Ngụm Nước Bên Bờ Giếng
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Mai Hoa
Người hỏi tên, ngại ngùng tôi đứng lặng.
Ừ nhỉ, làm sao để giữ tôi trong hoài niệm của Người?
Chợt nhớ ngụm nước tôi trao Người giữa cơn khát bỏng
Cho tim tôi đóng chặt trong phong kín quá ngọt ngào.
( Lời Dâng 54, Rabindranath Tagore )
Ngụm Nước Bên Bờ Giếng
Có những lần gặp gỡ sôi nổi ồn ào, hay trang nghiêm kiểu cách, rồi cũng qua đi như cái chớp của chiếc máy ảnh lóe lên, rồi cũng xếp lại trong quyển lưu niệm bỏ quên vào ngăn kéo nào, cho hình ảnh nhạt phai. Cũng có những lần gặp gỡ tình cờ, khoảnh khắc nhưng hình ảnh ấn ghi vào tâm tư mãi mãi là những nét đậm màu, dù thời gian cố tình tẩy xóa. Mới hay, có một điều gì đó thật kỳ diệu, không phải tình cảm, không phải lý trí, nhưng là tâm linh, một ẩn khuất thật gần nhưng diệu vợi như cõi xa xăm, mà mỗi một tâm hồn đều có ngỏ riêng để bước vào…
Buỗi trưa hè, nắng chói chang gay gắt đổ xuống cành cây, ngọn cỏ. Đá sỏi nằm im kéo tấm mền bụi mỏng mong che bớt đi chút nóng rang, mang ngột ngạt bao trùm cảnh vật. Cái nóng như thiêu làm mệt lã người khách đường xa, con đường hun hút trước mặt vẫn thôi thúc người đi tới, nhưng cơn đói cồn cào, cộng ánh nắng ban trưa như thêm một dung rũi cho cơ duyên nào, đã đem người tới dừng chân bên bờ giếng ấy.
Không ai biết ý định nào của người trong những bước chầm chậm, lặng lẽ đến ngồi một mình trên thành giếng. Người biết rõ hơn ai hết đây là đâu, những người nào sẽ qua, sẽ ghé lại, sẽ đặt câu hỏi nơi người, một khách lạ ít khi được niềm nỡ tiếp đón trong phần đất nầy. Nhưng, cũng mặc, định mệnh nào sắp đặt cho người tới đây hôm nay, hay chính người đã chọn điểm dừng chân trên con đường phải đi qua. Trong yên vắng buỗi trưa, chung quanh không còn ai, chỉ có tiếng gió thoảng rì rào và cành lá xạc xào lời trầm mặc, Người ngồi đó, an nhiên, như đã biết trước điều sẽ gặp trong cuộc hành trình tiền định.
Tiếng chân bước lao xao trên sỏi đá, e dè, ngượng ngập, dừng lại phút giây như ngỡ ngàng, rồi cũng lại gần bên bờ giếng. Người đàn bà quê mùa, là một thôn nữ ở đây, ngập ngừng đặt chiếc vò cũ kỷ trên bờ giếng, thinh lặng thả chiếc gàu con mang theo xuống giếng sâu.
- Chị, cho tôi xin chút nước uống !
Tiếng nói làm người đàn bà ngẩng lên, ngạc nhiên vì giọng nói của người khách lạ. Chị biết đây không phải là người cùng quê với chị, nhưng là hạng ngoại bang mà dân chị vẫn khinh khi, xa lánh. Phản ứng tự nhiên, người đàn bà buông thỏng lời chối khéo:
- Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari cho nước uống sao ?
- Nếu chị nhận ra ơn huệ Chúa ban, và ai là người đang nói với chị: Cho tôi chút nước uống; chắc hẳn chị đã xin người ấy ban cho chị nước hằng sống…
Người khách lạ vẫn từ tốn giải bày với nụ cười hiền hòa trên môi, làm người phụ nữ ngờ vực, tò mò vặn hỏi:
- Thưa ông, ông không có gàu mà giếng lại sâu, vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống ? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Gia-Cóp của chúng tôi, là người đã đào cho chúng tôi giếng nước nầy? Chính người đã uống nước giếng nầy, cả con cháu và đàn súc vật của người cũng vậy.
Người khách lạ nhoẽn miệng cười, khoe hàm răng trắng đều như ngọc đã thành một hình ảnh không phai trong tâm hồn người phụ nữ ấy:
- Này chị, ai uống nước nầy sẽ còn khát, nhưng ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.
Câu nói rất lạ, nhưng giọng nói quá chân thành, mà người đàn bà chưa bao giờ được nghe từ bất cứ ai đã như một chấn động xoáy vào tâm tư. Người phụ nữ ngập ngừng giây lát, nhưng một suy nghĩ thoáng qua làm chị phì cười, rồi lắc đầu liếng thoáng đưa gàu nước giếng trong vừa kín được cho người khách đường xa. Nhìn người khách lạ uống từng ngụm nước trong chiếc gàu chị trao, người đàn bà lại cười, bồi thêm câu châm chọc:
- Ông này! Xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước nữa.
Người khách lạ ngước nhìn chị, mắt sắc xảo tinh anh:
- Chị hãy về gọi chồng chị, rồi trở lại đây.
Người đàn bà thảnh thốt, tại sao mới gặp lần đầu mà người ấy hỏi câu hỏi chị đã tránh né biết bao. Chị khổ tâm buộc miệng:
- Tôi… tôi không có chồng !
Nụ cười đã chùng xuống trên môi người ấy, ánh mắt nhìn đi xa vắng, đăm chiêu. Bóng nắng đỗ xuống lao xao, khua mặt nước giếng sâu như vọng tiếng thâm u huyền bí. Người cúi xuống giây lát, rồi ngẩng lên nhìn thẳng vào đôi mắt long lanh, ương ngạnh đến xót xa, của người phụ nữ:
- Chị nói: Tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi và người hiện nay vẫn không phải là chồng chị.
Lời nói như âm ba thầm lặng lay thức, lan rộng xuyên suốt một đời phong ba, trải đổ dưới chân người. Người đàn bà bỗng thấy tâm hồn mình mở toang, tràn trào xúc cảm. Thoáng chốc, những nỗi đắng cay, uất nghẹn bao ngày tháng bỗng đuổi xô, vật vã chen chúc nhau đòi sống lại giữa tâm tư. Nàng muốn khóc, nhưng tự ái của một phụ nữ dạn dày đã ngăn đôi giòng lệ. Vâng, từ sau người chồng đầu tiên, nàng đã thực sự không bao giờ chung sống với ai, tất cả chỉ như những chiếc bóng thoáng qua, chẳng màng giữ lại cho nỗi trống vắng không rời. Tình yêu đó đã một lần đến với chị, rồi cũng qua đi theo bóng người đã khuất mà chị biết không bao giờ có ai thay thế được. Giữa biển đời lừa đảo gian dối, tình yêu chân thành như điểm tựa đã không còn, thành niềm khao khát khôn nguôi trong trọn kiếp hồng nhan. Ngước nhìn Cao Xanh, chị khấn mong Lòng Trời chứng giám cho niềm riêng khi tiếng đời oan khiên, dè bĩu.
Trong lúc còn ngỡ ngàng vì lời nói của người khách lạ, người phụ nữ chợt nhận ra ánh mắt đằm thắm vẫn đang nhìn mình như một xót thương hơn là khiển trách. Ngoảnh mặt đi, tránh tia nhìn thấu suốt tâm can như một cảm thông chân thành, người đàn bà nói khẻ:
- Thưa ông, tôi thấy ông là một ngôn sứ…
Nàng cần biết mấy một tấm lòng bao dung, hiểu biết để dẫn đưa ra khỏi vòng tục lụy, bấy lâu nay nàng vẫn thiết tha tìm kiếm mà chẳng gặp. Trong nàng, lòng mong ước đã thành một khát khao Ơn Ban cứu độ để nàng tin tưởng bám víu vào giữa cảnh đời long đong. Người phụ nữ thành thật hỏi:
- Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi nầy. Còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng…
Người khách lạ lên tiếng ngắt lời:
- Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi nầy hay tại Giêrusalem. Các người thờ phượng Đấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Đấng mà chúng tôi biết.
Con người vẫn thường không phân biệt được Đấng mình thờ phượng là Thiên Chúa thật hay chỉ là ngẫu tượng bề ngoài ầm ỉ nhưng rỗng tuếch vì nơi ấy không có Ơn Cứu Độ. Lầm lạc đem đến biết bao tranh chấp, hỗn loạn vì chà đạp, giày xéo nhau trong thù hận mà không biết chỉ có Tình Thương mới đem lại Cứu Độ thật để nâng dậy con người.
- Nhưng giờ đã đến – Người nói tiếp - và chính là lúc nầy đây, giờ những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những người thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Tinh Thần và theo Chân Lý.
Bàng hoàng, người đàn bà lặng người đi trong nỗi xúc động nghẹn ngào. Người là ai mà nói lời Chân Lý ? Tôi là ai mà Người đã trang trọng giải bày ? Đã hẳn Người biết rõ về tôi, tại sao lời Chân Lý vẫn được Người giảng giải cho một người chẳng đáng. Lời Ngài vừa bảo ban, vừa dạy dỗ cách tế nhị vô song: Thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi nầy hay nơi đền nọ nhưng phải thờ phượng Ngài, trước tiên, ngay chính trong tâm hồn tôi. Con người của tôi phải nên Đền Thờ Thiên Chúa, dù ngay khi tôi chẳng đáng là gì. Ngài đã tin tưởng mãnh liệt rằng: Với Tình Thương và lòng thành thật, Thiên Chúa đã gieo vào lòng người sẽ biến đỗi họ nên lành, nên tốt. Đấy là Niềm Tin của Thiên Chúa vào con người, mãnh liệt hơn cả Đức Tin của con người đặt vào Thiên Chúa. Niềm Tin của Ơn Cứu Độ, hoán cải con người.
Đền thờ không phải bên ngoài, Đền Thờ phải bên trong vì Chúa Cha sẽ tìm kiếm những người thờ phượng Ngài đích thực trong tinh thần và theo Chân Lý. Chính tinh thần mới đem con người trở về đường Chân Lý trong thinh lặng gẫm suy, kiếm tìm Thiên Chúa thật, không để hào nhoáng bên ngoài làm lạc hướng. Tinh Thần mới làm cho Sống, tinh thần đó phải đỗi mới vẹn tuyền, không vướng mắc những ô nhơ bất chính như thế gian, để Đền Thờ Thiên Chúa trong tâm hồn tôi xứng đáng là nơi Chúa Cha, Đấng Hằng Sống ngự đến.
Thiên Chúa đã tin vào con người, dù họ là ai, vì dưới mắt Ngài mỗi người là một nhân vị đáng quí do chính Ngài tạo dựng, có linh hồn hiện hữu chứa đựng sự hiện diện vô biên của Ngài khi Ngài tìm đến họ. Và Ngài cũng tin rằng, với sự hiện diện cao cả đó, tâm hồn con người sẽ biến đỗi trong Ơn Ban chuyễn hóa, để những thấp hèn thành thăng hoa cao thượng như Đấng Thánh Hóa vẫn hằng mang đến cho từng tâm hồn đón nhận Ngài. Ngài không nhìn con người theo bậc thang xã hội bên ngoài vì trong tầm nhìn vĩnh cửu mọi giá trị của quyền thế, giàu sang, hay danh vọng đều giới hạn. Chỉ Tình Thương và lòng thành thật của con người đối với Thiên Chúa của mình, mặc cho loài người một giá trị mới dưới mắt Thiên Chúa mà không một bậc thang xã hội nào với tới được.
Nhãn quan của Ngài là cái nhìn đầy thương xót: Này con, trong tâm hồn con có sự hiện diện của Cha, Cha vẫn đến với con, ở lại trong con vì con đã cầu khẩn Thánh Danh Cha, dù con thấp hèn, bất xứng. Cha là Tình Thương, là Chúa của con, Cha vẫn rất thương tâm hồn nầy, tâm hồn do chính Cha tạo dựng, chỉ có Cha mới thấu hiểu tâm hồn đó giá trị biết bao.
Vì thế, một phụ nữ mà người đời xem thường, lại được Người chọn để trao ban thông điệp sâu sắc về Sự Hiện Diện của Thiên Chúa trong tâm hồn nhân loại, để từ đây con người nhận biết Thiên Chúa mà loài người tôn thờ không phải là Đấng cao xa, nhưng thật là Đấng đang gần gũi ngay trong tâm hồn mỗi người. Thiên Chúa yêu thương con người, là Đấng đã đến với con người, mặc lấy xác thân con người, mang lấy những nghèo nàn của con người, kêu cùng một tiếng than trầm thống của nhân loại khổ đau.
Người đàn bà cúi xuống, kính cẩn thưa:
- Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Kitô sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.
Đức Giêsu đáp:
- Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.
( Viết theo Ga 4, 1-26 )
Mai Hoa