Người cha giàu lòng thương xót
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- JM. Lam Thy ĐVD.
NGƯỜI CHA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT (CN IV/MC-C)
Trong Tông chiếu Dung Mạo Lòng Thương Xót “Misericordiae Vultus” (số 9), ĐTC Phan-xi-cô viết: “Trong dụ ngôn về lòng thương xót, Chúa Giê-su tiết lộ bản tính của Thiên Chúa như một người Cha không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi Ngài đã tha thứ kẻ sai phạm và vượt qua sự từ khước với lòng trắc ẩn và thương xót. Chúng ta biết rõ về những dụ ngôn này, đặc biệt là 3 dụ ngôn: con chiên lạc, đồng tiền bị mất, và người cha có hai người con trai (Lc 15, 1-32). Trong những dụ ngôn này, Thiên Chúa luôn được mô tả là tràn đầy niềm vui, đặc biệt là khi Ngài tha thứ. Nơi những dụ ngôn ấy, chúng ta tìm thấy cốt lõi của Tin Mừng và đức tin của chúng ta, vì lòng thương xót được trình bày như là một lực vượt qua tất cả mọi thứ, làm đầy trái tim với tình yêu và mang lại ủi an qua sự tha thứ.”
Ba dụ ngôn ĐTC nhắc tới trong Tông chiếu là: Dụ ngôn “Con chiên bị mất” (Lc 15, 4-7); dụ ngôn “Đồng bạc bị đánh mất” (Lc 15, 8-10); và dụ ngôn “Người cha nhân hậu” (Lc 15, 11-32). Sở dĩ có chuyện này vì khi thấy “Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." (Lc 15, 1-3). Đó là lý do khiến Đức Giê-su phải kể cho họ nghe 3 dụ ngôn liền. Thông qua 3 dụ ngôn, Đức Ki-tô nhấn mạnh đến hiệu quả của việc sám hối. Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/MC-C) chỉ lược trích có dụ ngôn “Người cha nhân hậu”.
Ở 2 dụ ngôn trước, Đức Giê-su kết luận: “Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” và đến dụ ngôn thứ 3 thì Người diễn tả một cách rõ ràng về hành động ăn năn sám hối của người con hoang đàng: “Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chay ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.” Và chính nhờ vậy mà anh được người cha vui mừng đón tiếp rất nồng hậu: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!” (Lc 15, 20-24).
Là con người thì không ai là không có những thiếu sót, lỗi lầm, “nhân vô thập toàn” là điều hiển nhiên. Vấn đề đặt ra là bản thân có nhìn ra được những sai lầm tội lỗi hay không, và khi đã nhận ra những thiếu sót lầm lỗi, thì có biết ăn năn hối cải hay không. Các cụ đồ Nho ngày xưa, ngoài những giờ giảng dạy môn sinh, thường hay dành một khoảng thời gian trong ngày để “diện bích” (面 壁 : đối diện với bức vách – nhìn vách) để nhìn lại bản thân, tự kiểm điểm. Đó là một phương cách rất hay, cũng giống như nhìn vào gương để thấy rõ được diện mạo của minh, thì nhìn vào tấm vách trống trơn sẽ thấy rõ được chân tướng của mình.
Khi “nhìn lại mình” như vậy, sẽ thấy rõ được cả ưu khuyết điểm. Tuy nhiên, có người chỉ thấy toàn những tội lỗi khuyết tật, và cũng có người chỉ thấy toàn những điều tốt đẹp mà mình có được, và đó chính là 2 thái độ cực đoan: một bên là mặc cảm tự ti quá mức và một bên là tự kiêu ngạo mạn cũng … quá đà! Không tính đến 2 thái độ cực đoan ấy, thì nói chung, khi “nhìn lại mình” con người thấy rõ được sự thật, được chân tướng của mình. Sự thật ấy có thể bị che phủ do những yếu tố chủ quan như tự ái, tự kiêu, tự mãn, định kiến, mặc cảm; hoặc những yếu tố khách quan như dư luận, hoàn cảnh, môi trường sống. Vì thế, cần phải chân thành, khiêm tốn và can đảm mới có thể nhận ra sự thật về chính mình. Và khi đã nhận ra sự thật về mình, thì lại cũng rất cần phải chân thành, khiêm tốn và can đảm bày tỏ sự ăn năn hối tiếc về những sai lầm, tội lỗi đã vấp phạm. Cụ thể hơn, cần phải “nhìn lại mình” (đối diện với chính mình), sẵn sàng sám hối và quyết tâm trở về với chính đạo.
Người con hoang đàng trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” đã nhìn lại mình "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho.” (Lc 15,14-16). Nhờ nhìn lại cái cảnh “muốn ăn cám heo mà cũng chẳng ai cho”, anh đã nhận ra sự thật về tình trạng khốn cùng và bi đát của mình, và chính điều đó thúc đẩy anh trở về làm hoà với Cha. Trái ngược với người con hoang đàng, người anh cả trong dụ ngôn khi nhìn lại mình thì chỉ thấy mình có công hơn là có tội; và vì thế “Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15, 28-30).
Vậy đó! Chỉ là nhìn lại mình mà cũng có lúc thế này, lúc thế khác, có lúc đưa cái tôi lên tận mây xanh thì cũng có lúc nhấn cái tôi xuống tận bùn đen. Và vì thế, cần phải chân thành, khiêm tốn và can đảm mới có thể nhận ra sự thật về chính mình. Khi đã nhìn ra con người thật của mình, thì bước tiếp theo phải là sám hối, tức là ăn năn hối hận vì những lầm lỗi và thiếu sót đã gây ra, dù cố ý hay vô tình. Lòng sám hối chân thành phải gắn liền với quyết tâm thay đổi đời sống như người con hoang đàng tự nhủ: “Tôi sẽ đứng dậy đi về với cha tôi” Khi người con hoang đàng đã biết sám hối và quay về với Cha thì chắc chắn sẽ được người Cha giàu Lòng Thương Xót đón nhận và tha thứ (“Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.” (Lc 15, 18…24).
Người cha trong dụ ngôn chính là Thiên Chúa. Quả thật “Mầu nhiệm thương xót của Thiên Chúa được mạc khải trong lịch sử giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel của Người. Thiên Chúa tự tỏ mình ra như là Đấng mãi mãi giầu lòng thương xót, mãi mãi sẵn sàng xử với dân của Người bằng một lòng âu yếm và cảm thương sâu xa, nhất là trong những giờ khắc bi thảm khi lòng bất trung làm tan nát mối dây giao ước, một mối dây, do đó, cần được củng cố mạnh mẽ hơn trong công lý và trong chân lý. Đây mới là câu truyện tình đích thực, trong đó, Thiên Chúa đóng vai trò của người cha và người chồng bị phản bội, trong khi Israel đóng vai người con và nàng dâu bất trung. Câu truyện tình trên lên cao điểm ở mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa. Trong Chúa Ki-tô, Chúa Cha tràn đổ lòng thương xót vô hạn của Người, thậm chí còn biến Chúa Con thành “lòng thương xót nhập thể.” (Sứ điệp Mùa Chay 2016, số 2).
Cho đến ngày hôm nay, không chi Israel mà là toàn thể những Ki-tô hữu không sống đúng với vai trò và sứ mạng của mình, đã trở thành “người con và nàng dâu bất trung”. Hiểu được vấn đề như vậy, người Ki-tô hữu hãy thành tâm thống hối; đồng thời cũng phải biết thay đổi cách nhìn, cách nghĩ về mình và về mọi người xung quanh; từ đó, thay đổi cách sống với cộng đoàn, từ vị kỷ (vì mình – bảo thủ) sang vị tha (vì người – hoà đồng), từ tư thế đối đầu (đố kỵ, ghen ghét, hận thù) sang đối thoại (bao dung, hoà giải). Nhìn lại mình để thấy được những nhược điểm, những khuyết điểm, mà ăn năn sám hối với quyết tâm sửa chữa sai lầm, bổ sung thiếu sót, và nhất là từ bỏ tội lỗi, để mạnh dạn thay đổi cách sống, biến đổi cuộc đời cho ngày một mới hơn theo chiều hướng đi lên: Ngày một mới, ngày ngày mới, lại ngày càng mới hơn nữa (“nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” – Nho giáo). Sám hối đi liền với canh tân chính là vì thế.
Xét đến cùng, cuộc sống của con người trên thế gian không phải hoàn toàn do những sự việc phát sinh của cuộc sống quyết định, mà là do chính thái độ nhìn sự việc của con người quyết định. Quả thực, muốn hoà giải (với Thiên Chúa, với anh em), thì điều kiện tiên quyết là phải biết nhìn lại mình để thấy được con người thật của mình lúc nào cũng “thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới” (Mt 7, 3). Vâng, chỉ có nhìn lại mình, sẵn sàng “xé lòng” ra mà sám hối, ăn năn về những sai lầm, những vấp phạm của minh, nhiên hậu mới có thể trở về cùng Thiên Chúa và được Người mở rộng vòng tay ân tình ra đón nhận. Nói cách khác, khi chúng ta “xé lòng” ra mà ăn năn sám hối thì cũng ví như ta đã chết đi vì tội lỗi, để được sống lại trong vinh quang Phục Sinh của Đức Ki-tô, Chúa chúng ta (“Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11, 15).
Tóm lại muốn hoà giải với Thiên Chúa và với anh em thì phải biết đổi mới tận gốc rễ con người của minh, mà muốn đổi mới thì phải biết nhìn lại mình để thấy được những sai lầm tội lỗi và quyết tâm thống hối. Cũng bởi vì “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6), nên chỉ còn một cách là hãy biến tất cả những ước muốn hoà giải, những tâm tình sám hối thành hành động cụ thể để thông qua Đức Ki-tô – hiện thân Lòng Thương Xót – mà trở về cùng Cha trên trời, Và cũng chỉ có duy nhất một con đường là hãy đến với Đức Ki-tô “Là Con Thiên Chúa, Người là Chàng Rể sẵn sàng làm mọi sự để chiếm được tình yêu của Nàng Dâu mình, một nàng dâu Người bị cột chặt vào bằng một tình yêu vô điều kiện, một tình yêu trở nên hữu hình trong tiệc cưới vĩnh cửu.” (Sứ điệp Mùa Chay 2016, số 2).
Vâng, xin tất cả “Chúng ta đừng phung phí Mùa Chay này, nó thuận lợi để ta hoán cải xiết bao! Ta xin cho được điều này nhờ lời cầu bầu đầy tình mẫu tử của Nữ Trinh Maria, đấng, nhờ gặp được sự cao cả của lòng thương xót nơi Thiên Chúa, một lòng thương xót được hậu hĩnh ban xuống cho ngài, đã là người thứ nhất thừa nhận sự đớn hèn của mình (xem Lc 1:48) và tự gọi mình là nữ tỳ hèn mọn của Chúa (xem Lc 1:38).” (Sứ điệp Mùa Chay 2016, Kết luận). Ước được như vậy. Amen.
JM. Lam Thy ĐVD.