trị muôn đời, vương quốc của Người tồn tại thiên thu. Trước nhan Người, dân cư trên mặt đất đều bị kể như không. Theo ý muốn của Người, Người điều khiển cả đạo binh trên trời, lẫn cư dân dưới đất. Chẳng có ai cản được tay Người. Giờ đây, ta, Nabucôđônôxo, ta ca ngợi, tán dương và tôn vinh Vua Trời, vì mọi việc Người làm đều chân thật, đường lối của Người vốn công minh. Người có quyền hạ bệ kẻ quen thói kiêu căng hống hách.” (Đn 4:31-32 và 34)

TẠI SAO KINH THÁNH ĐẦY NHỮNG “CHUYỆN LẠ” NHƯ VẬY?

Thánh Phaolô nói: “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:18) Thánh Phaolô cho biết thêm: “Tôi biết có một người môn đệ Đức Kitô, trước đây mười bốn năm đã được nhắc lên tới tầng trời thứ ba, có ở trong thân xác hay không, tôi không biết, có ở ngoài thân xác hay không, tôi cũng không biết, chỉ có Thiên Chúa biết. Tôi biết rằng người ấy đã được nhắc lên tận thiên đàng, trong thân xác hay ngoài thân xác, tôi không biết, chỉ có Thiên Chúa biết, và người ấy đã được nghe những lời khôn tả mà loài người không được phép nói lại.” (2 Cr 12:2-4)

Hãy cố gắng khi có thể, nhưng con người không thể khôn ngoan như Thiên Chúa. Từ lâu chúng ta đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, lập nên những luật bí nhiệm để duy trì mọi loài – những điều chúng ta phải tìm hiểu suốt đời. Hãy ghi nhớ điều này: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.” (1 Cr 1:25)

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

Tác giả: