Nhảy đến nội dung

Người ngay mắc oán - Ý nghĩa nhân hậu

NGƯỜI NGAY MẮC OÁN

Câu thành ngữ “trung ngôn nghịch nhĩ” (Hán-Việt) bắt nguồn từ giai thoại 55 về quân sư tài ba Trương Lương (năm 262 đến năm 189 trước CN). Câu chuyện này được ghi chép trong Sử Ký Tư Mã Thiên – Bộ Sử Ký của sử gia lỗi lạc Tư Mã Thiên (năm 135 đến năm 86 trước CN) gồm hơn 130 thiên, ghi lại giai đoạn lịch sử từ năm 2600 đến năm 86 trước CN.  Câu “trung ngôn nghịch nhĩ” ý nói rằng những lời khuyên chân thành thường nghe không thuận tai và khiến người ta khó chấp nhận.

Đời nhà Hán (năm 206 trước CN đến năm 23 sau CN), Hán cao tổ Lưu Bang sống xa hoa với hàng ngàn cung phi mỹ nữ. Phàn Khoái khẩn thiết tấu trình: “Tâu bệ hạ, ngài thấy trong cung có vô số châu báu và hàng nghìn mỹ nữ. Tất cả những thứ này chính là điều đã làm nhà Tần suy vong. Thần mong bệ hạ lập tức trở về doanh trại, bệ hạ không thể ở lại trong cung.”

Tuy nhiên, Lưu Bang bỏ ngoài tai những lời can gián của Phàn Khoái. Nghe vậy, Trương Lương vẫn dám nói thẳng: “Tần vương sống xa hoa, hung bạo và hủ bại. Đó là lý do dân chúng nổi dậy lật đổ ông ta và đánh bại quân Tần. Bệ hạ vừa mới lật đổ một Tần vương hung bạo bức bách dân chúng.” May thay, Lưu Bang đã nhận ra sai lầm mà quay về doanh trại và chấn chỉnh cách sống.

“Trung ngôn nghịch nhĩ” nghĩa là lời nói ngay thẳng thì nghe chướng tai. Người ta cũng nói “thuận ngôn nghịch nhĩ,” và được Việt hóa thành “nói thật mất lòng.” Thế nhưng “thuốc đắng dã tật” (có người nói là “giã,” “đã” hoặc “đả”) là sự thật minh nhiên. Người dám nói thật là người can đảm, nhưng phải khôn ngoan để phân định nên nói lúc nào, nơi nào và với ai. Nói không đúng lúc, không đúng chỗ và không đúng người sẽ phản tác dụng. Tuy nhiên, PHẢI NÓI THẬT VÌ CÔNG ÍCH chứ không để chứng tỏ “bản lĩnh” hoặc “trình độ” của mình. Và có thể lợi bất cập hại!

Kinh Thánh nhắn nhủ: “Dù phải chết, con hãy phấn đấu cho sự thật, và Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ bênh vực con.” (Hc 4:28) Chính Chúa Giêsu đã nêu gương này, Ngài thường xuyên nói những điều thật khiến người Do Thái lùng bùng lỗ tai, nhất là các kinh sư và nhóm Biệt Phái. Và tấm gương nổi bật về việc bảo vệ sự thật là Thánh Gioan Tẩy Giả, vì ngài đã dám nói thật, dù biết mình sẽ thua thiệt, khi ngài lên tiếng ngăn cản Hêrôđê lấy vợ của người anh – tức là chị dâu của ông ta. (x. Mc 6:17-29; Mt 14:3-12) Đó là loạn luân!

TRẦM THIÊN THU

Ý NGHĨA NHÂN HẬU

Trong các dụ ngôn, “Người Samari Nhân Hậu” là một trong các dụ ngôn nổi bật nhất. Năm này qua năm khác, các linh mục giải thích dụ ngôn này theo các công việc thương xót về thể xác (mặc dù ít linh mục sử dụng thuật ngữ đó). Chúng ta được kêu gọi băng bó vết thương cho đồng loại. Đừng giống như tư tế (giám mục, linh mục) và người Lêvi. Ai là người lân cận của chúng ta? Tất cả mọi người chúng ta gặp.

