Nhảy đến nội dung

Nghĩ Về Đại Nghĩa Chính Trực Của Một Đời Ngôn Sứ

NGHĨ VỀ ĐẠI NGHĨA CHÍNH TRỰC CỦA MỘT ĐỜI NGÔN SỨ

Nelson Rolihlahla Mandela, sinh ngày 18 tháng 71918 – qua đời ngày 5 tháng 122013 là vị tổng thống vĩ đại của quốc gia Nam Phi từ năm 1994 đến 1999, và là tổng thống Nam Phi đầu tiên được bầu cử dân chủ theo phương thức phổ thông đầu phiếu. Trước khi trở thành tổng thống, Mandela là nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid (chủ nghĩa phân biệt chủng tộc), và là người đứng đầu “Umkhonto we Sizwe”, phái vũ trang của Đảng Đại hội Dân tộc Phi (ANC). Vào năm 1962 ông bị bắt giữ và bị buộc tội phá hoại chính trị cùng các tội danh khác, và bị tuyên án tù chung thân. Mandela đã trải qua 27 năm trong lao tù, phần lớn thời gian là ở tại Đảo Robben. Sau khi được trả tự do vào ngày 11 tháng 2 năm 1990, Mandela đã lãnh đạo đảng của ông trong cuộc thương nghị để tiến tới một nền dân chủ đa sắc tộc vào năm 1994. Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình từ năm 1994 đến 1999, Mandela thường ưu tiên cho vấn đề hòa giải dân tộc.

Tại Nam Phi, Mandela còn được biết tới với tên gọi Madiba, một tước hiệu danh dự mà bộ lạc của ông thường trao cho những già làng. Mandela đã nhận hơn 250 giải thưởng trong hơn bốn thập niên, trong đó có Giải Nobel Hòa bình năm 1993.

Điều vĩ đại ở Nelson Mandela là sau khi ra tù, ông không làm kẻ báo thù mà chủ trương hàn gắn những chia cắt trong lòng đất nước bao năm và hòa hợp dân tộc bằng cuộc đấu tranh mới. Bằng những nỗ lực phi thường, triệt để không khoan nhượng, tháng 9/1992 ông và F.W. de Klerk đã cùng ký kết bị vong lục - bị vong lục thực chất là bản tóm tắt toàn bộ hệ thống cơ chế, chính sách kinh tế, thương mại của một quốc gia, cung cấp các thông tin chi tiết về chính sách liên quan tới thương mại hàng hóa, dịch vụ (NV). Nỗ lực kiến tạo sự hiệp nhất, hòa giải dân tộc, xóa nạn kỳ thị chủng tộc gay gắt trong đời sống Nam Phi là hoạt động cả đời dấn thân của vị nguyên thủ đầy nhân văn này. Mục tiêu hoạt động kiên trì không mệt mỏi của vị này là tìm kiếm con đường hòa giải bằng chân lý. Ai cũng biết làm chánh trị thường phải rất khéo “uyển chuyển” và đôi khi phải dám liều lĩnh “qua mặt” cộng đồng để thực hiện một quyết sách có lợi cho giới cầm quyền. Đối với người tù anh dũng Mandela, hòa giải không thể không đề cập trực tiếp đến sự thật, chấp nhận sự thật và sống chết cho sự thật. Không thỏa hiệp, tương đối hóa, lập luận xoay chiều mà phải chính trực công minh. Nếu tội ác của chế độ Apartheid không được làm sáng tỏ và công lý không được thực thi thì người dân Nam phi sẽ sống trong một nền hòa bình rất mong manh.

Đi tìm công lý bằng tiếng súng sẽ không phải là cách khôn ngoan, chắc chắn quốc gia lâm nguy nên ngài Nelson Mandela đã chủ động đi gặp gỡ những nhà lãnh đạo Africaners, chủng tộc da trắng đang nắm quyền trong chế độ Apartheid để đàm phán về tương lai đất nước. Dân chúng cũng được ngài  thuyết phục giữ bình tĩnh vì lợi ích toàn cục cho quốc gia Nam Phi. Và lịch sử đất nước Nam Phi đã bước sang trang mới. Ngày 10/5/1994, Nelson Mandela trở thành người da đen đầu tiên nhậm chức Tổng thống Nam Phi. Khi đã có trọn vẹn quyền lực trong tay, với cách nghĩ khác hơn, một tầm nhìn nhân văn hơn, người tù năm nào đã đưa ra liệu pháp hóa giải hận thù trong lòng dân tộc có tên “Ủy ban chân lý và hòa giải”.

Trong một thế giới còn đó những cuộc chiến tranh, nghèo đói và áp bức, với lương tri chính trực của mình Nelson Mandela đã chiến đấu để khắc phục những điều gây tranh cãi nhất. Trong suốt hành trình đấu tranh đạo đức và chính trị ấy, ông luôn giữ vững quyết tâm sắt đá, tinh thần kỷ luật và sự điềm tĩnh. Trên môi ông luôn nở nụ cười đầy sức lôi cuốn, tượng trưng cho sự chiến thắng của tự do và công lý, cho đến tận ngày ông ra đi. Cuộc đời của ông bắt đầu từ lý tưởng đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng người da đen, với câu nói còn mãi với mọi thế hệ: “Việc đấu tranh là cuộc sống của tôi. Tôi sẽ tiếp tục chiến đấu vì tự do cho tới ngày mình không còn nữa!”

***

Kinh Thánh viết rằng: “Thời ấy, tiểu vương Hê-rô-đê nghe danh tiếng Đức Giê-su, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: “Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ.”

Số là vua Hê-rô-đê đã bắt trói ông Gio-an và tống ngục vì bà Hê-rô-đi-a, vợ ông Phi-líp-phê, anh của nhà vua. Ông Gio-an có nói với vua: “Ngài không được phép lấy bà ấy.”  Vua muốn giết ông Gio-an, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi ông là ngôn sứ. Vậy, nhân ngày sinh nhật của vua Hê-rô-đê, con gái bà Hê-rô-đi-a đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua vui thích. Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa rằng: “Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả đặt trên mâm.” Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô.

Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gio-an. Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem đến cho mẹ.  Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi báo cho Đức Giê-su. (x. (Mt 14, 1-12, Bản dịch Việt ngữ của Nhóm Phiên Dịch CGKPV).

Gioan Tẩy giả không phải là một nhà hoạt động chính trị hay đảm nhận chức vụ ngự sử quan để can gián vua Hêrôđê. Ông là một tuyệt tác hùng hồn của Thiên Chúa, diễn tả tiếng nói của chân lý và sự sống của Người; Tên gọi “Gioan” của ông do chính Thiên Chúa đặt cho, hàm nghĩa là “Thiên Chúa Thi Ân” ; Bài Tin Mừng kể lại thật chi tiết bối cảnh dẫn đến cái chết của Gioan, với sự tham dự của rất nhiều người, có thể nói của cả một vương quốc. Bởi lẽ chính vua Hê-rô-đê quyết định trảm quyết Gioan, nhưng có rất nhiều người tham gia vào quyết định này : Bà Hê-rô-đi-a, vợ ông Phi-líp-phê, anh của vua, con gái bà Hê-rô-đi-a, và cả triều thần và quan khách có mặt trong bữa tiệc mừng sinh nhật. Gioan bất động và im lặng trong ngục tù, nhưng lại khiến cho tất cả những điều sâu kín nhất của toàn bộ triều thần và hoàng thất biểu lộ hết sức rõ ràng: vô độ, sợ chân lí, ghen ghét, mưu đồ, bạo lực, phi nhân và thú tính. Những điều này thường được che đậy bằng những vỏ bọc vui vẻ, quảng đại, quí phái, danh dự… Gioan đã không khoan nhượng trước sự dữ, những gì thuộc về sự dữ, nhất là vẻ bề ngoài dối trá, triệt để hơn và tuyệt đối hơn nữa, không phải để lên án, chế tài, phạt vạ mà để giải thoát con người khỏi sự dữ và sự chết muôn đời bằng chân lý của Thiên Chúa.

Gioan sống chính nghĩa, dẫu biết chỉ rước họa vào thân khi dám đụng chạm đến lợi ích của đức đại vương Hêrôđê. Vì Gioan là thiên thần cầm gươm luân thường đạo lý, ngài phải chiến đấu sinh tử cho luân thường đạo lý. Vị Thần tướng Gioan Tẩy gải đã tỏ một sức mạnh xứng đáng được Chúa nhìn. Kinh Thánh nhìn những trung quân của Thiên Chúa theo một ý nghĩa rất khác biệt chính sử nghị trường: Dẫu theo nhãn giới người phàm, người gặp đau khổ, nhưng hy vọng của người đã tràn đầy bất tử. Gioan đã dâng hiến cho chân lý toàn thân bằng cuộc khổ nạn và máu hồng của ngài. Hậu sinh có thể lấy niềm vui thiêng liêng khi kính nhớ Đấng đã lấy dấu tử đạo mà kết thúc cuộc đời làm chứng cho Chúa, mở lối vào vương quốc công lý của Thiên Chúa hằng sống.

Bài Kinh Thánh diễn tả rõ ràng Gioan đã phải chịu tù ngục, xiềng xích và phải phó mạng sống mình để chân lý trỗi lên tiếng kèn thúc quân, tiếng trống trận đổ dồn, Ngài đã đổ máu ra vì chân lý, nên cũng có thể nói ngài vì chính nghĩa của Đức Ki-tô. Khi sinh ra, ngài minh chứng Chúa sinh ra; khi rao giảng, ngài làm chứng Đức Kitô sẽ rao giảng; khi thanh tẩy, ngài loan báo Đức Kitô sẽ thanh tẩy; nên ngài chịu khổ nạn vì sự thật để công bố một sự thật về Đấng Cứu Thế sẽ thanh tẩy thế giới bằng máu và bằng chân lý.

Gioan để lại cho đời trang sử anh hùng. Tiếng ngài là tiếng lương tri, là tiếng của sứ giả của Đấng Thiên Sai. Chắc hẳn những người dân Do thái được ngài gột rửa tại dòng sông Giođan rất thương nhớ, nhắc nhớ tên ngài trong nước mắt và niềm tri ân sâu xa.

Ngược hẳn với chính nghĩa của Gioan Baotixita, Hêrôđê đã không còn biết phân biệt sai quấy, hành động tùy tiện việc nước, trác táng thương luân bại lý đến mức không còn biết nhận ra sự thật. Hêrôđê đã cướp vợ của ngay người em mình. Sự loạn luân không thể tha thứ, đã làm cho Gioan Tẩy Giả phải lên tiếng quở trách nặng lời trước hành động vô luân của Hêrôđê và Hêrodias, vợ loạn luân của Hêrôđê. Đúng như lời Kinh Thánh nói: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng…” (x. Ga 1,6-7).

Gioan Tẩy Giả đã phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời ngôn sứ của mình: cái chết. Hêrôdias vì không chấp nhận sự thật, không chịu nổi lời quở trách của vị tiên tri. Nên đã căm thù tìm cơ hội khử trừ vị ngôn sứ đầy uy tín. Mọi chứng nhân của Thiên Chúa, của chân lý, của công đạo đều phải trả giá cho lời chứng của mình. Gioan Tẩy Giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình. Cái đầu rơi xuống là giá rất nặng nề. Với mạng sống đã hy sinh của mình, chắc chắn Gioan Tẩy Giả đã tự xóa nhòa mình để cho Đấng cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại như lời ông đã loan báo: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (x. Ga 3, 30). Lời chứng và cái chết của Gioan đã nói lên sự thật muôn đời là chính nghĩa của đời ngôn sứ đã hoàn toàn hiến dâng cho lời mời gọi của Thiên Chúa: Hiến mạng sống cho công bình và chân lý. Đời người kể có mấy ai…

Ngày xưa, Thiên Chúa đã truyền lệnh cho ngôn sứ Giêrêmia: “Còn ngươi, ngươi hãy thắt lưng. Hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn” (x. Gr 1:17). Thắt lưng, chỗi dậy, nói và không sợ – một loạt các động từ cần thực hiện một lượt. Phải dứt khoát không chần chừ chờ đợi. Nếu những chứng nhân của Thiên Chúa Chân Lý không can đảm “đứng thẳng” theo lời Chúa mà lại “khom lưng” thì lời chứng hoàn toàn phản tác dụng. Niềm kiêu hãnh của đời ngôn sứ không phải là văn hay chữ tốt, lời nói như vàng, phép lạ hằng hà sa số mà sự hãnh diện ấy đến từ Thiên Chúa, chính Thiên Chúa củng cố lời nói và sức mạnh nội tâm của mỗi ngôn sứ chứng nhân của Người: “Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ. Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi” (x. Gr 1:18-19).

Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị chém đầu ở Makêron, gần Biển Chết, do lệnh của vua Hêrôđê Antipa. Khi chết cũng như khi còn rao giảng, Gioan đều làm chứng cho chân lý. Người quả là “ngọn đèn cháy sáng” như lời Đức Giêsu đã nói (x. Ga 5, 35). Gioan Tẩy Giả đã sống để nói lên sự thật và đã chết để bảo vệ sự thật. Ngày nay, sự thật về hiện tình của xã hội, sự thật về thực trạng của từng cá nhân và sự thật về chính mình ít ai dám tuyên bố công khai, ít ai có thể tái diễn vai trò của thánh Gioan Tẩy Giả. Nhưng lệnh truyền của Lời Chúa cho mọi Kitô hữu phải tiếp diễn sứ mệnh của Gioan Tẩy Giả trong mọi hoàn cảnh mình đang sống. Ðó là sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa Giêsu Kitô, Đấng phải đến trong thế gian.

Thi hào Victor Hugo trong bài thơ “Lương tâm” đã mô tả tâm trạng vô cùng đau thương của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Cho dẫu Cain có đi đâu, cho dẫu ông có đào một huyệt sâu trong lòng đất để trú ẩn, ánh mắt lương tâm cũng không bao giờ buông tha cho ông”. Phẩm giá con người là phẩm giá có lương tâm. Lương tâm chính là ánh mắt tinh anh, đầy lửa không ngừng dõi theo con người để thúc giục con người vươn lên tới những tầm mức nhân văn cao thượng. Thảm trạng đau thương nhất của cá nhân cũng như của xã hội chính là tiếng nói của lương tâm bị bóp nghẹt. Xét cho cùng, thảm trạng ấy cũng đồng lõa với việc loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Khi ánh mắt thánh thiện của Thiên Chúa không còn nhìn xuyên qua tâm hồn con người nữa, thì đó là lúc con người đang chết trong tù ngục tâm hồn.

---

Viết tại Nhà Thờ Thới Sơn

Ngày 07/12/2016

Linh Mục P.X Nguyễn Văn Thượng

Gp. Mỹ Tho