Cho đến nay, cách diễn giải đó là tốt. Nhưng các Giáo Phụ đã đưa nó đi xa hơn một chút, đi xa hơn bề mặt của dụ ngôn và đào sâu ý nghĩa tâm linh sâu sắc hơn.

Từ Thánh Cyrilô thành Alexandria đến Thánh Origen, từ Thánh Gioan Chrysostom đến Thánh Basiliô Cả, từ Thánh Ambrôsiô đến Thánh Augustinô, các Giáo Phụ đều kiên định một cách đáng ngạc nhiên khi coi dụ ngôn Người Samari Nhân Hậu là bản tóm tắt toàn bộ lịch sử cứu độ và vai trò mà chúng ta được kêu gọi đảm nhận với tư cách là thành viên của Nhiệm Thể Chúa Giêsu Kitô.

Ý NGHĨA DỤ NGÔN

“Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô…” (Lc 10:30-37) “Người kia” là Ađam, tổ phụ của tất cả chúng ta, người đã từ Thiên Đàng (Giêrusalem) xuống Giêrikhô, theo truyền thống được xác định là Mặt Trăng, thiên thể phát triển và suy tàn, chết và tái sinh, và do đó tượng trưng cho con người. Ông “rơi vào tay kẻ cướp,” những tay sai của Satan, hoàng tử của thế gian này, kẻ đã bỏ ông “nửa sống nửa chết” – nghĩa là ông bị tước mất sự bất tử, bị thương trong ý chí, không thể tự cứu mình.

Một tư tế và một Thầy Lêvi, đại diện cho Luật Pháp và các Tiên Tri, đi ngang qua vì họ không thể băng bó những vết thương thực sự của Ngài, không chỉ là vết thương thể xác mà còn là vết thương tinh thần. Chỉ có người Samari, có nghĩa là “người bảo vệ” – tức là Chúa Kitô – từ Giêrusalem trên trời xuống, tay cầm rượu, dầu và băng gạc, để rửa sạch vết thương của con người bằng Máu Khổ Nạn của Ngài, để xoa dịu bằng dầu thánh hóa, để băng bó và làm cho con người trở nên trọn vẹn một lần nữa.

Sau khi làm như vậy, Chúa Kitô đặt con người “trên chính con thú của Ngài,” kết hợp con người qua Phép Rửa với thân xác Ngài đã mặc lấy khi Ngài trở thành con người vì chúng ta, và đưa con người đến quán trọ, tượng trưng cho Giáo Hội, nơi mà những người chưa chịu Phép Rửa không thể vào. Ở đó, Ngài trao cho người chủ quán trọ, người đứng đầu Giáo Hội, hai đồng tiền tượng trưng cho Cựu Ước và Tân Ước, và giao cho người này chăm sóc con người cho đến khi Chúa Giêsu Kitô trở lại vào thời điểm tận thế.

MỜI GỌI ĐỒNG HÀNH

Có lẽ bạn chưa từng nghe một linh mục giải thích dụ ngôn này theo cách của các Giáo Phụ, nhưng khi đến phần kết, giờ đây chúng ta nghe Chúa Kitô truyền lệnh cho chúng ta: “Hãy đi và làm như vậy.” (Lc 10:37) Và lời của Ngài mang một chiều sâu mà chúng không có khi chúng ta nghe dụ ngôn trước đó. Vì chúng ta vừa là người đã đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô và bị cướp tấn công, vừa là người đã kết hợp với Chúa Kitô và được đưa vào Giáo Hội, chúng ta phải trở thành Người Samari Nhân Hậu, phải rửa sạch, xoa dịu và băng bó các vết thương tâm linh của người khác, và đưa họ đến với Giáo Hội để họ cũng có thể “đi và làm như vậy.”

Bề nổi của dụ ngôn – các việc thương xót về thể xác – vẫn được áp dụng, nhưng dụ ngôn trở nên cấp thiết hơn khi chúng ta nhận ra rằng Chúa Kitô đang kêu gọi chúng ta, với tư cách là các chi thể trong Nhiệm Thể Ngài, để kết hợp những người khác với Ngài, đưa họ đến với Giáo Hội của Ngài, và hướng dẫn họ: “Hãy đi và làm như vậy.” (Lc 10:37)

SCOTT P. RICHERT

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

Tác giả: