Nhân lễ giỗ lần thứ 36 Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền
- T7, 07/12/2024 - 04:49
- Lm Phan Văn Lợi
ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC
PHILIPPHÊ NGUYỄN KIM ĐIỀN
CHỨNG NHÂN CỦA SỰ THẬT VÀ LẼ PHẢI
(1921-1988)
“Đã có những Giám mục bị tù vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh.
Nay có Giám mục nào bị tù vì bênh vực quyền lợi của con người chăng?”
(Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, năm 1971)
Kỷ niệm 20 năm ngày qua đời của vị Giám mục Chứng nhân
08-06-1988 ** 08-06-2008
Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
****************************************
MỤC LỤC
Lời dẫn nhập của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
1- Thư Chung gởi Tổng Giáo phận Huế ngày 01-04-1975.
2- Lời phát biểu ngày 09-04-1975 trong lễ ra mắt của UB Mặt trận Dân tộc Giải phóng tp Huế.
3- Lời phát biểu ngày 28-02-1976 về vụ Vinh Sơn, xảy ra tại quận 10, Tp Sài Gòn.
4- Lời phát biểu ngày 15-04-1977 nhân vụ 6 vị sư PGVNTN tại Sài Gòn bị bắt tù.
5- Lời phát biểu ngày 22-04-1977 tại trụ sở UB Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh BTT.
6- Thư gửi Mặt trận TQVN tỉnh Bình Trị Thiên ngày 27-10-1977 (phúc đáp Nhận định của Mặt trận TQVN Tp HCM ngày 06-08-1977).
7- Văn thư khẳng định quyền tự do điều hành chủng viện và đào tạo Linh mục ngày 17-05-1979 (phúc đáp Quyết định của chính quyền ngày 16-03-1979)
8- Văn Thư xác định về Tiểu chủng viện Hoan Thiện ngày 15-12-1979 (phúc đáp Quyết định của chính quyền ngày 13-12-1979)
9- Thư gửi Linh mục Nguyễn Thế Vịnh, chủ tịch UBLL Công giáo toàn quốc ngày 19-10-1983.
10- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 19-03-1984
11- Kinh cầu cho Đức Giám mục Giáo phận (không ghi ngày)
12- Thư gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Quốc Hội CSVN ngày 11-04-1984.
13- Thư Chung gởi Tổng Giáo phận Huế ngày 17-10-1984
14- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 24-10-1984
15- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 10-05-1985
16- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 20-05-1985
17- Thư Chung gởi Tổng Giáo phận Huế ngày 19-10-1985
18- Di chúc gởi Tổng Giáo phận Huế ngày 08-11-1985
19- Thư gửi UBND dân tỉnh Bình Trị Thiên ngày 03-07-1986 về vụ án Nữ tu Trương Thị Lý
20- Thư gởi ông Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư ĐCSVN ngày 25-3-1988.
--------------------------------------------------------
21- Lòng người ngoại đạo (Từ Tâm, 08-06-1988)
22- Hình ảnh người cha: Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền (Gs Nguyễn Lý Tưởng, 08-06-1998)
23- Lời Chứng về cái chết của Đức TGM Ng. Kim Điền (Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý, 30-01-2001)
24- “Tinh thần Philipphê” hay lời tâm sự với Đức Cố TGM (Lm Phêrô Phan Văn Lợi, 03-06-2002)
25- Cố TGM Nguyễn Kim Điền sống là bậc Đại sĩ, chết là đấng Tử đạo (Lý Đại Nguyên, 06-2002)
26- Vị Giám Mục uy dũng: Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền (Nguyễn An Quý, 08-06-2003)
27- Tưởng niệm Đức TGM Nguyễn Kim Điền (Hòa Ái, 08-06-2003)
28- Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền (Lê Thiên, 4-2005)
29- Con đường đối thoại của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền (Đỗ Mạnh Tri, 29-04-2005).
30- Tổng GM Nguyễn Kim Điền, một niềm tin sắt son không dời đổi (Trần Phong Vũ, 04-2005)
31- 1975-1988: Giai đoạn Đức TGM Phil. Nguyễn Kim Điền (Lm P. Phan Văn Lợi 18-07-2005)
32- Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền, người Tiểu đệ khó nghèo (Thi Chương, 13-11-2005)
33- Nhớ lại lúc được tin Cố TGM Nguyễn Kim Điền chết (Nguyễn An Quý, 08-06-2006)
34- Lòng dũng cảm của Đức Tổng Giám Mục Philipphê (Lm Augustinô Hồ Văn Quý, 06-2007)
35- Trên cánh đồng vàng (Hoàng Chinh Nguyên, 08-06-2008)
****************************************
Lời dẫn nhập của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
Thấm thoát đã 20 năm trôi qua kể từ ngày Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền từ giã thế gian để đi về cùng Thiên Chúa, từ giã Tổng Giáo phận Huế thân yêu trong tư cách một chủ chăn để đi vào lịch sử Giáo hội và lịch sử Dân tộc như một chứng nhân cho sự thật và lẽ phải.
Từ chứng, sinh chứng và tuẫn chứng của ngài đã lưu lại mãi mãi giữa chúng ta, đúc kết qua câu nói thời danh ngài từng phát biểu tại Thượng hội đồng Giám mục thế giới bàn về Công lý trên thế giới ngày 19-10-1971: “Jam sunt Episcopi qui incarcerantur propter defensionem jurium Ecclesiae. Eruntne incarcerati propter defensionem jurium hominum?” (Đã có những Giám mục bị tù vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh. Nay có Giám mục nào bị tù vì bênh vực quyền lợi của con người chăng?). Một câu nói mà có lần được hỏi sau năm 1975 rằng: “Đức Cha có nghĩ là sẽ có ngày chính mình phải thực hiện nó không?”, thì Ngài đã trả lời: “Nếu Chúa thương cho mình phải thực hành lời đó thì có hạnh phúc nào bằng! Xin cầu cho tôi được như vậy!” (Thư gởi đài Vatican ngày 19-03-1984). Và quả là ngài đã được như ý nguyện!
Cái gì đã đưa Đức TGM Philipphê đến một số phận vừa đau thương nghiệt ngã, vừa cao cả vinh quang như thế, khác hẳn hầu hết các đồng liêu của ngài kể từ 1975 đến hôm nay?
Đó là cả một quá trình dài mà chúng ta có thể khám phá ra các giai đoạn qua các bản văn ngài để lại, kể từ Thư Chung gửi Tổng Giáo phận Huế ngày 01-04-1975 đến Thư gởi Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh ngày 25-3-1988, 3 tháng trước khi lìa đời. Khởi từ một thái độ hết sức chân thành, cởi mở, thiện chí, sẵn sàng cộng tác với chế độ mới (bằng cách thiết tha kêu gọi Linh mục, tu sĩ, giáo dân trong Giáo phận mình dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi úy kỵ đối với nhà cầm quyền “cách mạng” và dấn thân để cùng nhau xây dựng lại quê hương sau những năm dài chinh chiến), Đức TGM đã dần dần chuyển qua một nỗi thất vọng não nề và một thái độ cương quyết độc lập theo nguyên tắc Đức Gioan-Phaolô II đã mách cho (Collaborer en résistant = cộng tác trong khi đề kháng, vừa cộng tác vừa đề kháng, cộng tác bằng cách đề kháng) chỉ sau hai năm thôi, lúc CSVN đã lột mặt nạ, hiện nguyên hình là một chế độ toàn trị độc tài, đè bẹp tiếng nói của tôn giáo và nhất là muốn công cụ hóa các Giáo hội. Đang khi mọi người nơm nớp nhất trí, nói theo, dù một chút thắc mắc cũng không dám bày tỏ, thì Đức TGM đã ung dung, nhẹ nhàng nêu lên tiếng nói của lương tri, của lẽ phải, của sự thật, của Tin Mừng. Đang khi hầu hết các đồng liêu không hay chưa thấy rõ mối nguy của một tổ chức lũng đoạn, phân hóa Giáo hội do CS dàn dựng là Ủy ban Đoàn kết Công giáo, thì Đức TGM đã cương quyết không chấp nhận sự hiện hữu của nó trong Giáo phận ngài. Ngoài ra, ngài cũng lên tiếng khẳng định quyền độc hữu của Giáo hội trong việc tổ chức chủng viện, đào tạo chủng sinh, tấn phong và bổ nhiệm linh mục. Đây không chỉ là việc bênh vực cho quyền lợi và tự do của tôn giáo, của Giáo hội, mà còn là bênh vực cho quyền lợi và tự do của công dân, của con người.
Thái độ này trước quyền lực chuyên chế đương nhiên là phải trả giá. Vị Mục tử bị tách biệt khỏi đoàn chiên. Vị Bản quyền bị ngăn cách khỏi các cộng sự. Vị Đại diện Giáo hội địa phương bị cấm cản gặp Lãnh đạo Công giáo hoàn vũ. Và đòn thù cuối cùng là vị Chứng nhân phải bị bịt miệng vĩnh viễn trên cõi đời này bằng một cuộc thủ tiêu hèn hạ trong bệnh viện. Thế nhưng -Cộng sản không ngờ- cái chết tử đạo đó đã làm cho lời nói và cuộc sống của Đức TGM càng thêm ngời sáng, hữu hiệu, trường tồn vĩnh viễn.
Vị Giám mục Công giáo nay vừa trở nên Chứng nhân của Thiên Chúa và Con yêu của Giáo Hội, vừa trở nên Chiến sĩ của Nhân quyền và Anh hùng của Dân tộc, những tước hiệu mà hầu hết mọi lãnh đạo tinh thần đúng nghĩa trong các chế độ độc tài, nhất là độc tài CS, đều đã giành được.
Kỷ niệm 20 năm cuộc ra đi của Đức Cha Nguyễn Kim Điền, chúng tôi muốn gởi đến Quý vị những bản văn tiêu biểu nói lên tinh thần của vị Giám mục uy dũng cũng như những bài viết của nhiều tác giả đã lột tả được tinh thần này, với lòng mong ước tinh thần đó sẽ thấm nhập mọi tín hữu Công giáo Việt Nam hôm nay, dù thuộc đấng bậc nào, để tất cả thể hiện lời Đức Phaolô VI đã nhắn nhủ: “Làm Kitô hữu trong thời đại này (đặc biệt trong chế độ CS vô thần độc tài) mà không chịu gian khổ thì không thể thành Kitô hữu đích thực”.
Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền.
Tập sách được chia làm hai phần, và các bản văn được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Chúng tôi xin đặc biệt cảm ơn Giáo sư Đỗ Mạnh Tri, Pháp, đã cung cấp cho nhiều tài liệu quý giá.
****************************************
1- Thư chung gởi Tổng Giáo phận Huế ngày 01-04-1975
Kính thưa các linh mục, tu sĩ nam nữ và toàn thể anh chị em tín hữu thân mến,
Chiến tranh đã chấm dứt trên Giáo phận Huế. Đó là điều chúng ta mong ước và cầu nguyện từ 30 năm nay.
Thời gian sống trong hãi hùng lo âu qua rồi. Thời gian đồng bào chúng ta nghi kỵ, chia rẽ, thù hận nhau, có khi đến chém giết nhau đã qua rồi. Chúng ta hãy cùng nhau cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân quý giá này. Chúng ta hãy ghi ân tất cả những ai đã hy sinh để có được những ngày an bình hiện nay. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa cho cảnh thanh bình nầy còn mãi trên quê hương chúng ta !
Giờ đây đã đến lúc chúng ta hoan hỷ sẵn sàng và hăng say cộng tác với mọi người thiện chí, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ Cách mạng để xây dựng lại quê hương sau bao đổ vỡ tang tóc, hầu đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ruột thịt.
Hơn bao giờ hết, đây là lúc chúng ta cần đoàn kết, yêu thương và phục vụ người khác, giúp đỡ và chia sẻ cơm áo với đồng bào ; không phải chỉ chia sớt những gì mình dư thừa, mà còn trao nhường những gì mình chỉ có vừa đủ, theo tinh thần bác ái của Chúa Giêsu mà mọi người thiệ chí và mọi chính quyền trên thế giới quyết tâm thực thi mỗi ngày mỗi hoàn hảo hơn. “Này là lệnh truyền của Ta : các con hãy thương yêu nhau, như Ta đã yêu thương các con” (Gioan 15,12). Vì yêu chúng ta, Chúa đã chết cho chúng ta, thì còn gì mà chúng ta không làm được để tỏ lòng yêu mến nhau ?
Giờ đây, chúng ta hãy khoan dung, tha thứ mọi lỗi lầm, đừng nghi ngờ, thù hận ai và gây sợ hãi cho ai. Nhưng trái lại, phải hiểu tốt, thông cảm và nhìn nhận thiện chí của người khác, để tất cả mọi người sống thoải mái, vui tươi, hạnh phúc của những công dân trong chế độ tự do dân chủ, thịnh vượng và hoà bình. Lý do là vì mọi người đều là anh em có cùng một Cha trên trời (x. Matt. 23,9).
Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy sống Phúc Âm của Chúa Giêsu cho đến tận cùng : “Con người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Matt. 20,28).
Nhưng hơn hết, chúng ta phải sống đời tâm linh, đạo đức và thánh thiện để đạt tới đời sống vĩnh cửu, khi thân xác này trở về với cát bụi. Chúng ta phải cùng nhau xây dựng thế giới huynh đệ đại đồng cho hôm nay, nhưng không phải dừng lại đó, mà để nhờ đó chúng ta đạt tới đời sống huynh đệ trường cửu. Bấy giờ chúng ta mới thật là anh em của nhau không thể chia lìa được và cùng nhau hưởng hạnh phúc bất diệt trong Thiên Chúa.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi ban mọi phúc lành cho anh chị em.
Huế ngày 01 tháng 04 năm 1975
Nguyễn Kim Điền
Tgm Giáo phận Huế.
2- Lời phát biểu ngày 09-04-1975
trong lễ ra mắt của Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế
“Ở đời này, không có gì quý hơn mạng sống con người, không có gì quý hơn độc lập tự do. Bao nhiêu mạng sống con người được bảo tồn, nếu chiến tranh chấm dứt sớm đi một ngày. Chiến tranh đã chấm dứt trên một phần lớn của quê hương chúng ta. Độc lập hôm nay là một sự thực cho cố đô Huế.
Còn tự do thì Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã long trọng bảo đảm cho toàn thể đồng bào, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng cho đồng bào các tôn giáo.
Mạng sống của con người, độc lập của đất nước, tự do của nhân quyền được bảo đảm, như vậy niềm vui mừng của chúng tôi, của những người công dân công giáo Việt Nam yêu nước, được trọn hảo.
Như vậy, đồng bào công giáo nguyện tích cực góp phần với tất cả đồng bào ruột thịt để cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng xây dựng một xã hội đầy tình thương, tự do, dân chủ, thịnh vượng, hoà bình, trong đó chúng tôi được chu toàn bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa”.
3- Lời phát biểu ngày 28 tháng 02 năm 1976
về vụ Vinh Sơn, xảy ra
tại quận 10, Thành phố Sài Gòn
Kính thưa Quý Vị,
1/ Theo tin tức của báo chí và đài phát thanh trong nước cho biết về vụ VINH SƠN, xảy ra từ 19 giờ ngày 12 đến 8 giờ 30 ngày 13-02-1976, tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi rất xúc động và đau xót. Không bao giờ chúng tôi chấp nhận một hành động phạm pháp như vậy.
2/ Ngay từ đầu, Chánh quyền Cách mạng sáng suốt và tế nhị đã tách rời sự việc xảy ra này với sinh hoạt tôn giáo, tránh được những hiểu lầm và hậu quả có thể do đó mà ra. Chúng tôi chắc rằng đồng bào thân yêu cũng sáng suốt, không ai lại có thể nghĩ vụ Vinh Sơn là chủ trương của tôn giáo.
3/ Nhân dịp này, chúng ta lại có thêm một bằng chứng hùng biện nữa cho thấy Chánh quyền Cách mạng đã sáng suốt chủ trương Chánh sách “Hòa hợp Dân tộc” trong việc Thống nhất Nước nhà. Tuy nhiên, trong thực tế, ai cũng đều nhận là việc thống nhất ý chí và tình thương giữa đồng bào với nhau là một công tác khó khăn nhưng cấp thiết mà mỗi người chúng ta phải thực thi cho kỳ được trong lúc này. Ý thức bổn phận trước mắt đó, đồng bào công giáo chúng tôi quyết tâm thực hiện tốt Chánh sách “Hòa hợp Dân tộc” của Chánh quyền Cách mạng, chính mình thực thi và động viên mọi người cùng thực thi tình ĐẠI ĐOÀN KẾT, để chóng hoàn thành Thống nhất Tổ quốc về mọi mặt, nhất là về mặt nhân tâm.
4/ Sau cùng, chúng tôi minh xác lại lập trường của đồng bào công giáo Thừa Thiên-Huế-Quảng Trị chúng tôi là luôn luôn nỗ lực tối đa để phục vụ Tổ quốc và Thiên Chúa, bằng làm thật tốt bổn phận công dân yêu Nước và bổn phận công giáo phượng thờ Thiên Chúa. Hai bổn phận này, đối với chúng tôi, vẫn là một không thể tách rời nhau, như không thể tách rời xác với hồn của một con người vậy.
Chúng tôi xin hết lời và cảm ơn Quý vị.
Huế, ngày 28 tháng 02 năm 1976
T.M. Đồng bào Công giáo
Thừa Thiên - Huế - Quảng Trị
Ph. Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám mục
(Phát biểu trong buổi họp mở rộng gồm các Vị Đại diện Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Thừa Thiên-Huế, Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế, các đoàn thể quần chúng, các Giáo hội Phật giáo, Tin lành, Cao đài và Công giáo Thừa Thiên-Huế, tại Trụ sở UB MTDTGP thành phố Huế, chiều ngày 28-02-1976).
4- Lời phát biểu ngày 15 tháng 04 năm 1977
nhân vụ 6 vị sư PGVNTN tại Sài Gòn bị bắt tù
Kính thưa đoàn chủ tịch
Kính thưa các vị đại biểu,
Tôi mới nghe biết vụ này qua Thông báo của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và sự trình bày của ông ủy viên Mặt trận Tổ quốc (VN) tỉnh vừa rồi thôi. Tôi cũng vừa nghe ông Trần Văn Long phát biểu và đề nghị phải có biện pháp mạnh cho vụ xảy ra đó và phải phổ biến sâu rộng; đang khi Thượng tọa Thích Thanh Trí thì xin Chính quyền khoan hồng cho Tội nhân và nghĩ rằng phổ biến vụ này phổ biến vụ này như hôm nay đây có đầy đủ đại diện các giới đủ rồi.
Phần tôi không có ý kiến. Xét xử là việc của chính quyền, xin để chính quyền định liệu.
Tôi xin chia buồn và thông cảm với tôn giáo bạn. Vì chính tôi đã trải qua cái cảnh tượng như vậy trong vụ Vinh sơn. Chắc chắn, không ai trong chúng ta có mặt hôm nay chấp nhận việc làm như bản thông báo kể lại đó. Tuy nhiên, không khỏi xót xa khi vụ đó liên can đến người cùng tôn giáo với mình. Biết ăn nói làm sao đây! Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!
Nhưng đây là một biến cố thôi, và các biến cố tương tự có thể còn sẽ xảy ra, nếu không trừ tận gốc. Theo thiển ý của tôi, nếu còn tựa vào tôn giáo để xách động này khác, là vì chưa có tự do tín ngưỡng thực sự đó thôi. Thực sự, tôi chưa cảm thấy thoải mái về tự do tín ngưỡng.
Chính quyền nhiều lần tỏ ý muốn là nếu có chi không thỏa mãn thì nên nói ngay với cơ quan trách nhiệm, thay vì tung tin trong quần chúng hoặc rỉ tai này nọ, thì hôm nay, hết sức chân thành, tôi xin nói lên điều này với Mặt trận Tổ quốc tỉnh và thành. Mong đừng ai nghĩ như vậy là phản động. Thú thật, nghe hai tiếng “phản động” tôi ớn lắm, và cũng không biết ngày nào mình phải mang hai tiếng ấy. Tôi muốn 2 điều thôi: là tự do tín ngưỡng và bình đẳng trong quyền công dân.
* * *
Hồ chủ tịch đã nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Câu nói ấy rất chí lí, rất sáng suốt.
Tuy nhiên, đoàn kết trên cơ sở nào đây ? (ngừng giây lát) và đoàn kết bằng những nhân tố nào? (ngừng giây lát). Theo tôi nghĩ thì chắc chắn phải đoàn kết trên cơ sở TÌNH DÂN TỘC, và bằng những nhân tố: biết, hiểu để thông cảm nhau, thì mới có đoàn kết.
Biết, có nhiều cách biết. Biết khách quan hoặc biết chủ quan. Biết chủ quan thì chắc chắn là không khoa học và cũng không thông cảm nhau được. Thú thực, chắc tôi không dám trình bày về các tôn giáo bạn, về giáo lí, vì tôi sẽ nói không đúng, tôi càng không dám nói về Đảng hơn nữa, vì chỉ có Đảng viên họa may mới nói đúng về đảng của mình. Bằng chứng là ở trong nhiều cuộc họp hay học tập, tôi nghe nói về Đạo Công giáo mà không đúng gì cả, gán cho những ý nghĩa hay mục đích mà từ trước tới giờ, tôi chưa bao giờ nghe dạy trong đạo Công giáo. Do đó, phải biết và biết đúng, biết khách quan. Mà chỉ có người trong cuộc mới nói đúng việc của mình. Vậy tôi xin nói lên ý nghĩ của Công giáo về 2 điều trên
Thứ nhất: Về Tự do tín ngưỡng.
Thú thật, sau ngày giải phóng, khi nghe Nhà nước có chính sách Tự do tín ngưỡng, là tôi hết sức mầng, hết sức phấn khởi, như những lời phát biểu đầu tiên của tôi. Nhưng 2 năm qua rồi, tôi cảm thấy không thoải mái, vì chưa có tự do tín ngưỡng thực sự.
Các nghi lễ bị hạn chế, các linh mục không được đi lại phục vụ đồng bào Công giáo, như ở vùng kinh tế mới. Một vài nhà thờ bị cấm lễ lạc hay bị chiếm cứ.
Tôi rất hoan nghênh Nhà nước đã rất sáng suốt chủ trương Chính sách tự do tín ngưỡng. Điều đó rất rõ ràng trong 5 Sắc lệnh và Thông tư về tôn giáo. Nhưng đó là văn bản. Còn các khẩu lệnh (lệnh miệng thôi) thì nhiều khi trái ngược với tinh thần văn bản. Trong trường hợp đó, xin hỏi tôi phải nghe theo ai đây? Cứ theo văn bản hay nghe khẩu lệnh? Tôi xác tín là chính sách không sai, nhưng khẩu lệnh lại là của nhân viên chính quyền. Chắc tôi không nên đồng hóa nhân viên làm việc sai lệch với chính quyền.
Về Nhà thờ, các nơi thờ phượng, thì tôi xin phép so sánh như vầy. Cái gì là quí nhất của đất nước chúng ta hôm nay? Thiết nghĩ là các bảo tàng và lăng Hồ Chủ tịch. Các phái đoàn bạn hữu ngoại quốc, nếu không có thì giờ đi xem các bảo tàng thì ít ra cũng phải đến viếng lăng Hồ Chủ tịch. Giả sử ngày nào đó lăng Hồ Chủ tịch bị chiếm, bị dùng vào một việc gì khác, thử hỏi có người Việt Nam nào chịu như vậy không? Tôi thì không chịu được đó và cá nhân tôi sẽ xin xung phong cùng đi giải thoát. Thì Nhà thờ của Công giáo cũng vậy, lớn nhỏ, xấu tốt gì thì cũng là nhà đã dâng cho Thiên Chúa rồi.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Đại hội toàn quốc họp tại Thành phố Hồ Chí Minh đầu tháng hai vừa rồi có chủ trương: “Bảo hộ Nhà chùa, Nhà thờ, Thánh thất đang dùng làm nơi thờ cúng của các tôn giáo”.
Về các lễ nghi thờ phượng, từ 2 năm qua, chúng tôi đã sắp xếp không làm trong giờ lao động sản xuất. Có lẽ có người cho là thiệt hại sức khỏe, mất sức lao động, nếu thay vì nghỉ ngơi, còn phải tham dự lễ nghi tôn giáo. Lí lẽ đó có thể đúng cho Nhà nước khác, mà không đúng cho nước chúng ta. Bằng chứng là lính Mỹ và binh sĩ của chế độ cũ ăn ngủ dữ lắm, đủ tiện nghi, đủ phương tiện. Nhưng chúng ta đã thắng. Tôi được nghe ông Phó chủ tịch Tống Hoàng Nguyên đây (đang điều khiển buổi họp này) kể lại những gian lao thiếu thốn của chiến sĩ ta ở Trường Sơn, tôi nghe mà rướm lệ thật, nhưng những chiến sĩ này đã thắng! Thắng vì không phải ăn no ngủ đủ, mà vì có tinh thần, có lý tưởng. Thì người cùng tôn giáo chúng tôi cũng vậy, tinh thần chúng tôi thoải mái thì mới phục vụ đắc lực được.
Nhưng 2 năm qua rồi, chúng tôi cảm thấy chưa có tự do tín ngưỡng.
Thứ hai: Về bình đẳng trong quyền công dân.
Trong hai năm qua, thú thật người Công giáo chúng tôi cảm thấy làm sao á! Ở đâu, làm gì cũng bị nghi ngờ, chèn ép.
Học sinh ở trường thì cứ nghe những bài chống đối Công giáo, mạ lị Công giáo. Thực thì có những sai lầm trong các thế hệ, nhưng thiết nghĩ góp nó lại và so sánh với 2000 năm lịch sử Công giáo, thì có thấm vào đâu với những việc tốt và đúng mà không được nói tới. Đàng khác, thời đại nào, kỷ cương nấy. Đem một việc của thời đại xa xưa mà phán đoán theo tầm mắt hiện giờ, thì chắc là không khoa học đó.
Trong giới công nhân, công viên chức bệnh viện hay giáo viên, thường người Công giáo được cho là tiên tiến, nhưng chắc rồi cũng không làm việc được, vì là Công giáo. Đi xin làm việc, hoặc bị từ chối, hoặc gặp khó khăn trong việc làm, muốn biết căn do, thì được rỉ tai cho biết là bỏ đạo hay đừng đi Nhà thờ nữa sẽ êm xuôi.
Thực như lời phát biểu của một ủy viên của Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp tại thành phố Hồ Chí Minh vừa rồi đó, thì người Công giáo có cảm tưởng mình là công dân hạng hai vậy.
Nhà nước thì chủ trương mọi người đều bình đẳng, mọi dân tộc trong Đất nước bình đẳng. Nước Việt Nam chúng ta có 50 triệu dân. Người Kinh 45 triệu. Gần 60 dân tộc ít người là 5 hay hơn 5 triệu. Người công dân Công giáo tối thiểu là 3 triệu, mà không được bình đẳng trong quyền công dân.
Trong hai năm qua, người Công giáo trong tỉnh nhà có cố gắng nhiều, chính quyền cũng thấy đó. Về lao động cũng không có gì chê trách. Về bầu cử hình như được cho là có kỷ luật. Chúng tôi chỉ xin được bình đẳng trong quyền công dân thôi.
Trong thông báo về vụ xảy ra đó của Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh mà chúng tôi vừa được phát ra đây, đoạn áp chót có nói: “Ủy ban Nhân dân thành phố và các cơ quan chính quyền các cấp phải thi hành đầy đủ chính sách tự do tín ngưỡng mà chính phủ đã xác định. Không cho phép ai vi phạm cũng như cho phép ai lợi dụng”.
Lạm dụng, thì phần chúng tôi quyết tâm không hề lạm dụng.
Đó là vài ý kiến nhỏ của tôi, xin phép được góp phần với Mặt trận Tổ quốc trong việc đoàn kết.
Tôi thiết nghĩ nếu có tự do tín ngưỡng thực sự, thì không ai tựa vào sự đàn áp tôn giáo mà làm những gì sai trái, rồi đổ hô và xách động để bảo vệ tôn giáo được nữa, và dân chúng không tin nữa, vì đang có tự do tín ngưỡng rồi.
Xin cám ơn các vị.
(Đây là những ý nghĩ và thứ tự các ý nghĩ đó trong lời phát biểu đột xuất của tôi, trong buổi họp ngày 15-04-1977, do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên và thành phố Huế tổ chức, để thông báo về vụ chính quyền bắt giữ 6 vị Sư Phật giáo Việt Nam Thống nhất, hệ phái Ấn Quang. Bài ghi lại này được tôi viết ra ngày 19-04-1977. Có thể là khi phát biểu đột xuất, câu văn và nhiều từ không được “nguyên văn” như trong bài ghi lại. Nhưng tôi cam đoan về ý nghĩ và thứ tự các ý nghĩ thì trung thực).
Thành Phố Huế, ngày 19 tháng 04 năm 1977.
(đã ký tên)
Philipphê Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám Mục Huế
5- Lời phát biểu ngày 22 tháng 04 năm 1977
dịp tọa đàm bản dự thảo “Đề cương báo cáo của Ban Chấp hành đảng bộ Đảng CSVN tỉnh Bình Trị Thiên” cho Đại hội Đảng bộ tỉnh lần I (vòng 2)
tại trụ sở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh BTT,
có mặt các Đại diện tôn giáo, nhân sĩ và trí thức tại thành phố Huế
Kính thưa Chủ tịch đoàn
Kính thưa các vị Đại biểu
Ông Chủ tịch điều khiển cuộc họp vừa bảo bỏ đi những lời mào đầu, mà nói lên ngay đề tài phát biểu, để tiết kiệm thì giờ.
Vậy tôi xin nói liền lời cảm ơn Ban tổ chức đã cho tôi vinh dự được tham gia đóng góp ý kiến vào bản Dự thảo Đề cương Báo cáo của Đảng bộ tỉnh, một việc làm có tính cách mới mẻ và cởi mở, vì Đảng và tôn giáo thường không đi chung với nhau (Cử tọa đột xuất vỗ tay).
Trước hết tôi xin hoan nghênh “tinh thần” của bản Dự thảo Đề cương này. Tôi nói “tinh thần”, vì cách làm việc tập thể, có sự đóng góp trí tuệ của nhiều người; vì biết lưu ý đến từng giới, từng ngành, từng việc nữa; nhất là vì chân thành, khiêm tốn và can đảm nhìn nhận không những ưu điểm mà khuyết điểm nữa. Theo tinh thần đó, thì hy vọng hay chắc chắn bản “Đề cương” sẽ được một NỘI DUNG hoàn hảo, phong phú hơn, nhờ những đóng góp tích cực của các tầng lớp đồng bào trong tỉnh.
Phần tôi là người phục vụ tôn giáo, tôi xin phép góp một ý nghĩ “nhỏ” về CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO được nói đến trong phần thứ 2, mục C (Củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội) trang 6 báo DÂN.
Nếu tôi không lầm, thì bản Dự thảo Đề cương dùng chữ “tôn giáo” chỉ có 2 lần: một lần khi nói đến “Công tác Mặt trận trong giai đoạn mới… nhằm đoàn kết các tầng lớp nhân dân, trong đó có các tôn giáo” (trong mục B khi nói về “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân); một lần nữa trong mục C khi nói về “Củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội”, sau khi đã kể ra bao nhiêu tội phạm và âm mưu phá hoại…
Có người nghĩ là bản Đề cương nói đến tôn giáo ít quá. Tôi thì tôi nghĩ Đảng phải lo không biết bao nhiêu chuyện, mà tôn giáo đối với Đảng là một vấn đề nhỏ thôi; lại Đảng chủ trương không tôn giáo, vô thần, nên có nhắc đến tôn giáo như vậy cũng tạm được rồi.
Có người nhạy cảm thấy nói về “chính sách tôn giáo” trong mục “bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội” thì nghe làm sao á, và hơi sợ. Nhưng đọc kỹ lại, thì tôi thấy có nói: “Trong công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội, phải nắm vững và vận dụng đúng đắn đường lối và chính sách của đảng, đặc biệt là chính sách tôn giáo v.v…” thì tôi an tâm, vì Đảng chủ trương tự do tín ngưỡng, mà một khi cán bộ phải “nắm vững và vận dụng đúng đắn đường lối chính sách của đảng”, với tinh thần can đảm biết sửa sai, thì cũng đủ bảo đảm rồi.
Tuy nhiên, không chắc ai cũng đều hiểu như vậy, nên để tránh những lo âu và cảm tình không mấy tốt của đồng bào có tôn giáo đối với Đảng, thì tôi xin đề nghị: nếu có thể được, đem chỗ nói về chính sách tôn giáo lên mục B, nơi nói về “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”. Hình như trong nghị quyết của Đảng, kỳ Đại hội IV, đề cập về tự do tín ngưỡng cũng trong mục đó.
* * *
Ông Tống Hoàng Nguyên, khi khởi đầu buổi họp sáng nay có dặn: nên góp ý vào việc lao động sản xuất và kinh tế cách trực tiếp hơn.
Theo tôi nghĩ: nếu cho tự do tín ngưỡng, thì năng suất của đồng bào Công giáo sẽ lên cao lắm. Thực thì có chính sách tự do tín ngưỡng bằng văn bản đó (có 5 sắc lệnh và thông tư về tôn giáo). Nhưng cũng có những khẩu lệnh đi ngược với bản văn.
Tôi xin đơn cử một việc vừa xảy ra ngày 10-04-1977 tại thôn Trí Bưu, xã Hải Trí, huyện “mới” Triệu Hải (Quảng Trị). Ngày Chúa nhật 10-04-1977 là ngày lễ Phục sinh của Công giáo, là lễ lớn nhất trong Đạo đã được chuẩn bị bằng cả một tuần trước. Xã Hải Trí phải làm thủy lợi chính trong thị xã Quảng Trị. Huyện cho làm trong 10 ngày, nhưng xã rút xuống còn 5 ngày để thi đua. Mỗi thôn được chia phần của mình và sẽ phát động lao tác vào sáng Chúa nhật.
Ngày thứ 7, thôn Trí Bưu (gần hết là Công giáo) đã đệ đơn xin xã xét lại cho đồng bào Công giáo có giờ đi cử hành nghi lễ Đạo, rồi sau đó sẽ đi làm, nếu không kịp thì xin làm đêm nữa. Nhưng xã không cho, nói là có lệnh phải đi làm.
Có người nói với xã xin xét lại, vì nếu đồng bào họ không tuân lệnh thì tổn thương phần nào uy quyền của Chính quyền địa phương đi. Như hôm lễ Giáng sinh 1976, thôn Trí Bưu cũng đã không đi làm, vì họ phải đi lễ. Nhưng xã cũng cương quyết không xét lại. Thì rồi thôn Trí Bưu lấy quyền nhân dân làm chủ nên không đi làm thủy lợi hôm đó, mà đi lễ hết. Nhưng sau lễ, họ huy động cả thôn ra làm thủy lợi, thì thay vì 5 ngày, họ làm trong 2 ngày rưỡi là xong. Nghe nói xã định tuyên dương họ, nhưng họ xin không nhận, vì lẽ họ có không tuân lệnh đi làm trong ngày lễ Chúa Phục sinh hôm đó.
Nếu người công dân Công giáo được thoải mái về tín ngưỡng của họ, thì họ sẽ phục vụ hăng say có lợi cho kinh tế lắm. Điều này tôi chắc Đảng và Nhà nước quá hiểu nên đã có chính sách tự do tín ngưỡng vậy.
Vậy tôi xin phép mở một cái ngoặc, để xác định lại cái danh từ “Thiên Chúa giáo” và “Công giáo”. Tôi thấy trong văn thư của chính quyền chỉ dùng có danh từ “Thiên Chúa giáo” để chỉ người Công giáo. Thực ra, “Thiên Chúa giáo” chỉ chung những con người tin thờ Thiên Chúa trong đó có gần 200 triệu thuộc Chính thống giáo, hơn 200 triệu thuộc Tin lành và hơn 650 triệu thuộc Công giáo. Tất cả là hơn 1 tỷ người. Đó là Thiên Chúa giáo theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì phải kể cả thế giới Hồi giáo nữa, vì họ cũng tin thờ Thiên Chúa. Tuy nhiên, giữa những người cùng tin thờ Thiên Chúa đó, có cơ cấu khác nhau, có tổ chức khác nhau. Đến đây tôi xin đóng ngoặc lại.
Tôi xin trở lại chính sách tự do tín ngưỡng. Tôi thiết nghĩ chỉ có tự do tín ngưỡng thực sự thì những người có tín ngưỡng mới sống thoải mái hạnh phúc trong chế độ xã hội chủ nghĩa mà thôi. Thực thì Đảng và nhà nước có chủ trương chính sách tự do tín ngưỡng bằng sắc lệnh, bằng văn bản. Nhưng trong thực tế, vẫn có những khẩu lệnh đi ngược với chính sách. Việc này chắc còn phải dài lâu và hy vọng sẽ được giải quyết từng trường hợp.
Đảng chủ trương tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng. Nhưng thiết tưởng không vì thế mà được mạ lỵ tín ngưỡng.
Ông Tống Hoàng Nguyên hôm trước có khẳng định: “Đảng chúng tôi không cấm tôn giáo đâu. Vì coi đó là một yêu cầu xã hội và tâm lý. Bao lâu nhân dân cần đến thì cứ để”. Tôi cũng nghĩ như vậy: chừng nào đồng bào không thèm tôn giáo nữa thì thôi, tự nhiên sẽ hết tôn giáo. Còn cấm cản, thì chắc không cấm cản được.
Không thể cấm cản hay diệt trừ tôn giáo được. Điều này có lịch sử chứng minh. Đạo Công giáo khi mới còn là một nhóm nhỏ đã bị bắt bớ trong 300 năm ở đế quốc La mã rồi. Nay đế quốc La mã mất lâu rồi, đạo Công giáo vẫn còn và còn nhiều. Hy lạp cổ xưa cũng mất lâu rồi, mà đạo Công giáo vẫn còn. Nhật bản đã diệt đạo Công giáo và đã có trụ đá khắc chữ: người Kitô giáo không còn nữa trên đất Phù tang. Nhưng năm 1865, người ta phát hiện ra người Công giáo Nhật sau 250 năm vắng bóng công khai trên đất Nhật. Ở Việt nam, đạo Công giáo có từ năm 1533, chứ không phải lúc Pháp đến, và do một số người truyền đạo không phải là người Pháp. Không may, sự hiện diện của các người truyền đạo Pháp trùng hợp với lúc Việt nam bị mất độc lập và tự do. Đạo Công giáo ở Việt nam bị bắt bớ khi ít khi nhiều trong vòng 260 năm, nhất là trong triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Các vua này mất hết rồi và đạo Công giáo vẫn còn với khoảng 3 triệu tín đồ bây giờ.
Tôi có đọc những tài liệu bài trừ Công giáo ở Liên xô, cũng như trong một số nước ở tại Đông Âu. Dù cho có cố gắng hay điều chỉnh kế hoạch cũng không tiêu diệt tôn giáo được. Bằng chứng là sau 60 năm, vẫn còn tôn giáo ở Liên xô và ở các nước kia.
Năm rồi, tại thành phố Hồ Chí Minh, tôi đã nghe một vị ở trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng nói: “Chúng tôi, người Cộng sản, thông cảm dễ dàng với người Thiên Chúa giáo, vì chúng tôi cũng quốc tế, vì chúng tôi cũng bị đàn áp bắt bớ. Trong 30 năm qua, Cộng sản đâu có quyền sống trên mặt đất Việt nam này, bị tầm nã luôn, gặp đâu là giết đó. Nhưng có quyền lực nào đàn áp được chúng tôi đâu. Cuối cùng, chúng tôi thắng. Không thể đàn áp tư tưởng được. Do đó, chúng tôi có chính sách tự do tín ngưỡng”.
Ở địa phương kia có xảy ra một biến cố. Dân chúng di tản cả. Nhưng còn sót lại một bé gái 8 tuổi chạy tới chạy lui khóc lóc tìm cha mẹ. Những người có bổn phận ổn định tình thế hỏi nó thì mới biết nó lạc mất cha mẹ. Họ an ủi nó: “Thôi em, đừng buồn nữa. Đó là dấu cha mẹ em không thương em đó. Nếu thương thì sao quên con mình được. Mà em là Công giáo phải không? Này nói cho em biết, từ nay sắp lên, không còn có đạo ở đây nữa nghe chưa!” Bé gái không khóc nữa mà dõng dạc nói: “Không đúng, bao lâu còn tôi là còn đạo!”
Đạo ở trong lòng, cho dù bên ngoài không còn di tích gì nữa, nhưng còn trong lòng, không ai động đến được. Có thể giết xác, nhưng không thể giết được lòng. Quan niệm của Công giáo là vậy.
Hôm qua có một vị phát biểu là đã nghe Hồ Chủ tịch thường căn dặn cán bộ trí thức rằng: “Lao động trí óc mà không lao động chân tay, hoặc lao động chân tay mà không lao động trí óc, thì là một con người bán thân bất toại”. Câu nói đó rất chí lý, sáng suốt. Thì cũng vậy, con người chỉ thoải mái về vật chất mà không thoải mái về tín ngưỡng, thì là con người bán thân bất toại vậy. Như thế, ích lợi gì cho Tổ quốc!
Có người nghĩ là Công giáo tồn tại nhờ dựa trên kinh tế, trên thế lực. Không phải vậy mà ngược lại. Đấng lập đạo Công giáo đã nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Ta không có chỗ gối đầu”. Và Người còn chủ trương một điều mà trên đời không mấy ai chấp nhận là: “Phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo”. Thật vậy, khi nào vinh quang, có nhiều của cải là lúc Công giáo yếu nhất. Ngược lại, Công giáo càng nghèo khó, càng túng thiếu bao nhiêu thì càng mạnh bấy nhiêu.
Về các việc từ thiện, xã hội, thì Công giáo chúng tôi quan niệm thế này. Vì chính quyền không làm hết các việc đó, nên chúng tôi phụ lực với chính quyền, như con cái trong nhà phụ việc cho cha mẹ. Ngày nào chính quyền tự làm được hết các việc đó, thì chúng tôi vui mầng trao lại cho chính quyền. Bằng chứng là sau ngày Giải phóng, chúng tôi đã trao cho chính quyền hơn 60 cơ sở giáo dục, trong đó có trường Thiên hựu ở gần đây.
Về nhà thờ, thì dù lớn nhỏ, xấu tốt chi thì cũng là của đã dâng cho Thiên Chúa rồi, không thể xâm phạm được, cũng như không thể xâm phạm lăng Hồ chủ tịch vậy.
Vừa rồi có vụ không hay xảy ra ở thành phố Hồ Chí Minh liên quan tới cô nhi viện Quách Thị Trang. Chúng tôi cũng có cô nhi viện Kim Long, đã trên 30 năm rồi, chỉ do một nhóm nhỏ nữ tu điều hành tự túc. Hiện nay có hơn 200 người, từ trẻ sơ sinh đến ông già bà lão mù lòa, tê bại. Bây giờ, các nữ tu phải lo tự túc ăn uống hằng ngày cho bao nhiêu người đó. Vậy ngày nào chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên định quản lý là chúng tôi vui mầng trao ngay cho chính quyền.
Đó là những điều tôi xin chân thành phát biểu với các vị.
Xin cám ơn.
(Bài này được tôi viết ra ngày 24-04-1977, đã phát biểu ứng khẩu ngày 22-04-1977. Có thể khi phát biểu ứng khẩu, câu văn và nhiều từ không được “nguyên văn” như trong bài ghi lại. Nhưng tôi cam đoan về ý nghĩ và thứ tự các ý nghĩ thì trung thực).
Thành Phố Huế, ngày 24 tháng 04 năm 1977.
(đã ký tên)
Philipphê Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám Mục Huế
6- Thư gửi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
tỉnh Bình Trị Thiên ngày 27 tháng 10 năm 1977
(phúc đáp Nhận định của MTTQ Tp HCM ngày 06-08-1977
về hai bài phát biểu tháng 4-1977)
HỘI THÁNH CÔNG GIÁO Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tòa Tổng Giám mục Huế Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
VIỆT NAM
Huế, ngày 27 tháng 10 năm 1977
Kính gửi:
ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Tỉnh Bình Trị Thiên
Kính thưa Ủy Ban
Một số giáo dân và đồng bào tỉnh Bình Trị Thiên, sau khi được dự những hội nghị do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp của tỉnh Bình Trị Thiên tổ chức để nhận định, phê phán về nội dung và việc phổ biến hai bài phát biểu của tôi trong tháng 4-1977, đã gởi kiến nghị yêu cầu tôi giải thích minh bạch về sự việc “trước Chính quyền, trước Mặt trận và trước giáo dân cùng đồng bào cả nước”.
Các kiến nghị đó cũng được kính gởi cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên.
Để thỏa mãn yêu cầu chính đáng đó của đồng bào, tôi xin phép được giải thích sự việc trước tiên cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên và sau kính nhờ Ủy ban đệ đạt cho Chính quyền cùng thông báo cho đồng bào được rõ, vì cũng đã nhờ Ủy ban mà đồng bào được có các buổi hội nghị để biết sự việc nói đây.
Ngày 09-04-1975, dịp lễ ra mắt của Ban chấp hành Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế, tôi có phát biểu: “Đồng bào Công giáo nguyện tích cực góp phần với tất cả đồng bào ruột thịt, để cùng với Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng xây dựng một xã hội đầy tình thương, tự do, dân chủ, thịnh vượng và hòa bình, trong đó chúng tôi được chu toàn bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa”.
Năm 1976, tôi đã phát động tư tưởng “VUI SỐNG” trong giới đồng bào Công giáo Giáo phận Huế bằng những bài giáo lý của tập “TÔI VUI SỐNG” giúp đem niềm tin lồng vào cuộc sống hôm nay để góp phần xây dựng một Đất nước giàu đẹp, vui tươi, hạnh phúc.
Cũng trong tinh thần nhập cuộc và xây dựng đó, tôi đã phát biểu ý tưởng một cách đột xuất và chân tình trong hai buổi hội nghị do MTTQVN tỉnh BTT tổ chức tại Huế vào tháng 4-1977. Mặc dù trong các buổi hội nghị sau này, đồng bào không bao giờ được trực tiếp biết nội dung hai bài phát biểu của tôi, nhưng nhờ có bức thư của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh gởi Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình, đồng bào được biết tôi đã có ý kiến về tự do tín ngưỡng, về công dân hạng hai, về vụ Vinh Sơn, Ấn Quang.
Kể từ ngày tôi phát biểu đến bây giờ đã là sáu tháng, hôm nay tôi lại được nói ở đây về ba mục ấy cách rõ ràng hơn:
1- Về tự do tín ngưỡng. Phải nói thực là tôi không bao giờ khẳng định: không có tự do tín ngưỡng. Trong lần phát biểu 1, tôi nói đi nói lại 3 lần: “chưa có tự do tín ngưỡng thực sự”. Nghĩa là có mà chưa đầy đủ và nơi này nơi khác còn có một số sai trái trong việc thực thi chính sách tự do tín ngưỡng. Cốt làm sáng tỏ cái ý đó mà hai lần tôi đã nói: “Tôi chưa cảm thấy thoải mái về tự do tín ngưỡng”… “Tôi cảm thấy không thoải mái, vì chưa có tự do tín ngưỡng thực sự”. Thế là tôi không phủ nhận, tôi chỉ mong ước cho đầy đủ thôi. Vì đầy đủ tự do tín ngưỡng, như Công đồng Vatican II, thì không phải chỉ có việc đi lễ tại nhà thờ, mà còn việc học giáo lý để biết sống đạo của mình, còn việc huấn luyện cho có những người dạy giáo lý và phục vụ tế tự là Linh mục, Tu sĩ, còn phải được xây cất và tu sửa nhà thờ để có nơi hành Đạo, lại phải còn được truyền Đạo nữa, miễn “không làm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”. Về mặt tiêu cực, tự do tín ngưỡng có nghĩa là không ai có quyền ép buộc người khác (bằng áp lực tinh thần hay tâm lý, bằng bạo lực hay thủ đoạn…) phải chấp nhận hay từ bỏ niềm tin nào trái ngược với lương tâm của họ.
Sự chưa đầy đủ và một số sai trái mà tôi đã nói lên đó cũng được bức thư của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh gởi cho Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình thẳng thắn xác nhận: “Chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước Cách mạng là đáng tin cậy. Tuy nhiên, nơi này hay nơi khác, còn có hành động trái với chính sách, trái với hiến pháp v.v… Những thiếu sót, sai trái này là nỗi băn khoăn lo lắng của tất cả chúng ta”. Chính vì cùng mang chung “nỗi băn khoăn lo lắng của tất cả chúng ta” đó mà tôi mới chân thành nêu lên một vài thiếu sót tại tỉnh nhà để mong được uốn nắn kịp thời hầu cho chính sách tôn giáo được sáng tỏ và sự đoàn kết dân tộc mãi mãi đậm đà. Bức thư MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh lại viết rõ thêm: “Trong văn bản, tác giả nêu cụ thể về một số thiếu sót ở nơi này hay nơi khác của một số cán bộ chính quyền cách mạng; cũng như đòi phải thấy mặt tốt của Giáo hội Thiên Chúa giáo. Thiếu sót của chính quyền cách mạng cũng như mặt tốt của đồng bào theo đạo không phải là không có. Thậm chí thiếu sót của chính quyền cách mạng ở nơi này hay nơi khác có cái còn nghiêm trọng, không phải chỉ là đối với chính sách tôn giáo, mà còn thiếu sót trong vấn đề tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong vấn đề kinh tế v.v… và chúng ta đang cố gắng khắc phục”. Khi viết ra những giòng như thế, hẳn là MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh đã minh xét vấn đề và đã nắm đủ bằng chứng hơn tôi để xác quyết những điều mà tôi chỉ nói đại khái trong khu vực hạn hẹp của một giáo phận thôi.
2- Về công dân hạng hai. Trong lời phát biểu ngày 15-04-1977, tôi có nói: “Thực như lời phát biểu của một ủy viên của Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp tại thành phố Hồ Chí Minh vừa rồi đó, thì người Công giáo có cảm tưởng mình là công dân hạng hai vậy”. Khi mượn lời ấy, tôi chỉ muốn nói lên sự việc là một số người Công giáo cảm thấy mình không được tiếp nhận cách dễ dàng như lòng họ mong ước.
Việc này hẳn là có lý do khách quan và chủ quan của nó.
Lý do khách quan, tôi thấy MTTQ Thành phố HCM đã ghi rõ hơn tôi như sau: “Một số cán bộ cách mạng do trình độ còn non kém hoặc do chưa hết thành kiến mà làm sai đường lối chính sách. Mặt khác, phải thấy một thực tế nữa là hố sâu ngăn cách, chia rẽ, thành kiến lương giáo do bọn đế quốc và tay sai phản động tạo ra hơn 100 năm nay không thể một sớm một chiều xóa bỏ ngay được. Những tồn tại này tuy đã được từng bước khắc phục, nhưng vẫn còn dai dẳng, tác động xấu đến mối quan hệ giữa cách mạng và tôn giáo”.
Lý do chủ quan là cùng một hiện tượng mà một số người dân Công giáo có cái nhìn khác với cái nhìn của Nhà nước. Ví dụ một Linh mục không đến được để cử hành Thánh lễ và dạy giáo lý cho giáo dân một nơi nào đó, vì lý do không xin được phép đi lại, thì những giáo dân đó có cảm tưởng Linh mục bị phân biệt đối xử vì là Linh mục, còn mình không có Thánh lễ và không được học giáo lý là vì có sự hạn chế tự do tín ngưỡng, bởi thế không cho Linh mục đến. Đang khi đó, chính quyền thì xét cần phải hạn chế sự đi lại của Linh mục kia vì lý do chính trị, an ninh hay trật tự chẳng hạn.
Tuy chỉ là một cảm tưởng của giáo dân, nhưng tôi cũng nói lên bởi vì nó có thể tác hại cho tình đoàn kết dân tộc.
Có nói lên các lý do cả khách quan lẫn chủ quan là để tìm nguyên do và phương cách lần hồi khắc phục và cải tiến.
Mỗi người Công giáo chúng tôi quyết tâm tự khắc phục để được vô tư và khách quan, biết nhìn toàn diện mỗi vấn đề cũng như mỗi con người. Như thế sẽ công bình và tạo được đoàn kết.
3- Về vụ Vinh Sơn và Ấn Quang. Ngày 15-04-1977, tôi đã phát biểu: “Tôi xin chia buồn và thông cảm với tôn giáo bạn, vì chính tôi đã trải qua cái cảnh tượng như vầy trong vụ Vinh Sơn”. Tôi có ý nói cái cảnh tượng buồn tủi, đau xót khi nghe thông báo tội trạng của người đồng đạo với mình. Tôi đã phát biểu liền đó: “Chắc chắn, không ai trong chúng ta có mặt hôm nay chấp nhận công việc làm như bản thông báo kể lại đó. Tuy nhiên, không khỏi xót xa khi vụ đó có liên can đến người cùng tôn giáo với mình”.
“Nhưng đây là một biến cố thôi, và các biến cố tương tự có thể còn xảy ra, nếu không trừ tận gốc”. Nói “tận gốc” là tôi muốn nói phải khắc phục hết mọi hiện tượng gây trở ngại cho tự do tín ngưỡng.
Cuối lời phát biểu tôi lại nói: “Tôi thiết nghĩ, nếu có tự do tín ngưỡng thực sự, thì không còn ai tựa vào sự đàn áp tôn giáo mà làm những gì sai trái, rồi đổ hô rồi xách động, để bảo vệ tôn giáo được nữa, vì dân chúng không tin nữa, bởi lẽ đang có tự do tín ngưỡng rồi”.
Do đó tôi không muốn nói: vì không có tự do tín ngưỡng, cho nên mới có vụ Vinh Sơn, vụ Ấn Quang; mà ý tôi muốn nói là: bao lâu chưa có tự do tín ngưỡng thực sự thì tín ngưỡng sẽ còn là cái cớ để bị lợi dụng.
Còn việc phổ biến hai bài phát biểu?
Quả thực, tôi đã ghi lại thành văn bản sau hai lần phát biểu đột xuất ấy. Việc ghi lại thành văn bản những gì mình đã nói trong các dịp quan trọng là điều tôi đã luôn quen làm từ hơn 20 năm qua, với mục đích lãnh trách nhiệm những điều đã nói, đồng thời để tránh sự vận dụng những tư tưởng đã được phát biểu ngoài hoặc trái ý tôi muốn nói.
Tôi đã ghi lại thành văn bản để lưu chiếu tại Văn phòng Tòa Tổng giám mục Huế. Riêng người duy nhất được chính tôi gởi để kính tường là Đức Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình ở Thành phố Hồ Chí Minh, vì giữa người và tôi luôn luôn có liên hệ chặt chẽ. Bình thường thì tôi báo cáo cho các Linh mục trong giáo phận biết những gì quan trọng tôi đã nói đã làm vì các vị là những cộng sự viên trực tiếp của tôi. Lần này tôi không làm bổn phận báo cáo đó. Tuy nhiên có một số người (Linh mục, Giáo dân) nghe dư luận đề cập đến những lời tôi phát biểu tại Hội nghị (có thể do việc một số đại biểu tham dự hai buổi hội nghị tháng 4-1977 phản ảnh lại cho những người liên hệ của mình biết việc tôi phát biểu và nội dung lời phát biểu của tôi) đã đến Văn phòng Tòa Tổng giám mục tìm hiểu thực hư thế nào, và có thể đã xin Linh mục thư ký cho xem nguyên văn lời phát biểu của tôi để đối chiếu với những lời được dư luận đồn đãi. Đó cũng là trường hợp của Linh mục Hồ Văn Quý, Giám đốc Đại chủng viện Huế, đối với các chủng sinh của mình, trước các nguồn dư luận bên ngoài. Trong việc tìm hiểu thực hư này, chắc hẳn đã có một số người vì vô tình hay hữu ý lưu hành hai bài phát biểu của tôi, rồi lại bị một số người khác lợi dụng phổ biến rộng rãi với ý đồ xấu gây ra tác hại.
Những lời phát biểu đột xuất trong một hội nghị địa phương với khung cảnh đặc thù của nó tự nhiên sẽ không còn được hiểu đúng mức, nếu bị đem ra phân tích ngoài bối cảnh của nó. Phương chi nếu có bị lợi dụng với ý đồ chia rẽ và phổ biến rộng rãi, thậm chí ra cả nước ngoài, thì sự tác hại phải là to tát. Do đó, tôi rất đau xót về sự tác hại ngoài ý muốn và ngoài dự đoán của tôi, nên tôi chẳng những không đồng tình mà lại cực lực phản đối những ai cố tình dùng những lời phát biểu của tôi để làm tổn thương tình đại đoàn kết của dân tộc và tổn hại uy danh của Nhà nước chúng ta.
Riêng về trường hợp hai Linh mục Nguyễn Văn Lý, Thư ký Tòa Tổng giám mục Huế, và Linh mục Hồ Văn Quý, Giám đốc Đại chủng viện Huế, lần lượt được chính quyền triệu tập và xét hỏi từ ngày 07 và 08-09-1977 đến nay, tôi tin tưởng sẽ sớm được giải quyết thỏa đáng.
Đó là tất cả sự thật mà các kiến nghị của một số đồng bào yêu cầu tôi phải nói lên “trước Chính quyền, trước Mặt trận và trước giáo dân cùng đồng bào cả nước”.
Ngày 21-10-1977, tôi hân hạnh được mời đến làm việc với Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên để tìm cách khắc phục những hậu quả tác hại nói trên.
Vậy tôi xin được đề xuất cụ thể:
Tác hại tới đâu thì phải khắc phục tới đó, nên xin cho phổ biến bức thư giải thích này tới những nơi nào mà hai bài phát biểu của tôi đã tới.
Cách phổ biến:
1- cho đồng bào Công giáo Giáo phận Huế, thì tôi xin các Linh mục trong toàn giáo phận thông báo cho giáo dân, chủng sinh, tu sĩ trực thuộc vào ngày Chúa nhật 06-11-1977.
2- cho đồng bào không Công giáo tỉnh Bình Trị Thiên, thì tôi kính nhờ Ủy ban MTTQVN tỉnh Bình Trị Thiên thông báo trên báo DÂN và các hội nghị.
3- cho đồng bào cả nước, thì xin các báo đăng bức thư này, ít là các báo nào đã đăng bức thư của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh. (Thiết tưởng các tác hại ở trong nước cũng như ở nước ngoài đã phần nào được bức thư của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh gởi cho Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình khắc phục rồi. Tôi xin chân thành cảm ơn MTTQVN Thành phố HCM).
4- cho ngoại quốc, xin MTTQVN tỉnh Bình Trị Thiên buộc những báo chí ngoại quốc nào đã đăng hai bài phát biểu của tôi từ trước đây thì nay phải đăng bức thư giải thích này, theo luật báo chí quốc tế.
Nhờ các buổi hội nghị, và nhất là nhờ Thông báo của Ủy ban mà đồng bào được biết việc Ủy ban đã tận tình và nhẫn nại giúp đỡ Tòa Tổng giám mục chúng tôi bấy lâu, như các kiến nghị có nhắc đến, thì nay cũng xin Ủy ban vui lòng giúp tôi hoàn thành việc khắc phục các tác hại đó. Kính xin Ủy ban nhận nơi đây lòng biết ơn thắm thiết của tôi.
Cuối cùng, tôi xin được nói như Ủy ban trong Thông báo ngày 17-09-1977: “Hơn lúc nào hết, đồng bào Thiên Chúa giáo hãy cùng những người Cộng sản, cùng đồng bào các tôn giáo khác và toàn thể nhân dân xiết chặt hàng ngũ, vượt qua những thành kiến do lịch sử để lại, khắc phục những khó khăn trước mắt, chung lo việc nước, việc nhà và lo cho phần đạo của mình trong tinh thần yêu Nước và kính Chúa”
Trân trọng kính chào Ủy ban.
(ký tên)
Ph. Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám mục Huế
*****************************************
Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Tp Hồ Chí Minh Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
55 Mạc Đỉnh Chi
Đt: 93.771 - 93.772
Tp Hồ Chí Minh, ngày 06-08-1977
Số 425/UBMT/VT
NHẬN ĐỊNH VỀ HAI BẢN VĂN
ghi lại lời phát biểu của TGM Nguyễn Kim Điền
Kính gởi:
Ông Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình
Tổng giáo phận Tp HCM
Thưa ông Tổng giám mục,
Gần đây Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tp HCM được biết có luân lưu, phổ biến trong một số linh mục, tu sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo ở Tp HCM hai bản văn có ghi lời phát biểu của ông Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền địa phận Huế. Hai bản văn này không chỉ luân lưu, phổ biến trong giới Thiên Chúa giáo mà còn phổ biến tới cả một giới Phật giáo và tới một số nơi khác nữa.
Bản văn thứ nhất, ghi lời phát biểu của ông Nguyễn Kim Điền ngày 15-04-1977 trong cuộc họp do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên và thành phố Huế, tổ chức để thông báo vụ chánh quyền Tp HCM bắt giữ bọn phản động trong Phật giáo thuộc hệ thống Ấn Quang.
Bản văn thứ hai, ghi lời phát biểu của ông Nguyễn Kim Điền ngày 22-04-1977 để đóng góp ý kiến vào bản dự thảo Đề cương báo cáo của ban Chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Bình Thị Thiên trong Đại hội Đảng lần thứ nhất vòng hai, cũng do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên triệu tập.
Chúng tôi chưa rõ hai bản văn này có phải đúng là của ông Tổng giám mục địa phận Huế ghi hay không? Sự ghi chú đó có phản ảnh trung thành phát biểu của ông Tổng giám mục địa phận Huế hay không? Và chúng tôi cũng chưa biết rõ việc phổ biến hai bản văn đó là có ý kiến của ông Nguyễn Kim Điền hay không? Ai là người chịu trách nhiệm phổ biến? Chúng tôi mong ông Tổng giám mục cho hỏi lại và cho chúng tôi được biết.
Theo ý kiến chúng tôi, trong hội nghị mỗi người cần phải được phát biểu ý kiến một cách tự do, thoải mái, nói lên những nhận thức, suy nghĩ, băn khoăn của mình. Những ý kiến cá nhân đó có thể đúng hoặc mới đúng có một mặt, thậm chí có thể có những nhận thức sai lầm. Nhưng đó là yêu cầu hoàn toàn cần thiết của hội nghị. Có nhiều ý kiến có khi trái ngược nhau như vậy mới bổ túc cho nhau, làm cho nhận thức cuộc hội họp thêm chín chắn, toàn diện, phong phú.
Trong hội nghị, những ý kiến này được trao đổi qua lại mà biến thành nghị quyết. Ngược lại, nếu đem một vài phát biểu đơn phương trong hội nghị mà phổ biến ra ngoài, thì đối với những ý kiến sai lầm sẽ gây một tác hại, có khi rất to lớn. Ngay đối với những ý kiến đứng đắn, khi phổ biến rộng rãi ra ngoài quần chúng cũng đòi hỏi chúng ta phải làm sao cho quần chúng dễ hiểu, nhằm nâng cao hiểu biết quần chúng lên, tránh sự ngộ nhận có thể có trong quần chúng. Mặt khác, cũng phải làm sao tránh những sơ hở không để cho bọn xấu cũng như kẻ địch xuyên tạc và lợi dụng.
Trong khi tất cả chúng ta, những người có thiện chí, lương cũng như giáo, tín đồ cũng như hàng giáo phẩm, đều nỗ lực phấn đấu để lấp bằng những chia rẽ, những thành kiến mà bọn đế quốc đã tạo ra trong suốt thời kỳ đô hộ của chúng hằng thế kỷ nay, thì việc đơn phương phổ biến hai bản văn này chỉ đào sâu thêm thành kiến, rất có hại cho sự đoàn kết dân tộc. Nếu chúng ta không kịp thời ngăn chặn và vạch rõ phải trái thì chỉ càng làm lợi cho kẻ thù của dân tộc.
Để vạch rõ phải trái, trước hết chúng tôi đi ngay vào phân tích nội dung của hai bản văn. Hai bản văn đó tuy dài, nhưng chung quy tập trung nêu lên hai vấn đề:
- Một là không có tự do tín ngưỡng. Những người theo đạo Thiên Chúa bị chèn ép. Chính sách tự do tín ngưỡng chỉ có trên văn bản, còn trong thực hành thì không có tự do tín ngưỡng.
- Hai là vì không có tự do tín ngưỡng mới có sự chống đối như là vụ Vinh Sơn, như vụ bọn phản động trong giới Phật giáo Ấn Quang v.v…
Chính sách tự do tín ngưỡng không những đã được thể hiện rõ ràng trên văn bản, trong lời nói, mà còn thể hiện trong việc làm cụ thể hằng ngày. Đó là việc nhà thờ, chùa chiền, thánh thất được tiếp tục mở cửa hoạt động bình thường. Mọi hình thức tu hành của bà con giáo dân và sự hoạt động của các giáo hội như lễ lộc, đi nhà thờ, thờ cúng, ăn chay, niệm Phật, rao giảng Kinh thánh của các Giáo hội trong tín đồ được tự do. Những ngày lễ lớn như: Chúa Giáng sinh và Phật đản v.v… chánh quyền hết sức quan tâm giúp đỡ, bảo vệ chu đáo an toàn, để bà con giáo dân hành lễ trang nghiêm, tự do thoải mái. Việc theo đạo và không theo đạo thật sự là quyền tự do của mỗi công dân. Không hề có bất cứ hành động nào phân biệt đối xử về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, đối với người có đạo và không có đạo… Đặc biệt đồng bào giáo cũng như lương đều được bảo đảm đầy đủ quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, quyền tham gia bầu cử và ứng cử, quyền được hưởng được phân phối như nhau. Trên thực tế đã có nhiều đại biểu xứng đáng của giáo dân trong các giáo hội, có cả một số giáo phẩm cao cấp đã trở thành đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân và thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cao cấp.
Từ ngày giải phóng đến nay, chính những đại biểu này, cũng như đại bộ phận đồng bào theo đạo Thiên Chúa đã đóng góp xứng đáng phần mình vào việc đoàn kết dân tộc xây dựng đất nước. Trong phân phối và chăm lo đời sống, chánh quyền đều lo lắng chung cho tất cả mọi người, ngọt bùi, đói no, chia sẻ. Tất cả những điều cơ bản đó nói lên rằng: nếu không có chính sách tự do tín ngưỡng, không có chánh sách đoàn kết dân tộc đúng đắn, chân thành thì làm sao có được như vậy. Bọn đế quốc và tay sai đã dùng bao nhiêu cực hình dã man nhứt, bao nhiêu thủ đoạn thâm độc nhứt để đàn áp tư tưởng cách mạng nhưng chúng đã thất bại đau đớn và nhục nhã… Vì vậy qua kinh nghiệm xương máu của bản thân mình, người cách mạng hiểu rất thấm thía rằng không thể nào giải quyết vấn đề tư tưởng và tín ngưỡng bằng những biện pháp thô bạo được. Do đó, chánh sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước cách mạng là đáng tin cậy. Tuy nhiên, nơi này nơi khác, còn có hành động trái với chánh sách, trái với Hiến pháp v.v… Những thiếu sót, sai trái này là nỗi băn khoăn lo lắng của tất cả chúng ta. Chúng ta phải ra sức đoàn kết với nhau, bàn bạc trao đổi với nhau, đồng thời phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, kiểm tra phê phán để khắc phục cho được thiếu sót trên.
Những tồn tại trên đây có nguyên nhân chủ quan và khách quan của nó. Một số cán bộ cách mạng do trình độ còn non kém, hoặc do chưa hết thành kiến mà làm sai đường lối chánh sách. Mặt khác, phải thấy một thực tế nữa là hố sâu ngăn cách, chia rẽ, thành kiến lương giáo do bọn đế quốc và tay sai phản động tạo ra hơn 100 năm nay không thể một sớm một chiều xóa bỏ ngay được. Những tồn tại này tuy đã được từng bước khắc phục, nhưng vẫn còn dai dẳng, tác động xấu đến mối quan hệ giữa cách mạng và tôn giáo. Phải thừa nhận đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp đòi hỏi phải có nỗ lực chung của chúng ta.
Về phía mình, cho đến nay, do bị ảnh hưởng tuyên truyền xuyên tạc của địch, nên trong Thiên Chúa giáo cũng như trong tôn giáo khác, số người còn thành kiến đối với cách mạng không phải là ít, nhất là trong hàng chức sắc, giáo phẩm. Thậm chí có một số người còn có những thái độ cực đoan, đi tới những chống đối quyết liệt.
Bọn đế quốc trước đây không những đã ra sức lợi dụng tình hình trên để chống cách mạng và che giấu ý đồ xâm lược của chúng; và từ khi miền Nam hoàn toàn giải phóng đến nay, các giới đế quốc vẫn tiếp tục lợi dụng khai thác những thành kiến vốn dĩ do chúng tạo ra đó để kích động những hành động chống phá cách mạng trong các tôn giáo, đặc biệt trong Thiên Chúa giáo là nơi mà bọn đế quốc đã tập trung thực hiện âm mưu của chúng hàng trăm năm nay. Trong điều kiện lịch sử khắc nghiệt như thế, nên đã hình thành trong Thiên Chúa giáo một số người có thành kiến rất sâu sắc với cách mạng, đi đến chống đối cách mạng một cách cực đoan và có hệ thống; thậm chí có những người cam tâm để địch lợi dụng chống lại cách mạng, chống lại dân tộc. Số này đã có những hình thức tuyên truyền miệng, rỉ tai, lợi dụng diễn đàn nhà thờ, chùa chiền, thánh thất; lợi dụng việc rao giảng đạo pháp để tuyên truyền, xuyên tạc, kích động quần chúng chống đối cách mạng. Số khác lại chủ trương viết truyền đơn, khẩu hiệu phản động; thậm chí còn tổ chức lực lượng chính trị, nhen nhóm phản động, gây bạo loạn võ trang chống đối cách mạng.
Đó là một sự thực lịch sử rất đau lòng, không những đối với những người theo đạo Thiên Chúa, mà đau lòng cả đối với toàn thể dân tộc.
Chúng ta cần phải dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật đó để cùng nhau đoàn kết, sáng suốt và bình tĩnh gỡ ra những rối rắm lịch sử mà bọn đế quốc để lại cho đất nước, phá hoại sự đoàn kết của dân tộc ta. Chúng ta, những người có trách nhiệm, phải cùng nhau bàn bạc, quyết không để cho có những rối rắm mới có lợi cho bọn đế quốc và tay sai, mà đắc tội với lịch sử và dân tộc. Chúng ta phải kiên quyết đập tan âm mưu của bọn đế quốc và tay sai, kiên trì giải thích tranh thủ những người lầm lạc. Cuối cùng chánh nghĩa nhất định bao giờ cũng thắng. Đó là quy luật của lịch sử.
Không thể nói đơn giản như tác giả của hai bản văn là: “Đem việc thời đại xa xưa mà phán đoán theo tầm mắt hiện giờ thì không khoa học đó”.
Đúng, chuyện ngày nay không thể giống y như chuyện ngày xưa nữa. Lịch sử đã phát triển khác trước nhiều và đã có những thay đổi lớn lao. Nói như thế là khoa học. Nhưng đồng thời khoa học cũng xác nhận tính nối tiếp và tính kế thừa của lịch sử nữa. Bọn đế quốc và đội quân xâm lược đã bị tống cổ đi rồi, nhưng những tồn tại, những thành kiến do chúng gây ra còn nặng nề, vài ba năm giải phóng chưa xóa bỏ ngay hết được. Chúng ta còn phải cảnh giác, còn phải đồng tâm hiệp lực, bền bỉ đấu tranh xóa bỏ thành kiến, tranh thủ giác ngộ người lầm lạc, chống bọn phản động và tay sai đế quốc. Không thể như tác giả hai bản văn đã đơn giản nêu rằng: “Về phần chúng tôi thì không lạm dụng tự do tín ngưỡng…” Chữ “chúng tôi” đây tác giả muốn chỉ ai? Chúng tôi là những người có thiện chí hay bao gồm cả những người còn thành kiến sâu sắc và cả số cực đoan và phản động. Do đó, trong lời nói, hành động một số người có thiện chí đã tỏ ra thiếu mạnh dạn, ngần ngại, e dè.
Lịch sử cũng đã cho ta thấy đạo Phật, đạo Thiên Chúa lúc khai đạo cũng chỉ là một nhóm rất nhỏ. Chủ nghĩa cộng sản cũng vậy.
Một lý tưởng muốn trở thành chân lý của thời đại phải đấu tranh lâu dài, thậm chí hàng trăm năm, hàng ngàn năm, phải trải qua bao nhiêu gian khổ, hy sinh. Cuối cùng chân lý ấy mới thành ra đa số.
Cái gì chúng ta đã xác định là chân lý, là chánh nghĩa, nhất quyết chúng ta không sợ lâu dài gian khổ, không sợ một cản ngại nào dù to lớn đến đâu, phải dám hy sinh chiến đấu để thực hiện cho bằng được lý tưởng đó. Vinh quang sẽ thuộc về những người chiến đấu như thế.
Cho nên, hòn đá thử vàng đối với lòng kính Chúa yêu nước của những người Thiên Chúa giáo hiện nay, là cần phải có sự cố gắng và nỗ lực vượt bậc, vượt lên mọi trở ngại để phối hợp, hành động cùng với chánh quyền cách mạng và tất cả những người có thiện chí, kiên quyết đấu tranh cưỡng lại bọn phản động trong Thiên Chúa giáo. Điều đó không những có lợi cho dân tộc, mà còn có lợi ngay cho bản thân Giáo hội Thiên Chúa giáo. Có thể nói, đó là cuộc đấu tranh khẩn trương, gay go quyết liệt, bền bỉ trong lòng dân tộc, trong nội bộ Thiên Chúa giáo và ngay trong từng con người của mình, giữa chánh nghĩa và phi nghĩa. Trái lại, nếu còn đứng ra che chở, bênh vực như vụ Vinh Sơn chẳng hạn, thì làm sao xóa bỏ nghi ngờ và giảm bớt thành kiến được?
Tác giả có nhắc tới lời phát biểu ở hội nghị ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp tại thành phố HCM vừa rồi của một đại biểu nào đó thì “người Công giáo có cảm tưởng mình là công dân hạng hai”.
Chúng tôi biết rõ có một số người trong Thiên Chúa giáo, trước đây đã từng một thời được trọng dụng, là công dân số một của các chế độ cũ, đã từng là em út của “anh Ba (chỉ ông Ngô Đình Diệm) và là chỗ dựa tinh thần của Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng trong chế độ mới, họ vẫn được rộng lượng khoan hồng, không hề có sự trả thù “đẫm máu” như bọn đế quốc và tay sai đã tác động tâm lý, như họ đã từng làm đối với nhân dân và cách mạng. Tưởng rằng điều đó sẽ giúp cho họ tỉnh ngộ, từ bỏ những lỗi lầm cũ. Nhưng thực tế họ vẫn chưa nhận thấy sai lầm, chưa chịu cải tạo, ngược lại còn phạm thêm sai lầm mới thì làm sao tránh khỏi nghi ngờ và làm sao chấp nhận để họ giữ những vị trí then chốt trong sinh hoạt quần chúng tín đồ và trong các giáo hội được. Trong trường hợp đó, nếu họ cảm thấy mình là công dân hạng hai thì cũng không có gì là quá đáng và cũng chỉ đúng riêng với một thiểu số có thái độ và có tư cách như họ thôi. Tuy nhiên không ai muốn có chuyện như thế. Điều chúng ta mong muốn và đòi hỏi ở họ là phải tỏ ra xứng đáng với lòng tin cậy, phải trải qua sự nỗ lực bản thân tự cải tạo mình. Có từ bỏ lỗi lầm cũ thì họ mới xứng đáng là công dân bình đẳng với mọi người công dân khác. Có thể nói thẳng, không cần gì phải giấu giếm, là quả có sự phân biệt đối xử với một số người không chịu cải tà quy chánh, không chịu làm theo lẽ phải và không làm đúng với đạo lý chân chính. Tất nhiên, đối với tuyệt đại đa số đồng bào Thiên Chúa giáo, thì không thể có bất cứ sự phân biệt nào về mặt chính trị cũng như về mặt kinh tế. Nếu còn một ít tồn tại nào đó ngoài ý muốn của chúng ta, thì chúng ta cần phải tìm ra nguyên nhân của nó và cùng nhau đoàn kết, bình tĩnh, bền bỉ khắc phục những tồn tại đó như trên đã nói.
Trong văn bản, tác giả nêu cụ thể về một số thiếu sót ở nơi này nơi khác của một số cán bộ chánh quyền cách mạng; cũng như đòi hỏi phải thấy mặt tốt của Giáo hội Thiên Chúa giáo. Thiếu sót của chánh quyền cách mạng, cũng như mặt tốt của đồng bào theo đạo không phải là không có. Thậm chí thiếu sót của chánh quyền cách mạng ở nơi này hay nơi khác có cái còn nghiêm trọng, không phải chỉ đối với chánh sách tôn giáo, mà còn thiếu sót trong vấn đề tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong vấn đề kinh tế v.v… và chúng ta cố gắng khắc phục. Đúng là ta phải đánh giá một cách rất khách quan như thế. Chúng ta phải có sự nhận xét thật khách quan, có trước, có sau, với quá trình và bối cảnh lịch sử của nó. Lại phải tìm ra nguyên nhân của nó để phát huy cái tốt, sửa chữa khắc phục cái xấu. Tuy nhiên, nếu tác giả đòi hỏi một sự đánh giá khách quan, thì tác giả nhất thiết phải không những thấy mặt thiếu sót của cách mạng, lại phải thấy mặt tốt, mặt đã làm được của cách mạng, nhất là trong vấn đề tự do tín ngưỡng. Thấy mặt tốt của giáo hội lại phải thấy mặt còn tồn tại, còn thiếu sót của giáo hội. Chỉ có đánh giá một cách toàn diện và khách quan như thế, mới tìm ra chân lý và mới đoàn kết được. Chúng tôi chỉ đòi hỏi ở tác giả có một nhận xét khách quan, cũng như tác giả đòi hỏi ở chúng tôi, những người cách mạng.
Vấn đề thứ hai, theo tác giả thì vì không có tự do tín ngưỡng, cho nên mới có vụ Vinh Sơn, vụ chống đối của bọn phản động trong Phật giáo Ấn Quang, vụ phá hoại đời người nữ tu sĩ đã nêu trong Thông báo số 4/TB-UB ngày 6-4-1977 của Ủy ban Nhân dân Tp HCM. Tác giả nói: “Theo thiển ý của tôi, nếu còn tựa vào tôn giáo để xách động này khác là vì chưa có tự do tín ngưỡng đó thôi”.
Luận điểm như trên thật ra không có gì mới cả, nó đã có từ lâu lắm rồi, có nói lại cũng chỉ là lập lại luận điệu của bọn đế quốc Pháp và Mỹ.
Đế quốc Pháp khi xâm chiếm nước ta từ thế kỷ 19 cũng đã từng lấy lý do vì vua quan Việt Nam chống Chúa giết đạo nên cần bảo vệ đạo, bảo vệ Chúa mà đem quân đến “khai hóa văn minh” cho nước ta. Một thế kỷ sau, đế quốc Mỹ cũng không có một luận điệu nào khác hơn là nhân danh tự do, nhân danh đạo Chúa với Hồng y giáo chủ Spellman để mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Rốt cuộc chúng đã thất bại nhục nhã. Bây giờ tác giả hai bản văn trên cũng lại nhân danh tự do tín ngưỡng để bênh vực cả cho những việc làm phi nhân phi nghĩa, phá hoại đời sống nhân dân như vụ Vinh Sơn, với vụ in bạc giả; như vụ phản động trong Phật giáo Ấn Quang với vụ phá hoại đời nữ tu sĩ, rồi cho là không có tự do tín ngưỡng nên mới xảy ra những chuyện như thế.
Chúng tôi cho rằng: người ta không thể nhân danh tự do tín ngưỡng, nhân danh Chúa, nhân danh Phật để cho phép mình làm, hoặc là bênh vực cho những hành động bỉ ổi xấu xa nhất, phi đạo đức nhất. Chúa và Phật cũng như đồng bào các tôn giáo và những hàng giáo phẩm chân chính nhất định sẽ không cho phép làm như thế. Những người làm như thế, bênh vực như thế, không những làm mất phẩm giá của mình, mà còn làm mất phẩm giá của đồng đạo, của đạo lý mà chính tác giả hai bản văn đang tín ngưỡng. Làm như thế là nhân danh tự do tín ngưỡng để khuyến khích mọi hành động phản cách mạng, mọi hành động xấu xa phi đạo đức. Chúng ta tin tưởng đồng bào có đạo cũng như các hàng giáo phâm chân chính trong tôn giáo sẽ kiên quyết chống lại những thái độ và hành động như thế.
Còn đối với cách thức lén lút phổ biến hai bản văn này không những là phi pháp mà rõ ràng có ý đồ đen tối và đã bị bọn xấu, bọn phản động lợi dụng. Vì rõ ràng nó không thể có ảnh hưởng nào khác hơn là làm sâu sắc hơn những thành kiến và gây thêm những nghi ngờ chia rẽ từ cả mọi phía. Bọn đế quốc và tay sai, bọn phản động chắc không mong gì hơn thế. Chúng đã lợi dụng hai bản văn này để chống chánh quyền cách mạng, và kích động những mặt tiêu cực; chúng tán tụng những lời phát biểu này là “dũng cảm”, nào là “dám nói lên sự thật”. Chúng xuyên tạc vu khống những người công giáo có thiện chí, đóng góp vào sự đoàn kết dân tộc, cho họ là thiếu “dũng cảm”, không dám nói lên “sự thật”.
Khắc phục mọi khó khăn để xóa bỏ những thành kiến, chống sự chia rẽ của bọn xấu, bọn đế quốc mới thực sự là dũng cảm. Cái dũng cảm như thế mới cao đẹp, là vì nó nhắm vào mục đích cao đẹp. Do đó, chúng ta hết sức hoan nghênh những người trong đồng bào Thiên Chúa giáo và trong hàng giáo phẩm, đã bất chấp khó khăn, bất chấp mọi lời dèm pha vu khống thâm độc mà đóng góp vào sự đoàn kết dân tộc. Đấu tranh cho đoàn kết dân tộc là dũng cảm và phải dũng cảm trong đoàn kết; chúng ta quyết không sợ khó khăn, không sợ những lời dèm pha. Chúng ta quyết vì chân lý mà phấn đấu và chân lý cuối cùng sẽ thắng.
Còn sử dụng sự “dũng cảm” của cá nhân nào đó vào những hành động sai lầm thì sự dũng cảm đó dù là vô tình nhưng kết quả thực tế vẫn là nối giáo cho giặc, chỉ càng gây thêm những tai hại đau đớn cho đồng bào giáo dân và cho dân tộc mà thôi. Kẻ thù nhất định sẽ rất vui mừng và không tiếc lời ca ngợi các kiểu dũng cảm đó, còn người thiện chí không khỏi thật sự đau lòng.
Còn kẻ nào mưu đồ dùng sự dũng cảm vào những mục đích đen tối, thì nhất định chỉ làm tăng thêm lòng căm thù của đồng bào lương cũng như giáo và nhứt định chúng sẽ bị nhân dân căm phẫn lên án và làm cho thất bại nhục nhã.
Để tăng cường sự đoàn kết trong dân tộc ta, giữa tôn giáo này và tôn giáo khác, chúng ta hãy cùng nhau bình tĩnh, sáng suốt, nhận rõ phải trái, để ngày càng đoàn kết hơn, nhằm khắc phục khó khăn to lớn do hậu quả của địch để lại, xây dựng đất nước ta giàu đẹp và hùng cường, nhân dân ta có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Mỗi người chúng ta, lương cũng như giáo, cần tích cực tuyên truyền, giáo dục đồng bào, hiểu rõ cái đúng, cái sai, tích cực khẩn trương phá bỏ thành kiến nghi ngờ, do đế quốc và tay sai gây nên trong dân tộc ta hàng trăm năm nay. Chúng ta cần rất chủ động ngăn chận, giải thích, không để phổ biến những loại tài liệu có nội dung như thế. Chúng ta cần giải thích rõ phải trái cho đồng bào để đồng bào hiểu rõ đồng tình và nhứt trí cao đối với chúng ta.
Xin gởi ông Tổng giám mục lời chào trân trọng.
Tm UBMTTQVN/Tp HCM
Chủ tịch
(ký tên và đóng dấu)
Nguyễn Văn Chì
7- Văn thư khẳng định quyền tự do
điều hành chủng viện và đào tạo Linh mục ngày 17-05-1979
(phúc đáp Quyết định của chính quyền ngày 16-03-1979)
HỘI THÁNH CÔNG GIÁO Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tòa Tổng Giám mục Huế Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ARCHEVÊCHÉ HUE
VIỆT NAM
Số 10/79 TTGMH
Huế, ngày 17 tháng 05 năm 1979
Kính gửi: Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên
Trích yếu: v/v phúc đáp Quyết định của UBND tỉnh
số 284-QĐ/NC ngày 16 tháng 3 năm 1979 về vấn đề chủng viện.
Kính thưa quý Ủy ban,
Tòa Tổng giám mục Huế chúng tôi trân trọng kính trình quý Ủy ban
I. Theo Giáo lý Thánh Kinh
Ơn thiên triệu làm linh mục hoàn toàn thuộc quyền Thiên Chúa và Hội Thánh có trách nhiệm xét đoán, xác nhận mỗi ơn thiên triệu để truyền chức thánh.
II. Theo Giáo luật
Các chủng viện Công giáo được thiết lập trên những nguyên tắc mà Hội Thánh đã quy định trong Giáo luật về Tiểu chủng viện và Đại chủng viện (Giáo luật các số 1358-1371).
III. Theo Giáo lý Công đồng Vaticanô II
Hội Thánh phải được tự do trong việc chọn lựa đào tạo chủng sinh, việc truyền chức, bổ nhiệm và thuyên chuyển các linh mục (Sắc lệnh về đào tạo linh mục).
IV. Theo truyền thống lịch sử về việc đào tạo linh mục
Những nguyên tắc và quy luật trên là kinh nghiệm ngàn năm của Hội Thánh nói chung và của Giáo phận Huế từ mấy trăm năm qua nói riêng.
Vậy nếu phải tổ chức các chủng viện Công giáo theo Quyết định của Ủy ban số 234/QĐ-NC đề ngày 10 tháng 3 năm 1979, thì các chủng viện ấy sẽ đi ngược lại những điều trên.
Tòa Tổng giám mục chúng tôi trân trọng kính chào quý Ủy ban.
Philipphê Nguyễn Kim Điền
Tổng giám mục Huế
T. Nguyễn Như Thể
Bản sao kính gởi Tổng giám mục phó
Ủy ban MTTQVN tỉnh Bình Trị Thiên
“để kính tường”
************************************
Ủy ban Nhân dân Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tỉnh Bình Trị Thiên Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số 284-QĐ/NC
Huế, ngày 16 tháng 3 năm 1979
QUYẾT ĐỊNH
Về việc giúp Giáo hội Thiên Chúa tổ chức lại các trường tôn giáo
theo đúng tinh thần Nghị quyết 297/CP của Hội đồng Chính phủ
Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên
- căn cứ Nghị quyết số 297/CP ngày 11 tháng 11 năm 1977 của Hội đồng chính phủ
- căn cứ đề nghị của khối Nội chính và Giáo dục
Quyết định
Điều 1 : Ủy quyền cho ông Nguyễn Kỳ trưởng ty khối đào tạo thay mặt Ủy ban Nhân dân tỉnh trực tiếp làm việc với Tòa Tổng giám mục Huế về vấn đề trường đào tạo người chuyên hoạt động tôn giáo, thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết số 297/CP ngày 11-11-1977 của Hội đồng Chính phủ.
Điều 2 : Trường phải nhằm đào tạo ra những người chuyên hoạt động tôn giáo tốt, đủ trình độ và tư cách phục vụ đồng bào có đạo ngày nay là những người chủ tập thể của đất nước đang xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau khi được tổ chức lại đúng theo tinh thần Nghị quyết 297/CP, và được Ủy ban Nhân dân tỉnh chấp thuận, trường sẽ được coi tương đương như một trường đại học chuyên nghiệp, do hệ đại học chuyên nghiệp quản lý, có chiếu cố tính chất nhà trường là một trường tôn giáo.
Điều 3 : Chậm nhất đến 15-04-1979, mọi phương án mới về tổ chức và nội dung giảng dạy của nhà trường và về quy hoạch đào tạo v.v… phải được xây dựng xong trình Ủy ban Nhân dân tỉnh xét để đến tháng 6-1979 trường mới sẽ chính thức thay thế cho các trường cũ.
Điều 4 : Ông Nguyễn Kỳ, ty Giáo dục tỉnh Bình Trị Thiên, ban Đại học chuyên nghiệp tỉnh và Tòa Tổng giám mục Huế chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Tm UBND tỉnh Bình Trị Thiên
Nơi nhận: Tm Chủ tịch
- Ông Nguyễn Kỳ Phó chủ tịch
- Ty Giáo dục chuyên nghiệp Vũ Thắng
- Ty Công an Bình Trị Thiên
- Ủy ban MTTQVN tỉnh Bình Trị Thiên
- Tòa Tổng giám mục Huế
- Lưu NC - VP (9b)
8- Văn Thư xác định về Tiểu chủng viện Hoan Thiện
ngày 15-12-1979
(phúc đáp Quyết định của chính quyền ngày 13-12-1979)
HỘI THÁNH CÔNG GIÁO Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tòa Tổng Giám mục Huế Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ARCHEVÊCHÉ HUE
VIỆT NAM
Số 25/79 TTGMH
Huế, ngày 15 tháng 12 năm 1979
Kính gửi: Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên
Kính thưa quý Ủy ban,
Sau khi tiếp nhận Quyết định của quý Ủy ban, số 2342-QĐ/UB đề ngày 13 tháng 12 năm 1979, Tòa Giám mục chúng tôi xin xác định:
1. Tiểu chủng viện Hoan Thiện ở số 11 Đống Đa, Huế, tự bản chất là một chủng viện Công giáo, tức là nơi thường trú của các tu sinh để tu học trở thành linh mục, điều mà mọi người xưa nay luôn luôn công nhận.
2. Kể từ năm 1975 đến nay, các tu sinh ở đó đều luôn được chính quyền các cấp công nhận và đối xử với tư cách tu sinh.
Tòa Tổng giám mục chúng tôi trân trọng kính chào quý Ủy ban.
Tổng giám mục Huế
Philipphê Nguyễn Kim Điền
Bản sao kính gửi : Tổng giám mục phó Giáo phận Huế
Ủy ban MTTQVN tỉnh Bình Trị Thiên T. Nguyễn Như Thể
“để kính tường”
********************************************
Ủy ban Nhân dân Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tỉnh Bình Trị Thiên Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số 2342-QĐ/NC
Huế, ngày 13 tháng 12 năm 1979
QUYẾT ĐỊNH
Công lập hóa trường Trung học Tư thục Hoan Thiện, 11 Đống Đa, Huế
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên :
- Căn cứ Chỉ thị số 221 của Ban bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cải tạo nền giáo dục của Mỹ Ngụy nói chung và việc cải tạo trường tư nói riêng.
- Căn cứ Thông tư số 34/TT ngày 22-09-1978 của Bộ Giáo dục hướng dẫn tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các trường tư ở các tỉnh phía Nam.
- Căn cứ đề nghị của ông Trưởng ty Giáo dục Bình Trị Thiên.
Quyết định
Điều 1 : Nay công lập hóa trường Trung học tư thục Hoan Thiện ở số 11, Đống Đa, thuộc thành phố Huế để xử dụng vào mục đích giáo dục.
Điều 2 : Ty Giáo dục có trách nhiệm giải quyết các thủ tục pháp lý đối với trường tư thục Hoan Thiện theo đúng thông tư số 34 ngày 22-09-1978 của Bộ Giáo dục.
Điều 3 : Các ông Chánh văn phòng Ủy ban Nhân dân tỉnh, Trưởng ty Giáo dục tỉnh, Tòa Tổng giám mục Huế, ông Hiệu trưởng trường Trung học tư thục Hoan Thiện căn cứ quyết định thi hành.
KT Chủ tịch UBND tỉnh Bình Trị Thiên
Phó chủ tịch
(ký tên và đóng dấu)
Vũ Thắng
9- Thư gởi Linh mục Nguyễn Thế Vịnh,
Chủ tịch Ủy ban Liên lạc Công giáo toàn quốc ngày 19-10-1983
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Ngày 19 tháng 10 năm 1983
TÒA TỔNG GIÁM MỤC HUẾ
ARCHEVÊCHÉ HUẾ Kính gửi Linh mục Nguyễn Thế Vịnh
VIỆT NAM 34 Ngô Quyền
Hà Nội
Kính Cha thân mến
Trong cương vị Giám mục, tôi đến với Cha -người anh em của tôi trong Đức Kitô và trong chức Linh mục- hiện đang là chủ tịch Ủy ban Liên lạc Công giáo toàn quốc, và là chủ tịch Ủy ban Trù bị Đại hội toàn quốc những người Công giáo Việt Nam.
Được biết Ủy ban Liên lạc toàn quốc những người Công giáo Việt Nam yêu Tổ quốc, yêu Hòa bình, đã trù bị mở rộng và đổi mới tổ chức yêu nước của người Công giáo cho “phù hợp và đáp ứng tình hình và nhiệm vụ cách mạng của đất nước ta trong giai đoạn hiện tại”, trước tiên tôi rất hoan nghênh thiện chí đó của Cha và anh chị em. Nhưng đây lại là một công việc có tầm vóc cả nước, đồng thời lại liên quan chính yếu tới nội bộ Công giáo chúng ta, nên tôi xin đóng góp một ít ý kiến xây dựng về việc này với Cha và anh chị em trong Ủy ban Liên lạc Công giáo.
1- Về việc “để phù hợp và đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ mới hiện nay”, phía Công giáo chúng ta đã có Hội đồng Giám mục Việt Nam đã được Nhà nước thừa nhận. Nhiệm vụ cụ thể của người Công giáo trong giai đoạn hiện nay của quê hương đã được nói lên trong hai Thư chung năm 1980 và 1983 của Hội đồng Giám mục Việt Nam là:
a. Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
b. Xây dựng trong Hội thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp hơn trong truyền thống dân tộc.
Cha và anh chị em cũng biết, theo tinh thần Công đồng chung Vaticanô II và Giáo luật 1983, thì Hội đồng Giám mục mỗi quốc gia có nhiệm vụ hướng dẫn mọi sinh hoạt Công giáo trong quốc gia ấy. Do đó, trong Hội đồng Giám mục Việt Nam có các Ủy ban đặc trách về Phụng tự, về Linh mục - Tu sĩ - Chủng sinh, về Giáo dân, nghĩa là sinh hoạt của toàn bộ Dân Chúa ở Việt Nam. Vậy phải chăng là thừa và còn dẫm chân nhau, nếu Ủy ban Liên lạc Công giáo không đứng vào trong tổ chức chính thức của Hội thánh Công giáo Việt Nam mà lại thành lập thêm một Ủy ban riêng rẽ? Nếu thấy cần vì nhu cầu mới, thì Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ thành lập thêm những Tiểu ban mới.
2- Đặc tính của Hội thánh chúng ta là duy nhất, thánh thiện công giáo và tông truyền. Nay Ủy ban Liên lạc Công giáo tự chọn và mời họp một số linh mục trong mỗi giáo phận mà không có sự chấp thuận trước của đa số Giám mục bản quyền, là điều làm cho giới Công giáo thắc mắc và e sợ. Xin Cha và anh chị em đọc lại Lời Chúa trong Phúc âm Gioan, đoạn 10 từ câu 1 đến 16.
3- Ai cũng biết Ủy ban Liên lạc Công giáo ở Trung Quốc đã biến thành Giáo hội Tự trị, tách lìa khỏi Giáo hội tông truyền Rôma. Ai cũng biết lực lượng bành trướng từ phương Bắc đã và đang tìm cách phá hoại đất nước chúng ta. Vậy nếu không cảnh giác, người Công giáo chúng ta có thể làm công cụ cho họ phá hoại Hội thánh Công giáo chúng ta nữa, điều mà Nhà nước ta không muốn, Hội thánh không muốn và chính chúng ta không ai muốn.
Vậy tôi xin đề nghị: Cha và anh chị em trong Ủy ban Liên lạc Công giáo -khi đã ý thức về đặc tính của Hội thánh Công giáo, về vị trí của linh mục, giáo dân trong Hội thánh- thì hãy đặt vấn đề thẳng với Hội đồng Giám mục Việt Nam về việc cập nhật hóa Ủy ban Liên lạc Công giáo này.
Nếu xét thấy thật có nhu cầu cấp bách, thì Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ xin họp Đại hội bất thường ngay để cứu xét. Bằng không sẽ chờ đến lần Đại hội thường kỳ. Vì đây là việc lớn có liên hệ đến cả nước, nên thiết nghĩ không có thể làm cách vội vã được.
Xin thân ái kính chúc Cha và anh chị em trong Ủy ban Liên lạc Công giáo được nhiều ơn Chúa.
Philipphê Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám mục Huế
Bản sao kính gởi:
- Ban Tôn giáo Chính phủ, để kính tường (kính nhờ UBMTTQVN tỉnh BTT chuyển giúp)
- Ủy ban MTTQVN tỉnh BTT, để kính tường
- Đức Hồng y Chủ tịch HĐGMVN, để kính tường.
- Các Đức Tổng Giám mục và Giám mục Việt Nam, để kính tường.
10- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas
ngày 19-03-1984
Việt Nam, 19-3-84
1. Mỗi ngày, người công giáo Việt Nam hứng lấy của ăn tinh thần từ đài Vatican và Veritas khác nào dân Israel trên rừng cát chờ đến sáng để lượm lặt manna. Về vấn đề “Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam”, đã nhờ nhiều bài của hai Đài mà giáo hữu Việt Nam hiểu được đâu là lập trường của Hội Thánh, mặc dù Ủy ban đó và dư luận chính quyền tung ra đề quyết việc làm của Tổng GM Huế là hoàn toàn sai, vì không có GM nào làm như vậy. Rồi TGM Huế sẽ phải đền tội mình. (TGM Huế đã nói với Ông Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên : Xin ông cho phép tôi dùng một thí dụ. Nhà nước ra một đạo luật. Nhưng đồng bào ngó nhau, rồi không ai tuân giữ cả. Chỉ có một anh chàng khờ chăm chỉ giữ đạo luật đó thôi. Rồi anh phát hiện ra là không có ai giữ luật ấy như mình cả, anh mới ngạc nhiên nói : Sao mấy người không giữ luật Nhà nước? Tất cả đồng bào cũng ngó nhau mỉm cười, rồi cũng chẳng ai giữ cả. Vậy thưa Ông Chủ tịch, Ông là Nhà nước địa phương đây, Ông nghĩ thế nào về anh chàng khờ đó? Ông có thể nói với anh ấy: Sao anh khờ quá ! Không ai giữ luật đó cả, anh giữ làm chi có một mình? Hay trong cương vị của Ông, Ông phải nói : Chỉ có một mình anh là trung thành với Nhà nước thôi. Thực vậy, Hội Thánh chúng tôi đã có luật cấm LM tham gia hay thành lập thứ Ủy ban ấy. Các GM đều biết cả. Nếu các ngài không tuân giữ mà cấm, thì là việc của các ngài. Phần tôi, tôi biết có bổn phận tuân giữ thì tôi phải giữ đó thôi. Vả lại, đây không có vấn đề thiểu số là sai, vì luật này từ trên ban xuống, chớ đâu phải từ hàng ngang mà thiểu số phục tùng đa số). Người ta đang tìm coi những tin này làm sao lọt ra nước ngoài được. Nhưng dư luận quần chúng nói: Bưu điện trong tay Nhà nước, Nhà nước có biện pháp kiểm duyệt gắt gao mọi việc mọi nơi, thì làm gì lọt khỏi tay Nhà nước? Chớ quên rằng Nhà nước cho phép di tản hợp pháp và nội trong tháng Giêng 84, nghe nói đã có hơn 1.900 người Việt đi chính thức ra nước ngoài, trong đó làm sao không có người công giáo? Về “Ủy ban Đoàn kết Công giáo”, thì ở Việt Nam đã nghe được các Đài sau đây báo tin hay bình luận: BBC,VOA, Vatican, Veritas.
2. Đòn giáng trả mà TGM Huế đã đoán trước thì thực sự xảy ra, sau khi ngài treo chén LM duy nhất của Huế đã cương quyết tham gia UB ĐKCG ấy. Trong số 142 LM tham gia, chỉ có duy nhất LM này bị phạt vạ thôi, và đến nay còn bị phạt, vì LM này nhất quyết cứ tham gia. a) Đem vụ LM Nguyễn Văn Lý không tuân lệnh của chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên, tước chức LM và trả về lại gia đình, nên đã tức mà cố thủ trong nhà xứ, có giáo dân yểm trợ trong vòng hơn 3 tháng và đã dùng loa phóng thanh mà thanh minh cho mình. Bị xử 12 năm tù ở. Nhưng luật sư biện hộ (đem từ Hà Nội vào) quả quyết TGM là người trách nhiệm chính, vì làm thinh không ngăn cản là xúi giục, nên đập rắn phải đập đầu. Rồi hai ba ngày sau cho đọc bản cáo trạng trên truyền thanh và truyền hình, công khai phỉ báng TGM, khi chưa hỏi TGM lần nào coi việc đó có thực hay không. (Đã có mật lệnh phải tìm ghép TGM vào tội chính trị để đập nó). Nhưng vụ xử “non” LM Lý chỉ làm thêm uy tín Công giáo và đồng bào lương dân tỏ lòng quí mến các LM hơn. b) Họ liền tung ra vụ Tu hội Hy Vọng của Đức Cha Nguyễn Văn Thuận để bắt Đức TGM Phó Huế, LM Nguyễn Hữu Giải, LM Nguyễn Văn Chánh đi “làm việc” hằng ngày tại Công an. “Làm việc” nghĩa là bị thẩm vấn, mắng nhiếc, đe dọa… 3 vị này làm việc như vậy đã gần 4 tháng rồi mà chưa xong. Họ buộc phải nhận Tu hội Hy Vọng được thành lập để lật đổ chính quyền. Từ ngày Đức Cha Thuận bị bắt lại đến nay, tất cả những ai từ Nam chí Bắc có liên hệ cách nào với Tu hội HV đều bị gọi làm việc cả, đến vùng Huế đây là sau cùng. Họ cho những người liên hệ nghe tiếng ĐC Thuận khai rõ trong “bande” cassette, khai từng tên người một, khai từng chi tiết… (Về ĐC Thuận, có một cán bộ cao cấp cho biết là ngài bị tiêm “sérum de vérité” của Liên xô, nên đã khai tỉ mỉ tất cả. Hiện ĐC đang bị giam ở đâu, người công giáo không ai biết cả). c) Nhóm LM làm báo “Công giáo và Dân tộc” mà tất cả giữ những chức trọng yếu trong Ủy ban Đoàn kết Công giáo quả quyết là Đức Cha Phạm Ngọc Chi làm cố vấn “sít sao” cho TGM Huế trong vụ chống UBĐKCG. Thì mấy ngày trước lễ Tro (1984), lối 7 giờ sáng, đột xuất lối 100 công an Đà Nẵng phong tỏa khu Tòa GM Đà Nẵng. Đoạn mời Đức Cha Chi đi làm việc tại sở Công an tỉnh. Trưa bắt ăn cơm tại chỗ, không cho về nhà, rồi bảo nghỉ trưa tại sở Công an, đến lối 14 giờ có xe Công an đưa về Tòa Giám mục, thì họ đưa ra lệnh cho phép xét nhà, rồi khởi sự ngay việc xét phòng của ngài, cho đến 21 giờ mới xong, có tịch thu một mớ tài liệu. Đoạn 2 hôm sau, ngày nào cũng bắt ngài đi làm việc, sớm mai và chiều, đến hôm nay cũng chưa xong. Đồng thời cũng bắt giam một cha xứ trong thành phố (giáo xứ Tam Tòa) từ thứ ba trước lễ Tro. 5 cha xứ khác trong thành phố cũng bị bắt đi làm việc một ngày hai buổi như Đức Cha Chi. Đến hôm nay chưa xong. d) Sáng 15-3-84, công an đến xét phòng LM Quản lý Giáo phận Huế, vịn lẽ bị khai có liên hệ với Tu hội Hy Vọng. Ai cũng nghĩ là để khủng bố TGM Huế.
3. Cách đây một tháng, có đơn tố cáo LM họ Phường Tây (cách Huế gần 40 cây số về phía đông nam) trong đêm Sinh Nhật 1983 có diễn tuồng “Con trai hoang đàng” để chống chính quyền. Bởi vì ông chủ trại heo không chịu mướn con trai hoang đàng giữ heo, viện lẽ thời buổi này ai cũng đói cả, không ai có dư của mà mướn người làm thuê. Gọi Cha sở đi làm việc tại công an xã. Đồng thời cũng gọi những vai tuồng đi làm việc. Cha sở, vì cương trực đã từ lâu, nhiều lần va chạm với chính quyền. Nay Cha vẫn cương quyết không chịu nhận tội. Sau 1 tháng làm việc thì toàn bộ Hội đồng giáo xứ cả 2 họ Cha phụ trách đều ký vào tờ công an viết sẵn, nhìn nhận Cha xứ có tội và xin chính quyền xử lý Cha. Dựa vào đơn tố cáo và các chữ ký toàn bộ Hội đồng giáo xứ thì Cha xứ có thể bị tống giam ngay và sẽ bị xử tù, như đã xử tù 5 chủng sinh Huế cách đây 3 năm, vì diễn lại cuộc công an bắt bớ những giáo hữu đi hành hương kính Đức Mẹ La Vang vào năm 1981. Nhưng rồi toàn thể bổn đạo ý thức sẽ mất LM mà không bao giờ có LM nào thay thế nữa, đã đồng loạt ký tên vào Kiến nghị gởi chính quyền phản đối việc làm của Hội đồng giáo xứ. Còn các ông trong Hội đồng giáo xứ thì ăn năn, làm đơn thú tội với Cha xứ vì trót bị chính quyền đe dọa, đánh đập, bắt ép ký tên vào tờ đơn họ viết sẵn. Hội đồng giáo xứ đứng trước bàn thờ xin lỗi Chúa, xin lỗi Cha và xin lỗi anh chị em bổn đạo. Đoạn làm đơn lên chính quyền xin rút lại chữ ký mặc dù nếu có phải bị tù cả chục năm cũng đành, còn hơn bị khai trừ ra khỏi cộng đồng giáo xứ. Thấy phản ứng bất lợi của quần chúng, chính quyền lờ đi việc đó. Nhưng lại bắt Cha xứ về tội liên hệ với Tu hội Hy Vọng, vì giới thiệu cho con cái mình vào Tu hội đó. Rồi xét nhà của Cha, tịch thu một số sách đạo in ronéo sau ngày Giải phóng. Lần này bắt đi về huyện làm việc, không làm tại xã nữa (huyện cách xã lối 30 cây số qua một cái phá). Một hôm “làm việc” quá mệt, phần đàng về xa trắc trở đò giang, nên Cha ở lại nơi một LM đồng liêu, thì bổn đạo Phường Tây tuôn ghe xuồng đi tìm Cha xứ, đinh ninh là công an giam giữ rồi. Đến hôm nay, Cha ấy vẫn còn phải làm việc.
4. Nội dung làm việc là mạt sát Đạo, gán cho tội phản động, theo đế quốc, mắng chửi từ Đức Giáo Hoàng, Giám mục trở xuống Linh mục, Tu sĩ, Giáo dân. Chẳng hạn nói: thằng Giáo Hoàng này theo đế quốc, dân chúng quá ghét nên đã bắn nó. Thằng TGM Điền nịnh thằng Giáo Hoàng, được nó ban cho một tiếng “dũng cảm” rồi lao mình bất kể chết sống để ngăn cản người ta yêu nước, làm công chuyện đó một mình, không có Giám mục nào theo cả. Còn các thằng LM kia đều phản động, xấu xa, phải đền tội trước nhân dân… Các LM bị đi “làm việc” như thế nói các ngài đau khổ cho phần mình thì ít, mà xót xa cho Bề trên thì nhiều. Tất cả an ủi nhau để kiên tâm chịu tử đạo mòn vì Chúa, và những lời Đức Thánh Cha dạy về lối tử đạo mới ngày hôm nay, khi Ngài cầu cho các Giáo hội thầm lặng, tối hôm 14-8-1983 tại Lộ Đức, làm cho lòng họ phấn khởi vô vàn!
5. (Xin gởi kèm theo đây Bản kinh “Cầu cho Đức Giám mục Giáo phận” mà nay trong nhiều Giáo phận, bổn đạo đọc chung mỗi ngày sau Thánh lễ).
6. Về UBĐKCG, thì Đức Giám mục Ban Mê Thuột hoàn toàn ủng hộ lập trường của TGM Huế. Sau khi vài LM của ngài đi tham dự cuộc họp thành lập UBĐKCG tại Hà Nội về, thì ngài bảo họ phải rút ra khỏi cho mau. Các LM đó làm đơn cho ngài xin vâng phục mà đồng thời chính quyền cũng lại biết điều đó, nên gọi Đức Cha ra công an và cấm Đức Cha không được cản người ta như vậy, và nếu ngài muốn tự do đi kinh lý trong giáo phận thì sẽ được với điều kiện đừng cấm cản việc kia. Đức Cha Xuân Lộc thì nói: các anh đi họp Hà Nội trong lúc tôi nằm bệnh viện. Nhưng bây giờ anh nào ra mặt hoạt động thì sẽ biết tôi! Theo một giáo dân trong UBĐKCG nhận định, thì trong số 142 LM tham dự, nay chỉ có chừng vài LM là theo hẳn Ủy ban ấy thôi, còn lại thì vì sợ không dám công khai rút ra, nên chỉ theo cách tiêu cực. Một điểm bất lợi cho UBĐKCG là trong Thánh Lễ đồng tế bế mạc tại Hà Nội, LM Vương Đình Ái (Vinh) đã không cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng. Khi xong lễ, đa số LM phản đối ngay. Từ đó đến nay, họ cứ nói là tại Cha ấy lớn tuổi nên quên. Nhưng người ta vặn lại: Quên sao được ? Đó là phần lễ quy. Càng làm lễ lâu năm càng thuộc hơn chớ. Vậy hoặc là vì có thói quen không cầu cho Đức Thánh Cha lâu rồi, hoặc cố tình báo hiệu Giáo hội tự trị. - Vì để tránh né với Tuyên cáo của Thánh bộ Giáo sĩ, UBĐKCG đã để trong Điều lệ là UBĐKCG là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nhưng tránh né sao được: dù aperte vel occulte, dù directe vel indirecte… Mà không biết tại sao kỳ họp Quốc hội vào cuối tháng chạp 1983, UBĐKCG ấy chưa được Quốc hội thông qua để họ sinh hoạt như dự tính vào tháng 3-84. Và kỳ họp Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Trung ương tại thành phố HCM vào giữa tháng 8-83 cũng không nói gì tới là “thành viên” của Mặt trận. Phải chăng vì bị các Đài phát thanh ngoại quốc nói đi nói lại làm rõ chân tướng của họ mà họ phải chùn bước?
7. Được biết TGM Huế dự định, khi bị xét Tòa Giám mục và triệu tập đi “làm việc” thì dấu là giờ đã điểm. Ngài sẽ nói với họ: Chúng ta là người lớn với nhau cả, gạt nhau làm gì? Tôi biết là các anh bắt đạo và tôi vui lòng chịu tử đạo. Các anh cũng biết việc các anh làm là vậy. Nên ta đi thẳng vào vấn đề cho khỏi mất thời giờ. Phần tôi, lương tâm tôi không thấy có tội chi cả đối với Nhà nước. Còn nếu các anh thấy khác và có bằng chứng xác đáng thì cứ xử tôi đi. Xử cách nào cũng được, tôi không chạy chối. Còn bắt tôi “làm việc” để trá hình, thì xin miễn, tôi không làm. Ngài lại cho biết: tinh thần thì chóng vánh đó, nhưng xác thịt thì yếu đuối lắm, biết có kiên trì được chăng, nên ngài cũng có dọn sẵn một bức thư, sẽ gởi cho toàn thể Giáo phận xin cầu nguyện và cho biết lý do mình bị chính quyền buộc tội.
Trên đây là những sự kiện rất thực được lượm lặt ngổn ngang vậy. Chúng tôi hoàn toàn tín nhiệm về tài khôn khéo của Đài, kiểm chứng tài liệu, quyết định cái gì nên nói và chừng nào nói, để chúng tôi được nhờ.
8. Đài Vatican từ hai tháng nay khó bắt quá! Buổi sáng, thường khi làn sóng 31m là nghe rõ nhất. Nhưng bây giờ bị Đài của Đài Loan, tiếng Tây Ban Nha, lấn át cả. Chỉ còn buổi chiều, vớt vát đôi chút với làn sóng 19 thước, vì có lúc parasite nghe cũng không hiểu. Còn Đài Veritas thì rất rõ. Thính giả Việt Nam, nhất là công giáo, rất mến thương và cám ơn tất cả Ban Việt ngữ của Đài Vatican và Veritas. Chúng tôi đo lường được đôi chút sự hy sinh tận tụy của mỗi một Vị trong Ban. Chúng tôi chỉ biết có hãm mình và cầu nguyện để đền ơn thôi.
9. Nghe Đài nói Đức Thánh Cha đã gửi thư cho mỗi GM khắp hoàn cầu và gửi bản Kinh Dâng thế giới cho Đức Mẹ để đọc ngày 25-3-84. Không biết có Giám mục Việt Nam nào nhận được thư và kinh ấy không? Rồi nghe Đài Vatican đọc cho nghe bản kinh ấy bằng Việt ngữ, nhưng lại nhằm cái ngày không bắt được, vì Đài Đài Loan lấn át cả. Rồi lấy gì mà đọc đây? Buồn đến muốn khóc! Nhưng hy vọng Đài Veritas sẽ có ngày phát lại. Canh chừng mãi, thì thực sự không thất vọng, nghe và ghi được rồi. Xin đa tạ Đài Veritas! Xin phép nói lại lần nữa: các Vị hai Đài là đại ân nhân của thính giả công giáo Việt Nam, không kể có rất nhiều người lương theo dõi từng bữa các Vị, họ mách tin cho chúng tôi nữa. Hằng bữa, anh chị em thầm lặng của các Vị mở miệng chờ ăn của ăn tinh thần. Xin hãy nhớ như vậy mà quên đi những lúc lao nhọc của bổn phận. Xin Chúa trả công vô cùng cho các Vị!
TB. Có 3 người thanh niên đã báo tin cho Tòa TGM Huế là có âm mưu tông xe Honda của TGM ngoài đường, gây thương tích, rồi chở vào bệnh viện tiêm thuốc cho tàn phế luôn. Gần đây, tung tin sẽ có người kèm TGM đi ngoài đường và bắt đi biệt tích… Phía Tòa TGM nghĩ: nếu họ định làm thật thì họ giữ rất kín để mà thành công. Tung tin ra là dấu hăm dọa thôi. Nhưng ai dám biết chắc gì với Cộng sản? có người nói vặn lại.
Phần TGM, thì chúng tôi được biết: ngài quen dặn chúng tôi xác tín như thế này mà sống phó thác là bất cứ một việc gì xảy ra cho cả vũ trụ hay cho một em bé mới sinh đều ở trong quyền phép Chúa, đều được Chúa quan phòng điều khiển, hoặc nó là điều lành thì Chúa ban cho con cái mình, hoặc nó là điều dữ bởi quỷ, thì Chúa cho phép xảy đến với điều kiện, nếu đó là ích lợi cho con cái Chúa. Xin được ơn xác tín như vậy, rồi sống phó thác trong yêu mến và hạnh phúc. Hơn nữa, nếu được ơn tử vì đạo, thì còn chi bằng! Hằng ngày dâng của lễ mạng sống cho Danh Chúa, cho Hội Thánh, rồi bình tĩnh chờ đợi trong thoải mái.
Tin giờ chót từ LM đang bị vạ treo chén: người ta đang “monter” để trục xuất TGM Huế ra khỏi tỉnh Bình Trị Thiên. (Có hay không, Chúa biết rồi).
- Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, điều 68: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Đọc qua, ai cũng nghĩ là có tự do hành đạo. Nhưng những lúc sau này, cán bộ cắt nghĩa: chỉ cho tự do tín ngưỡng (tin tưởng trong lòng thôi), chớ không cho tự do tôn giáo (là diễn đạo ra bên ngoài).
Do đó, Nghị quyết 297/CP, ban hành vào tháng XI-79, theo họ, là mở rộng cho tôn giáo sinh hoạt bằng dạy giáo lý phải xin phép, người xã khác không được đến dự lễ ở họ khác xã với mình, làm lễ khác giờ phải xin phép… Nếu như thế, thì Hiến pháp đã cấm đạo rồi. Còn hiểu tự do tín ngưỡng là tự do giữ đạo trong lòng, thì cần gì cho. Đã có lần TGM Huế nói công khai với một Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên: đối với người công giáo chúng tôi, Nghị quyết 297/CP là cái “thòng lọng” để thắt cổ chúng tôi mà thôi. Lúc này, công an đang dựa vào đó mà tầm nã các Tu hội đời. Nhưng ơn Chúa cho có nhiều gương thanh niên nam nữ chứng tá đức tin rất anh dũng.
- “Il y a eu des évêques emprisonnés pour avoir défendu l’Eglise. Y en aura-t-il qui le seront pour avoir défendu les droits de l’homme?” Chúng tôi chọc TGM Huế: Khi nói lời đó tại Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới 1971, Đức Cha có nghĩ là sẽ có ngày chính mình phải thực hành không? Ngài nói nếu Chúa thương cho mình phải thực hành lời đó thì có hạnh phúc nào bằng! Xin cầu cho tôi được như vậy nhé!
- Các LM Huế cho là vì họ bênh LM Nguyễn Văn Bính bị phạt treo chén, nên đã trả thù bằng cách tàn phá, bắt bớ Giáo phận Huế như thấy trên. Các ngài e sợ TGM Huế đau lòng trước áp lực, rồi mềm đi chăng, nên hết vị này tới vị kia đến thăm chừng, coi Đức Cha có nao lòng mà nghĩ đến việc đấu dịu hay đầu hàng chăng. Các ngài khẳng định: chúng con vui lòng chịu bắt bớ, xin Đức Cha đừng vì chúng con mà bỏ cuộc. Chúng con cầu nguyện thêm để Đức Cha trung kiên đến cùng.
11- Kinh cầu cho Đức Giám mục Giáo phận
12- Thư gởi ông Nguyễn Hữu Thọ,
Chủ tịch Quốc hội CSVN ngày 11-04-1984
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tòa Tổng Giám mục Huế Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Kính gửi Luật sư Nguyễn Hữu Thọ
Chủ tịch Quốc hội
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Kính thưa Luật sư Chủ tịch Quốc hội,
Tôi, Nguyễn Kim Điền, với tư cách là một người dân trong nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và là một giám mục của Giáo hội Công giáo thế giới, coi sóc Giáo phận Huế, tỉnh Bình Trị Thiên, từ năm 1964 đến nay với tất cả sự công nhận của các chính quyền ở Việt Nam, của nhân dân Việt Nam và trên thế giới, đang có một tâm tư và thắc mắc có liên quan đến Hiến pháp và pháp luật, xin được hỏi ý kiến của luật sư chủ tịch Quốc hội, vì số 3 điều 83 Hiến pháp có nói: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật”.
Và điều 73 Hiến pháp nói: “Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật… Mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa…”
1. Sự kiện
a- Tại phiên tòa ngày 13-12-1983 của Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên, ông Nguyễn Văn Trung ngồi ghế chánh án xử linh mục Nguyễn Văn Lý, quản xứ Đốc Sơ, Hương Sơ, thành phố Huế về tội gọi là chống phá cách mạng, phá hoại sự đoàn kết nhân dân.
Sau khi Viện Kiểm sát Nhân dân buộc tội và ông chánh án hỏi cung công khai linh mục Nguyễn Văn Lý trước tòa, nữ luật sư do tòa đề cử biện hộ cho bị can đã qui tội cho Tòa Giám mục Huế là bao che, xúi giục linh mục Nguyễn Văn Lý chống quyết định 79 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên, chống chính quyền và bảo “đập rắn phải đập cho trúng đầu”…
Vị chánh án tiếp theo đã quy trách nhiệm cho Tòa Giám mục Huế và kiến nghị chính quyền của tỉnh Bình Trị Thiên phải có biện pháp thích đáng với hai ông Tổng giám mục chính Nguyễn Kim Điền và Tổng giám mục phó Nguyễn Như Thể.
b- Tôi, Nguyễn Kim Điền, đã không được gọi, triệu tập đến phiên tòa để được nghe, được thấy tài liệu dẫn chứng, được thẩm vấn, được nói trước Tòa hoặc đối chất gì với bị can linh mục Nguyễn Văn Lý cả… Sau phiên tòa đó tôi không được thông báo chính thức về bản án mà chỉ nghe được trên đài truyền thanh địa phương và thấy trên truyền hình.
2. Nhận xét
Và đây là điều mà tôi và dư luận quần chúng ở Huế, ở Bình Trị Thiên và ở nhiều nơi khác trong nước nhận xét:
a- Tòa án đã nghe lời khai của một can phạm đã bị giam giữ 7 tháng, rồi lập tức kết tội cho Tòa Tổng giám mục là đầu rắn, là đồng tình mà chưa có thẩm vấn người bị cáo là đồng tình để được xác nhận hoặc đối chất… Dư luận cho rằng phán quyết của Tòa án như vậy không có tính chất khách quan. Dư luận còn cho rằng: Công lý không được tôn trọng nơi Tòa án.
b- Lời buộc tội của vị Chánh án, lý luận của nữ luật sư quy kết tội cho Tòa Giám mục và bản án Tòa kiến nghị chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên có biện pháp thích đáng… được nói công khai trước Tòa và rồi được đọc lên công khai rộng rãi liên tiếp nhiều ngày trên đài phát thanh địa phương và truyền hình là những sự việc làm cho người Công giáo chúng tôi cảm thấy danh dự và nhân phẩm bị xúc phạm.
3. Thắc mắc
Chúng tôi có những thắc mắc sau đây:
a- Căn cứ trên lời khai của một phạm nhân tố cáo thêm một “phạm nhân” khác mà không tra vấn, không tài liệu dẫn chứng, không đối chất rồi lên án “phạm nhân” mới ngay trước Tòa; thì theo hiểu biết của tôi và pháp luật nói chung trên thế giới là vi phạm đến những luật sơ đẳng nhất của việc tố tụng và xét xử.
Xin được phép hỏi luật sư chủ tịch Quốc hội: Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên làm như thế có vi phạm luật pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không?
b- Trong phiên tòa và sau phiên tòa xử linh mục Nguyễn Văn Lý, việc phổ biến cáo trạng, lời buộc tội và kết tội có tính cách phê phán nặng lời Tòa Giám mục. Hiến pháp điều 70 nói: “Mọi công dân… có quyền được pháp luật bảo vệ tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm”.
Vậy xin được phép hỏi luật sư chủ tịch Quốc hội: Không biết Tòa án Nhân dân Bình Trị Thiên và các cơ quan thông tin Bình Trị Thiên trong vụ này có vi hiến không?
c- Với kiến nghị của tòa án: Có biện pháp thích đáng với Tòa Giám mục, tuy chưa thẩm vấn xét xử tôi, vậy mà quyền công dân của tôi đã bị hạn chế, cụ thể là trong ngày 21-12-1983, khi tôi có làm đơn xin được đi Đà Nẵng mừng Giám mục Phạm Ngọc Chi trong dịp lễ của người… đơn của tôi bị bác vì lý do tòa án đang có kiến nghị với chính quyền tỉnh về Tòa Giám mục.
Thưa luật sư chủ tịch, làm như thế, chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên có vi hiến đối với điều 71 của Hiến pháp không?
d- Tòa án đã kết tội cho Tòa Giám mục ngày 13-12-1983, trong vụ xử án linh mục Nguyễn Văn Lý, mà mãi đến ngày 04-04-1984, tôi mới nhận được lệnh do Sở Công an Bình Trị Thiên triệu tập để thẩm vấn về những vấn đề liên can đến vụ án đó, và hiện nay tôi còn đang bị thẩm vấn “như một tội nhân”.
Thưa luật sư, chính quyền Bình Trị Thiên làm như thế có đúng luật pháp không?
Kính thưa luật sư chủ tịch Quốc hội,
Nếu được quý luật sư chủ tịch vui lòng giải đáp cho một cách công khai, chúng tôi rất lấy làm vạn hạnh.
Kính chúc luật sư chủ tịch Quốc hội được mọi sự an lành.
Huế ngày 11 tháng 4 năm 1984
Philipphê Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám mục Huế
13- Thư Chung gởi Tổng Giáo phận Huế ngày 17-10-1984
Thân gửi anh em linh mục của tôi trong Chúa Kitô,
Các tu sĩ nam nữ và toàn thể anh chị em giáo hữu Giáo phận Huế thân mến,
Tháng Đức Mẹ Môi Khôi đang đến ngày 17, tôi vui mừng biết rằng anh chị em đang sốt sắng mỗi ngày lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ, Mẹ Hội Thánh, Mẹ chỉ bảo đàng lành. Trong các buổi đó, anh chị em đặc biệt cầu nguyện cho tôi.
Tôi chắc rằng chính nhờ những lời cầu nguyện kiên trì và sốt mến của anh chị em từ bảy tháng nay mà tôi được vững tâm trong nhiệm vụ ‘làm chứng’. Như anh chị em đã biết, từ 05-4-1984 đến nay, trong hai lần tôi đi ‘làm việc’ tại Sở Công An Bình Trị Thiên, ước tính khoảng 120 ngày, thì nội dung vấn đề có thể nói chính yếu là “Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước Việt Nam”.
Trong buổi thẩm vấn cuối cùng, ngày 15-10-1984, để đúc kết chuỗi ngày dài ‘làm việc’, tôi đã được dồn vào mấy câu hỏi tổng kết về thái độ của tôi đối với “Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước Việt Nam”. Đáp câu hỏi có nội dung: Căn cứ vào đâu mà chống đối tổ chức Ủy Ban… ? Tôi nói:
- Tôi căn cứ vào Tuyên Cáo của Thánh Bộ Giáo Sĩ ngày 08-3-1982 (dựa theo Giáo luật cũ và mới của Tòa Thánh).
Anh chị em biết giáo sĩ, linh mục có những luật lệ riêng biệt trong Hội Thánh: không được hành xử một số quyền chung như mọi người… và cấm làm một số nghề nghiệp không xứng hợp với chức thánh của mình… Giáo luật cũ hay mới đều ghi rõ các khoản luật đó. Thánh Bộ Giáo Sĩ nhắc lại gần đây một điều rất quan trọng và thời sự là: “Cấm các giáo sĩ, các linh mục làm chính trị, không được thành lập và tham gia các hiệp hội có tính cách nghiệp đoàn chính trị v.v…”
Người phỏng vấn tôi lại căn cứ vào Nghị quyết 297/CP, phần II, số 6c: “Những tài liệu tôn giáo từ các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài gửi cho các tổ chức tôn giáo nếu có điều gì trái pháp luật, chính sách của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thì các tổ chức tôn giáo không được phổ biến và thực hiện”, và nói đại để: Tuyên cáo Thánh Bộ Giáo Sĩ, và kể cả Giáo luật mới cũng chưa được nhà nước kiểm duyệt, huống chi là đi ngược với chính sách nhà nước, nếu đem thi hành là vi phạm… Tôi đã thẳng thắn trả lời:
- Tôi phải tuân giữ luật Giáo Hội của tôi, nên tôi chẳng làm cách khác.
Người thẩm vấn bảo tôi giải thích ý nghĩa câu trên, tôi nói:
- Tức là tôi không thể chấp hành luật pháp của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam như phân tích trên.
Người thẩm vấn hỏi tiếp, đại ý là: Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước Việt Nam được pháp luật cho phép và bảo trợ… nếu chống là chống lại pháp luật và chính sách của Nhà nước. Tôi đáp (nguyên văn được ghi vào biên bản):
- Tôi xác định khi luật pháp thế trần nghịch với luật Thiên Chúa và Hội Thánh, thì cũng như các Thánh Tông Đồ xưa và các Thánh Tử Đạo của mọi thế hệ: tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta (xem Công vụ 5,29).
Người thẩm vấn bảo tôi cắt nghĩa thêm câu đó cho rõ, tôi nói:
- Có nghĩa là tôi không thể chấp hành những luật pháp chính sách nào của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nghịch lại quyền lợi của Thiên Chúa và Hội Thánh.
Tôi đã ký biên bản đúc kết đó sáng 15-10-1984, và từ chiều hôm đó, tôi được tạm nghỉ ‘làm việc’.
Anh chị em thân mến,
Tôi xin thông báo cho anh chị em rõ vụ việc của tôi là như vậy, để một lần nữa cám ơn anh chị em “đã cầu nguyện cho tôi biết nói khi phải mở miệng… và dạn dĩ thông báo Mầu Nhiệm Tin Mừng mà tôi là sứ giả…” (Êphêsô 6,19-20)
Tại Milêtô, Phaolô trên đường về Giêrusalem, đã nói với các niên trưởng Êphêsô: “Tôi không biết được những gì sẽ xảy đến cho tôi, trừ ra là Thánh Thần… chứng thật cho tôi rằng: xiềng xích lao tù đang chờ tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi không quan tâm, miễn sao là tôi chạy cho xong quãng đường đời… và hoàn tất sứ vụ Đức Kitô ủy thác…” (Công vụ Tông đồ 20,23-24)
Thưa các anh em Linh mục,
Tuy muôn lần bất xứng, nhưng tôi cũng xin dám mượn những lời ấy để nói với anh em, xin anh em tiếp tục cầu nguyện cho tôi… và xin nhắc để “anh em hãy thận trọng về chính phận mình cũng như về số phận đàn chiên trên đó Thánh Thần đã đặt anh em chăn dắt, Hội Thánh của Thiên Chúa đã được Người mua bằng chính Máu Con của Người” (Công vụ Tông đồ 20,28).
Thưa quý Tu sĩ và anh chị em Giáo hữu,
Tuy là chủ chăn, nhưng tôi không còn có thể đi thăm viếng từng cộng đoàn, từng họ đạo… để nói lời khích lệ nữa. Tuy nhiên, anh chị em biết là giám mục của anh chị em đang thấy trước mặt mình mỗi ngày từng ngôi nhà thờ, và canh cánh trong lòng từng Họ Đạo, từng Cộng Đoàn: tôi hằng cầu nguyện và hiến tế với anh chị em… Xin nhắc anh chị em “hãy sống xứng với ơn gọi của mình” (Êphêsô 4,1). Hãy “hăm hở duy trì sự hiệp nhất của Thánh Thần” (Êphêsô 4,3). Còn về tương lai, anh chị em hãy “phấn chấn lên trong Chúa, trong mãnh lực quyền phép của Người” (Êphêsô 6,10).
Anh chị em thân mến,
Tôi xin giao phó anh chị em cho Chúa, cho Lời ân sủng của Người (Công vụ Tông đồ 20,32), và cho lòng từ mẫu của Đức Mẹ La Vang. “Nguyện chúc bình an và lòng mến cùng với lòng tin do từ Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu Kitô” (Ephêsô 6,23) ở với tất cả mọi người anh chị em.
Tòa Tổng Giám Mục Huế, lễ Thánh Ignatiô thành Antiôkia
Ngày 17 tháng 10 năm 1984
(ký tên)
Philiphê Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám Mục Huế
14- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican
và Veritas ngày 24-10-1984
24-10-1984
Thính giả trung kiên của Đài Vatican và Veritas xin thân ái kính chào các Anh Lê Hoàng, Linh Tiến Khải, Trần Phúc Nhạc, các Chị Mai Anh, Minh Nguyệt và các Anh Chị mà chúng tôi chưa được hân hạnh thuộc tên. Kính chào thăm các Anh Đặng Thế Dũng, Phạm Việt, các Chị Mai Hương, (?) và ban Thánh ca các em di cư đảo Ba-ta-an (?) cùng các Anh Chị khác cộng tác với Đài! Xin các Anh Chị nhận nơi đây lòng ngưỡng mộ và biết ơn sâu xa của thính giả vô danh chúng tôi, hằng ngày đã đón nhận “manna” nuôi trí lòng của Anh Chị công phu gửi về Quê Mẹ! Xin Chúa và Mẹ chúc lành và trả ơn cho Anh Chị!
- Hạng thính giả trung kiên khác của quý Đài là Chính quyền các nơi. Có một bộ phận không những chăm chỉ nghe mà còn ghi âm lại nữa. Những người công giáo bị “làm việc” đều chịu hạch hỏi, mỗi khi Đài có nói đến tình hình công giáo Việt Nam, và họ nói lại nguyên văn các tin đó của Đài. Chắc quý Đài không dè mình đã mang Lời Chúa và tiếng nói của Hội Thánh cho kẻ chủ trương vô thần để họ nghiên cứu mổ xẻ… và rồi trong giờ sau hết của họ, có thể lắm, họ thầm thỉ xin được tin thờ Ông Chúa mà quí Đài hằng bữa đã dẫn đưa vào tai họ đó!
- Hạng thính giả khác nữa là một số khá đông người lương theo dõi quí Đài để hưởng đôi chút ấm áp của tiếng nói chân lý và công bình. Chính họ nhiều khi đi mách cho láng giềng công giáo là sớm mai này Đài Vatican hay Veritas đã nói thế này thế nọ, anh chị có nghe không? Một số người công giáo nghèo khó không sắm nổi đài để nghe, thì nhờ những bạn láng giềng đó mà hưởng được Lời Chúa hay tin tức của Giáo hội các nơi. Như thế, quý Đài có nghĩ rằng mình là thừa sai truyền giáo đích thực, tuy ngồi bó rọ tại chỗ, nhưng lời mình đã loan đi khắp mặt đất? Còn những người được nghe Tin Mừng thì thầm thỉ biết ơn và cầu nguyện lại cho quý Đài.
- Từ 1975 đến nay, người công giáo Việt Nam không còn báo chí nước ngoài hay trong nước để bồi dưỡng tinh thần. Có 2 tờ “Chính Nghĩa” (nay là “Người Công giáo Việt Nam”) và “Công Giáo và Dân Tộc” thì lại thường xuyên tạc Tin Mừng và Hội Thánh, nên không mấy người dám đọc. Được biết mỗi tuần, tuần báo “Osservatore Romano” đều có gởi cho mỗi giáo phận Việt Nam (25 giáo phận). Nhưng trong 2 năm qua, Huế chỉ nhận được có 1 số thôi, cách đây 2 tuần. Thư từ của bạn bè thì cái đến cái không. Nếu ở Hà Nội hay Tp. HCM thì còn ra chợ trời tìm, thỉnh thoảng được vài ba số “Osservatore Romano”. Ở tỉnh lẻ thì chịu ăn chay suốt năm. Hôm nọ có một số báo “Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ” của các Cha dòng Đồng Công bên Mỹ, được thân nhân của một giáo dân làm giấy gói quà gửi về cho gia đình. Người trong xóm phát hiện ra mừng quá, vuốt lại cho ngay thẳng để đọc và chuyền nhau đọc mà sung sướng cả làng! Lúc xưa, đọc sách nghe nói tín hữu Đông Âu ở Giáo hội thầm lặng thèm khát Thánh Kinh, sách đạo… nay mới tin điều đó thực và quá thực. Ước gì các Sứ Điệp của Đức Thánh Cha vào dịp Phục Sinh, Mùa Chay hay ngày quốc tế Truyền giáo… được 2 Đài đọc cho trước, để ghi âm và gửi các giáo xứ hầu cho kịp đọc trong các ngày Lễ ấy. Nhưng sáng chính ngày Lễ, thì đài Vatican mới đọc thôi, lại đọc vào 6 giờ sáng, phần đông đang dự Lễ ở nhà thờ, không mấy người nghe được và có nghe được cũng không làm gì phổ biến cho kịp. Tiếc ơi là tiếc !
Xin cám ơn và hoan nghênh những bài tường thuật các chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Giáo Hoàng, đã nuôi dưỡng tinh thần giáo dân Việt Nam rất nhiều. Cách riêng về chuyến viếng thăm Đại Hàn, có lễ phong Thánh cho 103 vị tử đạo, phần thì Đại Hàn không xa Việt Nam lắm, lại có thời gian binh sĩ Đại Hàn nhan nhản trên đất Việt Nam, hơn nữa Việt Nam đang có 117 Á Thánh đang chờ và đang xin được phong Hiển Thánh, nên theo dõi các tin tức với biết bao nhiêu là trìu mến, hân hoan… Xin cám ơn anh Lê Hoàng!
- Hồi tháng 8 năm nay, được nghe tin là Đức Thánh Cha xin giáo hữu hoàn cầu dành tháng 10 cầu cho Giáo hội Việt Nam, như là Giáo hội thầm lặng. Lòng ai nấy cảm động và rất biết ơn Đức Thánh Cha. Thì ra đã có tin 2 Thông tấn xã ngoại quốc nào đó khẳng định là tại Việt Nam không hề có bắt đạo, mà Đức Thánh lại không tin, còn xin khắp nơi cầu nguyện cho Giáo hội Việt Nam. Do đó, giáo dân Việt Nam càng mến phục Đức Thánh Cha, con người sáng suốt, không thể gạt được.
15- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican
và Veritas ngày 10-05-1985
10-05-85
- Thân ái kính thăm Lê Hoàng, Linh Tiến Khải, Trần Phúc Nhạc, Mai Anh, Minh Nguyệt và tất cả anh chị em “mới” chưa được hân hạnh biết tên. Xin chân thành cảm ơn tất cả vì đã cấp manna hằng ngày cho chúng tôi.
- Từ cuối Janvier (ct: tháng giêng) đến đầu Mai (ct: tháng năm) rất khó bắt đài Vatican, có ngày chẳng nghe chi hết buổi sáng cũng như buổi chiều: bị đài tiếng Tây Ban Nha của Đài Loan lấn át cả, rồi có lúc đâm nghi là đài bị địa phương phá. Nhưng từ đầu Mai đến nay thì nghe rõ.
- Rất cám ơn đã gởi về kịp bản dịch Thư của Đức Gioan-Phaolô II cho các LM thế giới ngày thứ Năm Tuần Thánh và Sứ điệp ngày Ơn gọi. Chắc là phải làm thâm giờ mới kịp như vậy. Thính giả cảm động và biết ơn lắm!
- Về “Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước” đang tuần tự thành lập trong khắp các giáo phận ở Việt Nam, trừ Ban Mê Thuột và Huế. Đức Cha Ban Mê Thuột nói hễ LM nào gia nhập vào UBĐKCG thì trả giáo xứ lại cho ngài. Còn ở Huế, vì Đức Cha đã phạt vạ “treo chén” (nhưng còn cho làm lễ riêng một mình, với điều kiện là nếu tích cực sinh hoạt cho UBĐKCG thì không được làm lễ riêng nữa) và chỉ có một LM duy nhất gia nhập UB đó, nên từ một năm rưỡi nay không thành lập được UBĐKCG tại Giáo phận Huế, mặc dù không cấm giáo dân. Ai cũng biết tại Việt Nam, muốn làm chi có tính cách công giáo ít nhiều, thì phải là LM làm mới được.
- Sau khi Đức Cha Đà Lạt từ Rôma về, thì một Thứ trưởng bộ Nội vụ (ngành Công an Trung ương) tuyên bố không chính thức là ĐC Đà Lạt có hỏi Đức Giáo Hoàng về UBĐKCG có thành lập được không, thì Đức Giáo Hoàng nói là “Tùy các GM”. Đang khi đó nhóm báo “Công Giáo và Dân Tộc” tung tin: Tiếng nói của Đài Vatican là tiếng nói riêng tư của tập đoàn dòng SJ (ct: dòng Tên). Còn bản tin tiếng Việt Nam là của tập đoàn Quercetti thao túng. Nhưng tuyệt đại đa số thính giả Việt Nam không chịu hiểu như vậy. Những loạt bài: LM Pacem in terris ở Tiệp, Thư ngỏ của giáo dân Tiệp, Nếu muối lạt đi, Sau 10 năm giải phóng… đã làm an tâm vững dạ nhiều người. Có người lý luận: ĐC Đà Lạt có đủ mọi thuận lợi, nào đã gặp tận mặt nhân viên đài Vatican Việt ngữ, đã bàn bạc với nhau được nhiều lần, mà đài Vatican Việt ngữ cứ tiếp tục một giọng điệu bất lợi cho Nhà nước Việt Nam; nào Đức Cha có thể mét với cấp trên, với bậc Thánh bộ liên hệ, nào Đức Cha đã chầu Đức Giáo Hoàng 2 lần… mà sao tập đoàn Quercetti cứ ngoan cố, đang khi cái gì của Vatican cũng được tiếng là già dặn, khôn ngoan, đúng đắn? Ai cũng mong Đức Cha Phó Long Xuyên sẽ đem cái gì mới đối với UBĐKCG, nhất là thư Vatican khiển trách Đức Cha Huế vì sự cuồng tín riêng rẽ của mình. Đang khi đó từng hai người công an đi thăm rỉ tai các LM trẻ Huế: ông Điền là “ung nhọt” trong nước, không thể để yên như vậy được. Với chiến dịch “đâm bị thóc, thọc bị gạo” để các LM trẻ rồi tới LM già phải bực mình mà tẩy chay ông Điền.
- Theo lẽ, Đại hội Thường niên GMVN đã từ 4-5 đến 10-5-85. Nhưng đến ngày 4-5-85 mà không GM nào được điện tín mời cả. Thì ra ông Nhà nước tự động dời lại từ 20-4 đến 27-4-85. Lần này là lần thứ 3, Đức Cha Huế bị Nhà nước loại ra, không cho văn phòng Hội đồng GMVN mời họp. Đó là dấu hiệu căng thẳng và báo động một cơn mới đang đến. Đức Cha hỏi ý kiến Giáo dân Tu sĩ Linh mục trong giáo phận, thì cũng như mọi khi, ai cũng khuyên không cần Đức Cha đổi lập trường để giáo phận được yên như các giáo phận khác, nhưng xin ĐC vui lòng chịu khó, chịu tù, chịu chết, để làm chứng trung thành với Giáo Hội, để muối đừng ra lạt, đó là nét đặc thù của người Công giáo phải đóng góp vào tiền đồ Dân tộc. Còn đài Vatican có gì khích lệ, nâng đỡ Đức Cha Huế không? Có lẽ điều Đức Cha Huế ao ước nhất là được gặp Đức Thánh Cha dịp viếng Mộ các Thánh Tông Đồ năm nay của các GMVN. Nhưng Chúa đòi sự hy sinh đó, và còn nhiều hy sinh sắp đến nữa, thì ngài cũng yêu mến thưa: Vâng. Trừ ra có Chúa bênh giữ đặc biệt, bằng không thì chẳng thoát được sự nghiến nát của chế độ đâu, nhiều người nghĩ thế.
TGM Huế bị cô lập dường như hoàn toàn về phương diện đi thăm viếng các GM trong giáo tỉnh. Ngài không được phép đi, mà cũng không có GM nào trong giáo tỉnh được phép đến Huế. Còn tại Huế thì ngài chỉ được đi trong thành phố thôi. Việc ban phép Thêm sức ở các giáo xứ ngoại thành thì ngài ủy quyền cho các Cha xứ, như trong thời kỳ bị bắt đạo thôi.
LM Huỳnh Công Minh, đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch “UBĐKCG Yêu nước Việt Nam” có đến Huế 10 ngày, có ghé Tòa TGM Huế và đi thăm một số LM Huế (theo chương trình riêng). Trước khi về lại Tp HCM, có đến gặp TGM Huế và xin tha vạ cho LM Nguyễn Văn Bính. TGM Huế trả lời: Người mà muốn tha phạt LM Bính nhất là chính TGM Huế. Tuy nhiên, là LM, chắc LM Huỳnh Công Minh dư biết: LM Bính không dốc lòng chừa thì làm sao và ai có thể tha được, khi LM Bính lỗi lệnh của Hội Thánh. Giờ phút nào LM Bính không theo UBĐKCGVN nữa, thì tức khắc khỏi vạ ngay.
TGM Huế cũng cho biết những lý do khiến ngài phải chống UBĐKCGYNVN là:
1) Vì chính sách Mác-Lênin dùng UB đó để phá Hội Thánh. “Nhà nước xã hội chủ nghĩa đoàn kết các tổ chức tôn giáo trên cơ sở lợi ích chung, trong một mặt trận dân tộc thống nhất, cùng toàn dân đấu tranh cho độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội, đồng thời xây dựng giáo hội độc lập, thoát ra khỏi sự lệ thuộc của giáo hội nước ngoài” (Bài mười một “Chủ nghĩa Xã hội và Tôn giáo” trong quyển CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC, chương trình trung cấp. Nhà xuất bản sách Giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội 1978, trang 18). LM Huỳnh Công Minh tỏ vẻ ngạc nhiên và nói chưa bao giờ đọc cả đó! TGM Huế bảo: Đó là chính sách, thế nào Nhà nước cũng phải đem thực hành, như các nước XHCN khắp nơi, điển hình là Trung Quốc. Nếu các LMVN mình không làm “giáo tầu da… chêc, củi đậu nấu đậu” thì Nhà nước sẽ thành lập cách khác.
2) Còn thực tế thì UBĐKCGYNVN đã tỏ mình độc lập với Giáo Hội rồi:
a- Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu nước (có từ 1945, sẽ đổi ra UBĐKCGYNVN hôm nay) đã biên thư mời trực tiếp các LM họ nhắm để vào UBĐKCGYNVN mà không qua các Giám mục, lại nhờ Nhà nước áp lực bảo các GM phải tạo điều kiện cho các LM kia đi họp tại Hà Nội vào cuối năm 1983.
b- LM Nguyễn Văn Bính (Huế) là LM điển hình của LM UBĐKCGYNVN = bất chấp Giáo luật 278c và Tuyên cáo của Thánh bộ Giáo sĩ 8-3-1982, bất kể khuyến cáo của GM mình, còn ngạo ngược xin GM mình cấp cho giấy phạt vạ trước để đi họp thành lập UBĐKCGYNVN nữa; khi bị phạt rồi còn thách thức là mình không bao giờ đổi ý rút tên khỏi UB kia, chỉ chờ GM đổi ý sửa sai thôi. TGM Huế không muốn có một LM như thế trong giáo phận.
c- Về mặt tự trị, thì thực tế Nhà nước chỉ xem UBĐKCGYNVN là giáo hội chính thức. Bằng chứng: Tết năm 1984, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng vào ăn Tết ở Huế, thì chính quyền địa phương chỉ mời LM Nguyễn Văn Ngọc (có cả lòng đi họp UBĐKCGYNVN lần đầu mà khi về thì bị cất chức Quyền Tổng đại diện và Cố vấn của Giáo phận) làm đại diện cho giới Thiên Chúa giáo tỉnh Bình Trị Thiên mà không đếm xỉa gì GM sở tại. Mấy mươi năm qua, các LM trong Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu nước, và chỉ có các ngài, được đi họp quốc tế như là đại diện Giáo Hội Công giáo Việt Nam. Ngày nay, bổ nhiệm, thuyên chuyển hay phong chức LM chẳng hạn… nếu không có “placet” của UBĐKCGYNVN thì không xong.
d- Ai cũng đánh dấu hỏi: tại sao chính sách Nhà nước là diệt đạo, mà logít là các LM đều bị chèn ép mọi mặt, còn LM thuộc UBĐKCGYNVN được ưu đãi đủ cách? Nhà nước lại tổn phí hằng mấy triệu bạc để giúp thành lập UBĐKCGYNVN vừa qua? Và GM chống đối việc thành lập Ủy ban đó thì bị thẩm vấn 120 ngày?
TGM Huế nói tiếp với LM Minh là ngài không tin LM sẽ làm những điều chống đối Hội Thánh công khai đâu, nhưng thế hệ sau LM Minh hay kế tiếp sau nữa kìa…, vì đã là công cụ cho chính sách Nhà nước rồi. Do đó, TGM Huế thấy, theo lương tâm mình, cần phải báo động công khai, dù chỉ đơn độc một mình. Vì TGM Huế không muốn gián tiếp tham gia vào việc phá Giáo hội. Việc làm của TGM Huế đúng hay sai, nếu LM Minh có theo dõi ý Tòa Thánh qua các đài phát thanh công giáo thì rõ.
Cho LM Huỳnh Công Minh, Phó Chủ tịch I UBĐKCGYNVN biết rõ (….mất chữ….) trước khi LM trở về Tp HCM. TGM Huế mong rằng LM Minh sẽ trung thực nói lại cho các anh em của LM Minh trong UBĐKCGYNVN được rõ.
Thính giả VN của đài Vatican rất vui mừng được nghe và học biết về cách sống đức tin của các tín hữu Kitô ở các nước XHCN anh em, nhờ đó được thêm kinh nghiệm và chất liệu sống. Đặc biệt là các tin tức có liên quan đến Giáo hội Việt Nam. Tiếc một điều là một số không ít thính giả vì điều kiện máy thu không đủ tốt để bắt được đài Vatican, nên chỉ thường xuyên nghe được đài Veritas thôi, thì lại không được biết đến những điều quý hóa của đài Vatican nói trên. Vậy ước mong hai đài phối hợp cách nào đó để tất cả các thính giả VN có thể nghe biết được những của ăn tinh thần quan trọng và thiết thân ấy.
Xin cám ơn, cám ơn và mãi cám ơn.
16- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican
và Veritas ngày 20-05-1985
20-05-85
Linh Tiến Khải
Hôm nay, 20-5-85, Hội đồng Giám mục Việt Nam họp thường niên (mỗi năm một lần) tại Tòa Tổng Giám mục Hà Nội. Đã xin phép họp từ 4 đến 10-5-85, do đó ngày 4-5-85 đài Chân lý Á châu đã đưa tin khởi sự họp, do Đức Cha Bùi Tuần giảng cấm phòng và xin mọi người hợp ý cầu nguyện cho Đại hội, thì một LM của UBĐKCGYN đã mỉa mai nói: “Đài Chân lý đưa tin thì phải đúng chứ!”. Đang khi đơn phương Nhà nước dời ngày lại làm Giám mục nào cũng tự hỏi sẽ có họp hay không. Mà cũng quen rồi cái thói của Nhà nước là kiểm duyệt tất cả chương trình nghị sự của Đại hội, bảo bỏ điểm nào là phải bỏ điểm đó, nếu có ra Thông cáo thì bị sửa theo ý của Nhà nước, đó là chưa kể GM nào phát biểu những gì đều bị Nhà nước biết cả. Có vài GM nêu ý kiến: tình huống như vậy có nên tiếp tục họp HĐGM nữa không? Nếu cứ tiếp tục họp, thì có phần nào làm sai lạc dư luận của giáo dân và của người ngoài và như vậy giúp tuyên truyền chế độ về điểm tự do ngôn luận, tự do tôn giáo không?
Dĩ nhiên là như phần đông dự đoán: Đức TGM Huế, một lần nữa, sẽ không được cho đi họp HĐGMVN. Điện tín của Văn phòng Tổng Thư ký HĐGMVN cho Đức Cha Huế biết từ ngày 20 đến 27-5-85 sẽ có họp HĐGM tại Hà Nội, rồi thêm: “Rất tiếc không được mời Đức Tổng Giám mục Phó Chủ tịch” (là ĐC Huế) mà chỉ xin hiệp lòng cầu nguyện thôi. Hình như ĐC Huế không buồn tí nào và sẵn lòng trả bằng giá cao hơn nữa cho sự trung thành của mình đối với Hội Thánh. Quan trọng và đáng ao ước nhất đối với một GM là được đi “Ad limina” được tường trình mục vụ cho Đức Giáo Hoàng, được nghe thỏa thích tin tức Giáo Hội hoàn cầu mà chỉ có đến Rôma mới biết, được dịp thăm viếng bạn bè thân hữu. (Nhưng nếu vì Phúc Âm mà bị cướp mất các quyền lợi đó thì cũng là phúc thật rồi!). Mỗi lần một GM tiếp xúc với Rôma thì khác nào Antée đạp được đất mẹ để lấy thêm nguồn sức mới.
Sau một năm rưỡi ra đời, UBĐKCGVN nay thành lập trong mọi giáo phận VN, trừ Huế và Ban Mê Thuột. Tại Huế, vì LM duy nhất trong UBĐKCGYN đang bị phạt vạ, không còn uy tín để ăn nói được với giáo dân, nên tuyệt nhiên không có hiện diện của UBĐKCGYN. Còn Ban Mê Thuột thì Đấng Bản quyền không trực tiếp chống trên nguyên tắc, nhưng ngài tuyên bố công khai và với chính quyền là nếu LM nào gia nhập UBĐKCGVN thì trả giáo xứ lại cho ngài. Do đó mà các LM đầu não của UBĐKYN đã xin Nhà nước trừng trị TGM Huế bằng cách bắt đi “làm việc” với CA. (Thường thì không ai cầm cự nổi với cách “làm việc” này, cố lắm sau 1 tháng là phải chiều theo ý của “bề trên”). Nhưng sau 120 ngày “làm việc”, TGM Huế vẫn còn “ngoan cố” và kết thúc được bằng bước ra khỏi mạng lưới chính trị của CA bủa giăng mà trắn mình vào bàn tay Chúa với câu quyết định: “Cũng như các Thánh Tông đồ xưa và các Thánh Tử đạo của mọi thế hệ: Tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Người công an chính đã thẩm vấn TGM Huế trong 120 ngày thì nay đã được thuyên chuyển qua nước Lào rồi: thưởng hay phạt? Sau bức thư của TGM Huế gởi cho Cộng đoàn Công giáo Huế tường thuật việc mình đã đại diện Cộng đoàn Dân Chúa làm chứng nhân cho Phúc Âm trong 120 ngày qua, thì lập tức chính quyền phát động chiến dịch bôi nhọ TGM Huế lần lượt trong từng huyện, mời tất cả LM, một số Tu sĩ nam nữ, một số giáo dân trong huyện cùng với một số cán bộ Nhà nước đến nghe CA mạ lị TGM Huế. Các huyện đầu tiên, vì đột xuất, LM giáo dân chưa phản ứng kịp. Đã có phản ứng tẩy chay từ từ trong các huyện kế đó. Đến huyện sau cùng là Triệu Hải, thì Linh mục, Tu sĩ, giáo dân đi đông đủ theo giấy mời. Nhưng khi nghe mạ lỵ TGM, thì đồng loạt đứng dậy, bỏ phòng họp ra về ngay, đi đầu là LM Quản hạt (LM này đã bị CA gọi đi “làm việc” rồi giữ luôn, không cho về từ 4 ngày nay). Vì biến cố đó, chiến dịch mạ lỵ ngưng ngay cho đến hôm nay. Sở dĩ TGM Huế qua được cơn bão số 1 là theo nhận xét của mọi người, nhờ lời cầu nguyện liên lỉ của toàn giáo phận, cách riêng các nữ tu thay phiên ngày đêm cầu cho Giám mục mình.
Lúc mới bắt TGM Huế đi “làm việc” vài tháng, họ tung tin là ngày mấy tháng mấy đó, TGM phải bị trục xuất khỏi Bình Trị Thiên (tỉnh), rồi vài tháng nữa tung tin sẽ có xe đụng ngoài đường, đoạn đem về bệnh viện rồi tàn phế luôn. Vài tuần nay thì có CA Trung ương đến Huế, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, đi thăm một số LM, trách họ sao để cho TGM làm bậy vậy mà không ngăn cản, nhưng tránh gặp trực tiếp TGM. (Một đồng chí về hưu tại Huế, bạn thân của ông Thứ trưởng này, nói lại với một người công giáo là theo ông Thứ trưởng thì vào Huế mới biết Rôma có gởi một điện tín mời TGM Huế đi họp chi bên ấy đó, nhưng ông Thứ trưởng ra lệnh cho bưu điện đừng phát điện tín đó cho TGM Huế, để ông về Hà Nội rồi sẽ ra lệnh lại. Đến nay ĐC Huế vẫn không được điện tín nào cả. Chẳng rõ việc này có thực hay bịa ra?)
Vài hôm nay thì họ tung Công an cấp tỉnh, đi từng hai người, đi thăm một số LM trẻ trong giáo phận. Mục đích chính là hạ uy tín của TGM Huế và gây bất mãn nơi các LM: vì tại thái độ “ngoan cố” của TGM mà các LM trong giáo phận bị thiệt thòi nhiều mặt. Rồi có tin tung ra là sẽ có phong trào LM trẻ Huế xin Tòa thánh đổi TGM Đ., đặt TGM khác để cho mọi sự bình thường yên ổn và thành lập cho được UBĐKCGYN tại Huế. Dịp này CA có nói: ngay TGM Đ. là một ung nhọt trong nước, không thể dung tha được, Nhà nước ta kiên trì một thời gian nữa thôi.
Có người suy nghĩ: TGM Huế đã tung ra thái độ “phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta” (Nghĩa là gieo mầm trong Công giáo thái độ bất phục luật lệ của chế độ [một số luật lệ có nghịch với Hội Thánh]). Mà bản chất chế độ CS là chuyên chính, không dung tha một ai bất phục tùng. Rồi một số đồng bào lương dân bất mãn chế độ sẽ theo đà đó mà nói: Luật này luật nọ nghịch với Trời, chúng tôi không tuân giữ. Rồi như vết dầu loang sẽ lan tràn qua các tỉnh khác. Nếu để TGM Huế còn đó thì còn mãi cái tinh thần bất phục kia. Nếu bắt giam, phạt tù TGM Huế thì làm đúng ý muốn của ông và của nhiều người công giáo đạo đức, đồng thời gây tiếng vang không tốt đối với trong nước, nhất là ngoài nước. Chi bằng liệu cho TGM Huế một dịp ra nước ngoài rồi chặn lại không cho về nước. Một thời gian không ai còn nói tới TGM Đ. nữa thì tinh thần chống đối kia sẽ tan đi, vì ngoài ông ra thì không có một Giám mục nào ra mặt chống đối cả. Tất cả đều im lặng (trừ Ban Mê Thuột), có nhiều vị lại yểm trợ UBĐKCGYN nữa.
Như nói trên, cách đây mấy ngày, CA đã gọi LM Hạt trưởng huyện Triệu Hải đi “làm việc” rồi giữ luôn. Họ sẽ bắt LM khác nữa… để làm áp lực trên các LM, cách riêng các LM trẻ, gây phong trào bất mãn, chống đối, tẩy chay TGM Đ.. May là LM đoàn Huế nói được là hiệp nhất, trừ ra vài ba LM vì kẹt riêng hay vì lý do nào đó không theo lập trường của Đức Cha mình như các anh em, nhưng chưa dám nói ra. Trong 12 Tông Đồ còn có người không theo lập trường của Chúa nữa. Nên chi về việc này hình như TGM Huế không chút bận tâm. Đàng khác, TGM Huế khi cấm các LM trong giáo phận không ai được gia nhập UBĐKCGYN, thì đã lãnh lấy tất cả mũi dùi thay cho các LM của mình rồi, vì trong thực tế, LM này LM nọ bị kêu gia nhập UBĐKCGYN thì đã trả lời: Tôi muốn đó, nhưng làm sao được bây giờ, vì TGM Huế phạt vạ và treo chén, thì tôi đâu còn làm việc LM nữa, như thế cũng không ích gì cho UBĐKCGYN. Đang khi ở các giáo phận khác, Giám mục để mặc ý các LM tự do gia nhập UBĐKCGYN hay không, nhưng nếu đi quá lố thì sẽ bị áp dụng kỷ luật. Như thế mỗi LM phải liệu mà từ chối với chính quyền. Nếu không gia nhập Ủy ban… thì sẽ không yên thân, còn nếu gia nhập, thì sẽ bị ít nhiều dư luận giáo dân cho cha sở mình là “quốc doanh” rồi.
Trong thời gian qua, nhờ sự yểm trợ của hai Đài công giáo quốc tế mà TGM Huế của chúng tôi được báo chí, đài phát thanh ngoại quốc nói đến với thiện cảm, nên chế độ trong nước mặc dù căm giận lắm cũng phải nhẹ tay phần nào. Còn nội bộ, thì chúng tôi được an ủi, nâng đỡ bằng những loạt bài nói rõ thái độ người Kitô phải có trong hoàn cảnh như hoàn cảnh của chúng tôi. Còn vấn đề đơn thương độc mã thì bài suy niệm Phúc Âm Mc 6,14-29, ngày thứ 6 tuần IV quanh năm do Đài Vatican đã củng cố lập trường và niềm tin của chúng tôi thật sự. Do đó, chúng tôi hết lòng biết ơn hai Đài anh em: Vatican và Veritas, nhiều thực nhiều!
Từ nay, TGM Huế sẽ có bị chi nữa thì cũng không ra ngoài lý do “vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”.
17- Thư Chung gởi Tổng Giáo phận Huế ngày 19-10-1985
Hội Thánh Công Giáo
Tòa Tổng Giám mục Huế
Archevêché Hué
Kính gởi các Linh mục, Tu sĩ nam nữ và
Anh Chị Em tín hữu Giáo phận Huế
Anh Chị Em rất thân mến
Năm 1971, tại Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, tôi có phát biểu: “Đã có những Giám mục chịu chết vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh. Nhưng ngày nay có Giám mục nào dám chịu chết để bênh vực quyền lợi của con người không?” Hạnh phúc thay, hôm nay chính tôi được Chúa gọi để chịu tù ngục, chịu chết vì bênh vực nhân quyền, chân lý và công bình.
“Sắc lệnh về Tôn giáo” đã ký tại Hà Nội ngày 14-06-1955 do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh và Chủ tịch Quốc hội Phạm Văn Đồng, chương bốn, điều 13: “Chính quyền dân sự không can thiệp vào nội bộ Tôn giáo. Những liên hệ giữa các Giáo hội Công giáo Việt Nam và Tòa thánh La Mã là vấn đề nội bộ”. Điều 14: “Các tổ chức Tôn giáo phải tôn trọng luật pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như mọi tổ chức nhân dân khác”.
Tuy nhiên, nếu luật pháp đi ngược với ý Trời, chà đạp các quyền của con người, trong đó có quyền tối thượng là tự do tín ngưỡng, thì như trong biên bản làm với Công an Bình Trị Thiên ngày 15-10-1984, tôi đã khẳng định: “Như các Thánh Tông đồ ngày xưa và các Thánh Tử đạo trải qua các đời, tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn tuân luật pháp của con người”. Dĩ nhiên hậu quả sẽ là tù ngục và chết chóc. Hậu quả đó, chủ chăn của Anh Chị Em hôm nay sẵn sàng và vui lòng đón nhận như phần thưởng Chúa ban sau 25 năm Giám mục mà đã 22 năm được phục vụ Giáo phận Huế.
Khi tôi bị bắt rồi, thì xin Anh Chị Em đừng ai tin lời khai nào, dù có kèm theo chữ ký mà người ta kể là của chính tôi.
Giờ đây chỉ còn một việc là tôi tha thiết xin Anh Chị Em cám ơn Chúa với tôi, đồng thời tăng thêm và tiếp tục cầu cho tôi được tuyệt đối trung thành với Chúa và Hội Thánh cho đến hơi thở cuối cùng.
Tôi xin phó thác Anh Chị Em trong tay Chúa và Đức Mẹ La Vang.
Thân ái chúc lành cho Anh Chị Em.
Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô.
Huế ngày 19 tháng 10 năm 1985
Ph. Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám mục Huế
18- Di chúc gởi Tổng Giáo phận Huế ngày 08-11-1985
Giáo Hội Công Giáo
Tòa Tổng Giám Mục Huế
Việt Nam
DI CHÚC
Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần !
Tôi cám đội ơn Chúa đã thương chọn tôi làm con Chúa, linh mục và giám mục trong Hội Thánh của Ngài, mặc dù tôi rất bất xứng.
Tôi không muốn có ước muốn riêng nào về sự chết và cuộc tẩm liệm hay chôn cất xác tôi. Sao cũng được, tùy Thánh Ý Chúa và sự liệu định của anh em Linh mục Giáo phận, vì tôi chẳng đáng chi cả.
Tôi không có gì để nhắc nhủ các Linh mục Huế cách đặc biệt, trừ ra xin phép được khuyên các ngài hãy can đảm tỏ ra trung thành với Hội Thánh trong mọi hoàn cảnh, sống đoàn kết trong Linh mục đoàn và sống trọn vẹn bổn phận Chủ chăn nhân hiền.
Tôi cám ơn Linh mục trong giáo phận đã nhẫn nại chịu đựng tôi và tận tâm cộng tác với tôi. Những ai mà tôi vô tình hay vì bổn phận đã làm mất lòng thì xin tha lỗi cho tôi. Phần tôi, tôi không buồn phiền một ai cả. Xin mọi người cầu nguyện cho tôi.
Về tiền bạc, tôi không mắc nợ ai. Nếu như ai có thấy đang thiếu tôi vật gì, thì tôi vui lòng tha cho hết.
Các vật dụng, sách vở và tiền mặt tôi đang có, thì tôi trối lại hết cho tòa TGM Huế.
Một lần nữa, tôi cám đội ơn Chúa và xin tạm biệt mọi người, hẹn nhau trên Nhà Cha.
Huế, ngày 08 tháng mười một 1985
(ký tên và đóng dấu)
Philiphê Nguyễn kim Điền
19- Thư gửi Ủy ban Nhân dân và Viện Kiểm sát Nhân dân
tỉnh Bình Trị Thiên ngày 03 tháng 07 năm 1986
về vụ án Nữ tu Trương Thị Lý
HỘI THÁNH CÔNG GIÁO Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tòa Tổng Giám mục Huế Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số 07/86 TTGMH
Kính gửi:
- Ông Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Bình Trị Thiên
- Ông Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Bình Trị Thiên
Đồng kính gửi:
- Cụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
- Cụ Chủ tịch Quốc hội,
- Ban Tôn giáo Chính phủ.
Trích yếu: V/v liên quan đến vụ án Nữ tu Trương Thị Lý
Kính thưa
- Ông Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Bình Trị Thiên,
- Ông Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Bình Trị Thiên.
Ngày 19-10-1985, tôi đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên thông báo về vụ Nữ tu Trương Thị Lý, Tu hội trưởng Tu hội Mến Thánh giá Thừa sai Huế, bị bắt giữ theo lệnh của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên, vì can tội gián điệp theo điều tương đương với điều 74 của Bộ Luật Hình sự 1986.
+ Tôi biết, không phải Nữ tu Trương Thị Lý chỉ bị bắt giữ mà toàn bộ đồ đạc, sách vở, sổ sách, thư từ… của chị, của Tu hội, tại 2 phòng ở và làm việc của chị: 55 Trần Phú và 31 Đoàn Hữu Trưng, đã bị soát xét tỉ mỉ. Một số lớn sách tu đức, toàn bộ thư từ riêng và ảnh lưu niệm của gia đình chị, của Tu hội, một số sổ sách tài liệu của Tu hội… và một số máy móc, dụng cụ Văn phòng của Tu hội, đã được tịch biên và đưa về sở Công an Bình Trị Thiên vào ngày 17-10-1985, tức là một ngày sau cơn bão số 8 khủng khiếp, đã gây tàn phá ghê rợn khắp tỉnh Bình Trị Thiên, thành phố Huế nói chung và ngôi nhà của Tu hội Mến Thánh giá Huế nói riêng, lúc đó các chị em đang bàng hoàng, lo âu trước thiên tai, cửa mất nhà tan…
+ Tôi cũng được biết từ hôm 17-10-1985 đó, tại các phường trong thành phố, nơi một số các cơ quan trường học, và tại một số xã ở các huyện Hương Phú, Phú Lộc, Hương Điền, Triệu Hải, đều đã có phổ biến, học tập, bình luận về vụ gián điệp Trương Thị Lý với nhiều giải thích có khi khá mập mờ, phóng đại và mỗi nơi mỗi khác nhau.
+ Tôi cũng nhớ rõ vào ngày 23-11-1985, linh mục Trần Văn Quý, thư ký Tòa Giám mục chúng tôi, được triệu tập đến sở Công an BTT nhiều ngày liên tiếp để khai báo về những gì mình đã làm ở Tòa Tổng Giám mục Huế từ năm 1980… Sau gần 6 tuần làm việc, Linh mục Trần Văn Quý đã ngã bệnh, các bác sĩ đã xác định bệnh trạng và cho phép đi điều trị tại Bệnh viện Huế 3 tuần lễ rồi sau đó về tiếp tục điều trị tại nhà cho đến hôm nay.
Tôi, Giám mục, và các Linh mục trong Giáo phận Huế cùng với các Nam, Nữ Tu sĩ, nhất là chị em Tu hội Mến Thánh giá Thừa sai Huế và hầu hết các Giáo dân, và chắc chắn cả một số đông đồng bào Thành phố Huế, tỉnh Bình Trị Thiên rất nóng lòng chờ đợi Tòa án đưa ra ánh sáng vụ án gián điệp quan trọng Trương Thị Lý, đã bị Viện Kiểm sát BTT ký lệnh bắt giam như một tên bất lương nguy hiểm, để biết rõ Nữ tu này đã có những hành vi phạm pháp nào, vì chúng tôi chưa am tường lắm về thể thức tố tụng trong nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, chỉ nhớ một điều sơ đẳng trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của tổ chức Liên Hiệp Quốc, điều 11 (xin phép ghi nguyên văn tiếng chính thức của Liên Hiệp Quốc):
“Toute personne accusée d’un acte délictueux est présumée innocente jusqu’à ce que sa culpabilité ait été légalement établie au cours d’un procès public òu toutes les garanties nécessaires à sa défense lui auront été assurées…”
Vụ bắt giữ đã đến tháng thứ 9, thì vào ngày 26 và 27-06-1986 vừa qua, Linh mục Tổng Đại diện của tôi là Lê Văn Mẫn và một ít Linh mục coi sóc các giáo xứ lớn ở thành phố Huế được gọi đến sở Công an BTT. Các Linh mục này được nghe và được đọc một phần các tài liệu được gọi là “liên quan đến vụ án Nữ tu Trương Thị Lý”. Thế rồi các Linh mục được dồn ép: phải nói lên ý nghĩ của mình, sự phán đoán của mình về các tài liệu đó, để ghi vào biên bản trình lên cho ông Giám đốc sở Công an.
Nhờ các Linh mục về báo cáo lại vụ việc, tôi được biết rõ thế này:
Nữ tu Trương Thị Lý bị Viện Kiểm sát cho bắt giam giữ đã không có một hành vi phạm pháp nào riêng của chị, mà chỉ là: với tư cách Bề trên trong một Tu hội, chị đã sai một người thuộc quyền mình đi thành phố Hồ Chí Minh đưa thư của Tu hội cho các chị em trong đó, kèm theo có một số thư riêng và văn bản mà Công an BTT cho là của Tòa Giám mục Huế. Và tôi biết, qua cuộc gặp gỡ các Linh mục nêu trên, Công an BTT muốn cho các Linh mục cố vấn của tôi phải công nhận rằng: các tài liệu quả tang phạm pháp đó là của Tổng Giám mục Huế.
Vì vậy, đến nay thì tôi đã rõ:
+ Hai chị Trương Thị Lý đã bị bắt giữ hơn 8 tháng, và Trương Thị Bông, 10 tháng, không có hành vi phạm pháp nào khác, ngoại trừ chuyển thư từ được nghi ngờ là của Tổng Giám mục Huế (Hình luật điều 11).
+ Linh mục Trần Văn Quý đi làm việc ở sở Công an BTT cũng chỉ là để khai và nhận một điều như trên.
Nhận rõ điều đó, tôi, Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, giờ đây, bằng những lời xác nhận ghi thành văn, có chữ ký của tôi, tôi xin xác định như sau:
1- Các thư từ, văn bản Chính quyền bắt gặp trong túi áo của Nữ tu Trương Thị Nông, có liên quan đến một số sinh hoạt tôn giáo trong Giáo phận Huế, Giáo tỉnh Huế là của Tòa Giám mục Huế… Nội dung các giấy tờ, văn bản này thuần túy tôn giáo và có tính cách thông tin, khách quan, đúng sự thật, giữa anh em bạn bè, không bình luận chống đối ai…
2- Tôi xác nhận tất cả trách nhiệm về vụ việc này thuộc về tôi. Linh mục Thư ký Trần Văn Quý, 2 Nữ tu Trương Thị Lý và Trương Thị Nông là những người thừa hành (chỉ chuyển thư mà không biết gì ở bên trong).
3- Tôi biết rõ Luật Hình sự số 74. Điều tương đương trước Luật Hình sự 1986 thì tôi không biết. Tôi cũng biết rõ Hiến pháp 1980 nước CHXHCNVN số 71 và những số 67, 69, 70 nói về các quyền của người công dân.
4- Tôi cũng biết nước CHXHCN Việt Nam là một nước thành viên của Liên Hiệp Quốc, và bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc ở điều 19 có nói: “Tout individu a droit à la liberté d’opinion et d’expression; ce qui implique le droit de ne pas être inquiété pour des opinions et celui de chercher, de recevoir et de répandre, sans considération de frontière, les informations et les idées, par quelque moyen d’expression que ce soit”.
5- Tôi là Tổng Giám mục của Hội thánh Công giáo, một tôn giáo được thừa nhận ở Việt Nam, và tôi biết theo các Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước đây và các bản luật hiện hành: “Những liên hệ giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam và Tòa thánh La Mã là vấn đề nội bộ” (Sắc lệnh số 234, ngày 14-06-1955, điều 13).
Là một người con của Hội thánh Công giáo, tôi có quyền gởi cho Mẹ Hội thánh tôi những tin tức của tôi, của các anh em tôi gần xa.
Là Giám mục, tôi còn có nhiệm vụ phải cho Đức Thánh Cha của tôi biết về tình hình tôn giáo nơi Giáo phận tôi và trong Giáo tỉnh tôi phụ trách.
6- Tôi cũng biết: không có một luật nào cấm tôi viết thư từ và nhờ một ít người tôi muốn, cầm thư, chuyển thư; và những người đó không cần biết nội dung thư từ đó.
Và tôi xin kết luận:
Tôi xử dụng quyền làm người của tôi khi tôi viết thư, đưa bản tin.
Tôi thi hành nhiệm vụ tôn giáo Giám mục của tôi khi tôi gửi thăm Đức Giáo Hoàng và trao cho Ngài một số tin tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm của tôi.
Nếu việc đưa tin này đem đến hậu quả bị quy-trách-pháp-lý do Chính quyền, do Tòa án Nhân dân nước CHXHCN Việt Nam của tôi, thì tôi xin được coi đây là một bắt bớ tôn giáo, một vi phạm nhân quyền, và tôi rất lấy làm vinh dự nhận lãnh tất cả các biện pháp xử lý vì tôn giáo, vì nhân quyền.
Trân trọng kính chào Ông Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Bình Trị Thiên, Ông Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Bình Trị Thiên.
Huế, ngày 03 tháng 07 năm 1986
Bản sao kính gởi Ph. Nguyễn Kim Điền
- Ông Chủ tịch UBMTTQVN BTT Tổng Giám mục Huế
- Tòa thánh Vatican
- Đức Hồng y Chủ tịch HĐGMVN
- Các Đức Giám mục Việt Nam
- Các Linh mục Giáo phận Huế
- Các Dòng tu Giáo phận Huế
“để kính tường”
20- Thư gởi ông Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư ĐCSVN
ngày 25-3-1988.
HỘI THÁNH CÔNG GIÁO Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tòa Tổng Giám mục Huế Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Archevêché Hué
Kính gửi:
- Cụ Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
Đồng kính gửi:
- Cụ Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
- Ban Tôn giáo của Chính phủ.
Trích yếu: V/v xin đi viếng mộ các Thánh Tông đồ và thăm Đức Giáo chủ tại Vatican.
Xin được hưởng trọn quyền công dân Việt Nam
Kính thưa Cụ Tổng bí thư,
1- Tôi tên là Nguyễn Kim Điền, 67 tuổi, Tổng giám mục Huế. Khi thụ phong giám mục năm 1961, theo lễ nghi tôn giáo, tôi đã phải thề hứa cứ mỗi 5 năm đi kính viếng mộ các Thánh Tông đồ và tường trình sinh hoạt tôn giáo thuộc trách nhiệm của tôi cho Đức Giáo chủ tại Vatican.
Năm 1985, vì vướng mắc một số việc về tôn giáo với chính quyền, nên tôi không được đi Vatican.
Ngày 15-08-1987, tôi có đệ đơn (số 12/87 TTGMH) xin việc này với cụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Ngày 11-09-1987, tôi nhận được điện tín của ban Tôn giáo Chính phủ thừa lệnh cụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trả lời: “Việc cụ xin đi Vatican lúc này chưa thuận tiện”.
Hôm nay, tôi hy vọng đã là lúc thuận tiện, nhất là sau ngày 26-02-1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định cho phép một số diện công dân xuất cảnh có thời hạn để giải quyết việc riêng.
Vậy tôi kính xin cụ Tổng bí thư vui lòng cứu xét cho tôi được đến Vatican từ ngày 01-08-1988 để làm tròn bổn phận tôn giáo mà tôi đã thề hứa khi thụ phong giám mục.
2- Dịp này, xin phép cho tôi nhiệt liệt hoan nghênh và biết ơn chính sách đổi mới của cụ Tổng bí thư, nhất là đã cho về tất cả các linh mục tuyên úy Công giáo trước Tết Mậu Thìn. Đây là sự kiện đã làm thỏa lòng đồng bào Công giáo Việt Nam.
Còn riêng tôi là Tổng giám mục Giáo tỉnh miền Trung và Giáo phận Huế, có trách nhiệm thăm viếng các Giám mục thuộc Giáo tỉnh và cách riêng có trách nhiệm mục vụ từ Lăng Cô đến Đồng Hới. Thế mà, từ năm 1984, sau khi bị thẩm vấn 120 ngày, tôi không còn được đi họp Hội đồng Giám mục tại Hà Nội, và cũng không được ra khỏi chu vi thành phố Huế để ban phép Thêm sức và thăm viếng các Giáo xứ là công tác căn bản của một giám mục.
Tất cả các vướng mắc trước thì đã được dứt điểm từ tháng 5 năm 1987, nên tôi nghĩ là tôi được hưởng trọn quyền công dân như một công dân bình thường. Tuy nhiên, trong thực tế, tôi vẫn còn chưa được phép ra khỏi thành phố Huế để làm bổn phận giám mục của mình, do đó rất khó cho tôi động viên đồng bào Công giáo thuộc quyền để họ tin là mọi công dân đều bình đẳng trong việc tự do đi lại và trong việc tự do hành đạo.
Năm 1967, khi tham dự cuộc họp quốc tế Caritas Internationalis tại Roma, một nhà báo người Ý hỏi tôi: “Ông nghĩ thế nào về đảng Cộng sản Việt Nam?” Tôi trả lời: “Là giám mục Công giáo, tôi không thể theo chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng người Cộng sản Việt Nam là anh em của tôi”. Hôm sau, báo đăng lời đó với hàng tít to.
Năm 1980, cụ Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ tại Hà Nội nói với tôi: “Ông Tổng giám mục tuyên bố câu đó hồi năm 1967 thì chỉ có hại cho ông thôi, vì lúc đó C.I.A. thống trị tại phía Nam và chính phủ nào ở đó cũng là chính phủ chống Cộng”. Tôi không biết anh nhà báo phỏng vấn tôi năm đó hiện nay còn sống hay chết và ở đâu? Anh sẽ nghĩ thế nào, nếu anh biết được hoàn cảnh hiện tại của tôi? Còn lập trường của tôi từ năm 1967 đến nay vẫn trước sau như một.
Phần tôi, tôi tin tưởng ở chính sách đổi mới của cụ Tổng bí thư và ước mong trường hợp nhỏ bé của tôi sẽ được kể vào “những việc cần làm ngay”.
Tôi trân trọng cám ơn và kính chào cụ Tổng bí thư.
Huế ngày 25 tháng 3 năm 1988
Philipphê Nguyễn Kim Điền
Tổng Giám mục Huế.
Bản sao kính gửi:
- Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên
- Ủy ban MTTQVN tỉnh Bình Trị Thiên.
****************************************
21- Lòng người ngoại đạo
Từ Tâm
Con đến Phủ Cam giữa ngày tang lễ,
Góp nỗi buồn trong muôn vạn niềm đau.
Hàng triệu tín đồ sát cánh bên nhau
Vạn vật đổi thay !
Lòng tin bất diệt.
Cha với con tuy chưa từng quen biết,
Lòng kính yêu cha vô bến vô bờ.
Sống giữa muôn người con vẫn bơ vơ,
Nhiều lúc tâm tư hướng về tôn giáo.
Nhưng tổ tiên con tám đời ngoại đạo,
Lẽ nào con trái ý tổ tiên mình !
Suốt cả đời cha trọn nghĩa trọn tình,
Giữ vững niềm tin, coi thường bão tố.
Và cuộc đời con muôn ngàn gian khổ,
Với thù sâu như biển rộng sông dài. (*)
Đứng từ xa, cúi mặt trước quan tài,
Lòng quá xót xa, ngậm ngùi thương tiếc.
Con trân trọng gửi cha:
Lời kính chào vĩnh biệt.
Đến Giáo hội Việt Nam
Lời chia buồn thống thiết
Của một người ngoại đạo kính yêu cha.
Vầng trán thông minh, can đảm, hiền hòa,
Thấm đậm tình thương qua nhiều di ảnh.
Ánh mắt long lanh chứa đầy sức mạnh,
Giản dị trên đầu chiếc nón bài thơ.
Cha mất đi, một chuyện quá bất ngờ.
Đau đớn biết bao người còn kẻ mất.
Thể xác cha nằm yên trong thánh thất
Linh hồn cha về cạnh Đức Chúa Trời.
Cha để lại cho đời
Một lòng tin bất diệt,
Với khuôn mặt trang nghiêm,
Với tinh thần quyết liệt.
Lưu lại ân tình trong hàng triệu con chiên
Khi nhắc tên cha: Giám Mục NGUYỄN KIM ĐIỀN.
Thánh đường Phủ Cam 15-6-1988
Từ Tâm, một Phật tử ở Huế,
(*) Dị bản:
Con sống sao cho trọn nghĩa trọn tình,
Dù quá gian lao, dù nhiều đau khổ.
Nếu phải chết để đền ơn tri ngộ
Con tiếc chi chút bèo bọt hình hài.
22- Hình ảnh người cha: Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền
Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng, 08-06-1998
Những biến cố xảy ra từ tháng 5,1963 và những ngày tháng sau đó đã ít nhiều làm xáo trộn nếp sống của người dân xứ Huế, nhất là đối với một sinh viên Công Giáo như chúng tôi. Trước ngày 26-10-1963, tôi là một trong ba người được anh em sinh viên Công Giáo Huế cử đi Sài Gòn họp Tổng Liên Đoàn Sinh Viên Công Giáo Đại Học Việt Nam, có Cha Tuyên Úy cùng đi với chúng tôi. Chiều ngày 1-11-1963, trong lúc chúng tôi đang họp tại Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ, đường Nguyễn Thông Quận 3 Sài Gòn, cạnh trường Regina Pacis thì tiếng súng của phe quân nhân đảo chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm bắt đầu... cho đến ngày hôm sau, 2-11-1963 thì chúng tôi được tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã bị thảm sát...
Tôi chạy đến Trung Tâm Công Giáo ở đường Nguyễn Đình Chiểu tìm Cha Tuyên Úy... Ngài nói với tôi:
- Có biết Cha Thuận ở đâu không, nhắn Ngài vào Bộ Tổng Tham Mưu xin làm phép xác cho hai ông Ngô Đình Nhu và Ngô Dình Diệm... (Cha Thuận tức là Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, mới được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tấn phong Hồng Y vào ngày 21-2-2001 tại Vatican).
Tôi trả lời:
- Con nghe tin Cha Thuận đã trở về Huế rồi.
Trung Úy Trọng, em ruột của Cha Bermand Nguyễn Văn Thảo (Dòng Xitô Châu Sơn) đang có mặt ở đó. Anh thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống... Anh nói với chúng tôi:
- Hai ông đã chết rồi... bị họ giết rất dã man...
Tôi liền chạy đến nhà anh Hồ Ngọc Tâm, lúc đó là Đại Úy thuộc Lữ Đoàn Phòng Vệ và biệt phái qua làm tại Phòng I Tổng Tham Mưu. Anh nói với tôi:
- Chính mắt tôi chứng kiến, họ giết hai ông rồi. Thi thể của hai ông hiện đang để trên băng-ca có phủ một cái khăn trắng, nằm nơi bãi cỏ cạnh gốc cây...
Tôi trở về nhà người bà con với tâm trạng rất buồn... Tiếng nhạc kích động từ trong một building của Mỹ ở đường Bùi Thị Xuân vang lên rất lớn, tiếng nhạc điên cuồng, thác loạn làm cho tôi cảm thấy đau xót và thật mỉa mai trước cái cái tang của một Tổng Thống. Từ đây, với súng đạn trong tay, người ta muốn làm gì thì làm. Một Tổng Thống mà không được Hiến Pháp và Luật Pháp bảo vệ thì số phận của người dân sẽ ra sao ? Với tuổi trẻ và đang được nghe thầy giáo dạy các bài về chế độ dân chủ trong lớp, tôi thấy thật mâu thuẫn. Ở Huế, cảnh náo loạn xảy ra thường xuyên.
Những người tự xưng là “TRANH ĐẤU” muốn bắt ai thì bắt, muốn buộc tội ai thì buộc, chính quyền làm ngơ để cho họ tha hồ hành động. Ngày nào cũng có biểu tình, tranh đấu, trường học phải đóng cửa, những ai muốn đi học cũng bị ngăn cản. Những tên du đãng, lực lượng xích lô kéo vào chiếm các phòng ốc trong đại học, ở đó luôn, tắm rửa, đem đồ lót phơi ngay cửa sổ phòng học, người qua lại ở ngoài đường đều nhìn thấy. Tình trạng khủng bố người theo đạo Công Giáo ở những vùng xa xôi hẻo lánh, nhất là những nơi tân tòng... Và ngay trong thành phố, những người Công Giáo buôn bán làm ăn, ai có nhà cao cửa rộng, ai có máu mặt... cũng bị chụp mũ “Kinh Tài Cần Lao” khiến cho nhiều người phải bán nhà cửa, sang lại tiệm buôn để chạy vào Sài Gòn...
Trước tình hình đen tối như thế, sự chia rẽ trầm trọng giữa người Việt Nam không cùng một tôn giáo; sự kỳ thị, bất công giữa những người cũ và mới trong chính quyền, mới hôm trước hôm sau đã trở mặt: công chức, cảnh sát, sĩ quan Công Giáo trong quân đội v.v… bị thuyên chuyển, bị kỷ luật... đã làm cho anh em chúng tôi rất thất vọng. Tôi là một sinh viên, bản thân và gia đình tôi không có hưởng nhờ quyền lợi gì của chế độ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Cha và anh tôi, những người thân thuộc trong gia đình, họ hàng của tôi đã đứng trong hàng ngũ những người quốc gia chống lại Việt Minh, chống lại Cộng Sản và đã bị Cộng Sản giết trước năm 1954, trước khi Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh.
Năm 1954, tôi còn là học sinh Trung Học, năm 1963, tôi còn là sinh viên Đại Học, chưa tốt nghiệp, chưa đi làm... Tôi hoàn toàn không mang mặc cảm nào hết về sự liên hệ với chế độ đó. Tôi thấy cần phải dấn thân vào con đường tranh đấu để loại trừ những tên Cộng Sản nằm vùng trong sinh viên, để liên kết những người quốc gia, nhất là những bạn bè có thân nhân là nạn nhân Cộng Sản, thành một lực lượng hầu phá vỡ âm mưu của bọn Cộng Sản và tay sai, ít nhất trong phạm vi học đường.
Lúc đó tôi đang sinh hoạt với tổ chức Thanh Niên Thiện Chí, anh em thường tổ chức đi cắm trại ở vùng quê, làm công tác xã hội. Tôi đề nghị Cha Tuyên Úy SVCG và anh em trong Ban Chấp Hành Đoàn Sinh viên Công Giáo tổ chức những chuyến thăm viếng các xứ tân tòng, tổ chức lửa trại, văn nghệ, phát quà của cơ quan Caritas cho người nghèo, tổ chức thánh lễ cho họ... mục đích an ủi họ trong cảnh bị kỳ thị, áp bức, thậm chí nhiều người còn bị khủng bố, đánh đập (trong đó có linh mục Nguyễn Cao Lộc ở xứ Mỹ Á đã bị bọn người kỳ thị tôn giáo đánh...)
Trong giáo phận lúc đó không có Giám Mục, Đức TGM Phêrô Ngô Đình Thục đang họp ở Roma và Ngài đã ở luôn không về... Con chiên không có Chủ Chăn, thật bơ vơ ! Một hôm, chúng tôi được thông báo đi đón Đức Tân Giám quản Philipphê Nguyễn Kim Điền, nguyên Giám Mục Cần Thơ (1) sẽ đến Huế thay thế Đức TGM Phêrô... Tôi rất mừng vì khoảng 1959, tôi đã từng gặp Ngài ở Đà Lạt trong dịp nghỉ hè. Tôi đã được dự thánh lễ và nghe Ngài giảng tại trụ sở của các cha Dòng Tiểu Đệ Chúa Giê Su... Ngài trẻ trung, khiêm tốn, rất khôi ngô và rất lôi cuốn giới trẻ lúc đó.
Tôi đã được nói chuyện với Ngài một vài lần trước khi Ngài nhận chức Giám Mục Cần Thơ. Ngài nói giọng Miền Nam rất ngọt ngào, nụ cười duyên dáng, thánh thiện đầy tình yêu thương, bác ái... Tôi nghe nói Ngài đã từ chối khi được Tòa Thánh chọn làm Giám Mục, Ngài nói rằng Ngài thuộc dòng hèn mọn với lý tưởng phục vụ người lao động nghèo và cùng chia xẻ với họ trong công việc hằng ngày, Ngài không muốn làm Giám Mục vì sợ không còn được phục vụ dưới hình thức như thế nữa. Nhưng nghe đâu Đức Khâm Sứ Tòa Thánh đã trả lời rằng: Đức Thánh Cha chỉ cần sự vâng lời, mà VÂNG LỜI là một trong ba lời thề quan trọng nhất của Linh Mục. Thế là Ngài đã trở thành Giám Mục Cần Thơ.
Ở Huế lúc bấy giờ rất ít người biết đến Ngài, ngoại trừ một số các Cha có giao thiệp với bên ngoài giáo phận, có đi đây đi đó, đa số đều chỉ biết đến những chuyện trong địa phương mình mà thôi. Ngày Ngài đến Huế, có Đức Tổng Giám Mục Sài Gòn, Phaolô Nguyễn Văn Bình và một số các vị Giám Mục đi theo. Đức Khâm Sứ Tòa Thánh cũng có mặt trong phái đoàn. Hôm đó, các linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo hữu trong giáo phận đã đến nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, đường Nguyễn Huệ, TP Huế để đón Đức Cha. Anh em sinh viên Công Giáo chúng tôi được trao cho nhiệm vụ tổ chức tiếp đón. Phút gặp gỡ đầu tiên thật là cảm động, giọng Đức Cha Bình trong phần giới thiệu cũng rất xúc động, nhất là khi nghe Đức Cha Điền nói, mọi người càng cảm động hơn nữa. Nhiều người sụt sùi khóc vì từ nay, giáo phận đã có người Cha tốt lành, thánh thiện, khôi ngô, ngọt ngào, giọng nói của Ngài như tiếng mẹ ru bên nôi bằng những lời ca dao đượm tình dân tộc.
Từ đó, tôi có dịp liên lạc với Ngài thường xuyên. Tôi muốn làm cho những bạn bè của tôi, những người ngoài Công Giáo biết đến Ngài. Tôi nghĩ rằng, khi tiếp xúc với Ngài chắc chắn những người đó sẽ có cảm tưởng tốt đối với Công Giáo, qua Ngài, họ sẽ thấy được tinh thần bác ái, yêu thương của người Công Giáo. Sau nhiều lần tiếp xúc với tôi và qua những người trong gia đình, họ hàng của tôi hiện là linh mục trong giáo phận, Ngài đã hiểu tôi nhiều... Tôi thường nói về Ngài khi có dịp gặp những người quen biết trong giới chính trị và trong giới trí thức... Họ đã nhờ tôi làm trung gian để đến với Ngài... Kết quả là rất nhiều người sau khi gặp Ngài, đã tỏ ra rất có cảm tình và mến phục Ngài.
Với giọng nói ngọt ngào như thế, nhưng Ngài cũng không thiếu cương quyết trong công việc. Cựu Nghị Sĩ Nguyễn Văn Mân, nay đã ngoài 80 tuổi, hiện đang còn sống ở Houston, Texas, Hoa Kỳ, có kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây... Năm 1964, ông được Bộ Nội Vụ Sài Gòn cử ra Huế giải quyết một việc rắc rối có liên quan đến Công Giáo ở Huế. Ông Mân nguyên là tỉnh trưởng Quảng Trị năm 1947 thời Cụ Trần Văn Lý làm Hội Đồng Chấp Chính Lâm Thời khi quân Pháp mới đổ bộ vào Huế, Quảng Trị. Ông là Phó Chủ Tịch Thanh Niên Liên Đoàn Công Giáo VN ở miền Trung năm 1945-1946 lúc đó LM Trần Hữu Thanh DCCT là Tuyên Úy, ông có người chú ruột làm linh mục và người em cô cậu là Đức TGM Nguyễn Như Thể hiện nay.
Nguyên sau cuộc chỉnh lý của Tướng Nguyễn Khánh ngày 30-1-1964 tại Sài Gòn, Thiếu Tướng Tôn Thất Xứng được lên làm Tư Lệnh Vùng I kiêm Đại Biểu Chính Phủ tại Trung Nguyên Trung Phần, văn phòng đặt tại Đà Nẵng và Đại Tá Nguyễn Chánh Thi về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 ở Huế. Không biết do ai xúi giục, Tướng Tôn Thất Xứng đã gởi một văn thư đến Tòa Tổng Giám Mục Huế, yêu cầu Đức Cha Điền giao nạp cho chính quyền tài sản của “Ông Ngô Đình Thục” trong đó có chiếc xe hơi mà Đức Cha Điền, với tư cách là Tổng Giám Mục Huế đang sử dụng. Khi tiếp được văn thư, Đức TGM Nguyễn Kim Điền đã trả lời Vị Đại Biểu Chính Phủ nội dung như sau:
“Tất cả nhà cửa, xe cộ, tài sản hiện chúng tôi đang quản lý với tư cách là Tổng Giám Mục TGP Huế là của Giáo Hội Công Giáo, không phải là tài sản của “Ông Ngô Đình Thục”. Nếu Ông Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I kiêm Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật, kiêm Đại Biểu Chính Phủ tại Trung Nguyên Trung Phần muốn tịch thu các tài sản đó thì yêu cầu Ông hãy đưa quân đội và khí giới đến đây mà lấy. Ký tên: Philipphê Nguyễn Kim Điền, Tổng Giám Mục.”
Thư trả lời đó, Đức Cha cũng gởi cho Bộ Nội Vụ ở Sài Gòn. Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ lúc đó là Ông Hà Thúc Ký, tiếp được thư nói trên liền cử Ông Nguyễn Văn Mân đại diện Bộ ra Huế liên lạc với Tòa Đại Biểu đồng thời cũng đến gặp Đức TGM Nguyễn Kim Điền để tìm hiểu sự việc. Ai nghe chuyện cũng cười Ông Tướng quá dốt về chính trị. Tất nhiên sau đó không ai còn dám đòi tịch thu tài sản của “Ông Ngô Đình Thục” mà họ quan niệm đó là tài sản của “gia đình họ Ngô”!!!
Mới đến Huế chẳng bao lâu, Đức Cha liền đi thăm các giáo xứ tân tòng ở những miền quê xa xôi hẻo lánh và thường đi xe gắn máy đến các giáo xứ gần, trong phạm vi thành phố. Ngài đến không báo trước, có khi gặp cha sở, có khi không có ai ở nhà... Ngài tự động đi thăm các gia đình Công Giáo trong xứ, hỏi han người nầy người nọ làm cho con chiên rất phấn khởi và được an ủi rất nhiều. Ngài tránh không hề nhờ vả đến các phương tiện của chính quyền đương thời...
Năm 1964, có trận bão lụt lớn ở các tỉnh Miền Trung. Lúc đó Ông Trần Văn Hương mới lên làm Thủ Tướng ở Sài Gòn, sinh viên và Phật tử ở Huế và các tỉnh Miền Trung biểu tình chống đối... Chúng tôi thấy nội bộ quốc gia càng ngày càng chia rẽ trầm trọng, thanh niên, sinh viên học sinh bị lôi cuốn vào những cuộc đấu tranh chính trị, bỏ việc học hành, tuổi trẻ đã bị lợi dụng cho một nhóm người có tham vọng chính trị hoặc bọn thân Cộng từ trong bóng tối đang giựt giây. Chúng tôi bèn vận động anh em sinh viên Công Giáo và sinh viên thiện chí tổ chức những chuyến cứu trợ đồng bào... Chúng tôi mượn xe của quân đội và xin ông Tỉnh Trưởng Thừa Thiên (Trung Tá Võ Hữu Thu) cấp cho một số quần áo, thực phẩm của Ty Xã Hội để đem cho đồng bào. Anh em sinh viên đi từng nhà quyên góp tiền bạc, quần áo v.v… Chúng tôi vào gặp Đức Cha Điền để trình bày công việc của anh em sinh viên cho Ngài biết. Ngài tự động tháo gỡ giây chuyền có tượng Thánh giá đang đeo trước ngực... và nói với tôi:
- Những người bạn ở Tây Đức đã tặng cho Cha “Thánh giá” và giây chuyền nầy. Cha giữ lại “Thánh giá”, còn giây chuyền trao cho con đem bán để lấy tiền giúp vào quĩ cứu trợ. Đây là phần đóng góp của cá nhân Cha.
Tôi hơi có vẻ ngần ngại, rồi bỗng một ý nghĩ hay hay đã đến với tôi lúc đó. Tôi nói:
- Con sẽ có cách sử dụng kỷ vật nầy. Để con làm theo cách của con, xem thử kết quả ra sao.
Tôi mang giây chuyền bằng vàng Tây đó về và cùng mấy anh chị em sinh viên đi đến các nhà giàu hỏi giá. Giáo sư Martine Piat, dạy Pháp văn, cho giá 50.000 đồng lúc đó, bằng mười lần lương của một Trung Úy độc thân. Tôi không chịu bán với giá đó và quyết định làm theo kế hoạch của tôi. Tôi in ra 1000 vé số, mỗi vé 200 đồng, lô trúng duy nhất là giây chuyền vàng của Đức Cha Điền. Trong dịp hành hương đầu năm kính Đức Mẹ La Vang, chúng tôi bán hết số vé đã in, được 200.000 đồng cho vào quỹ cứu trợ. Cha Demerck, Dòng Tên ở Trung Tâm Xavie trúng giây chuyền đó và đã tặng lại cho Đức Cha Điền ngay sau đó. Đức Cha rất ngạc nhiên và khen sáng kiến của chúng tôi.
Đoàn sinh viên Công Giáo Huế đã mang số tiền quyên góp được và số thực phẩm, áo quần vào Đà Nẵng, ở lại một đêm tại Trường Thánh Tâm, yết kiến Đức Giám Mục Phạm Ngọc Chi, xin ý kiến của Ngài về vấn đề cứu trợ nên đến những đia điểm nào... Hôm sau đoàn xe của chúng tôi vào Hội An, nước còn mênh mông chưa rút hết... Chiều đó, chúng tôi vào tận Quảng Tín, đến tận các nhà thờ xa xôi hẻo lánh, gặp các linh mục và trực tiếp phân phối tiền và phẩm vật cứu trợ cho đồng bào... Khi trở về, chúng tôi đã báo cáo lại với Đức Cha Điền các hoạt động của anh em và trình cho Ngài những hình ảnh mà chúng tôi đã chụp được trong chuyến đi. Ngài ban lời khen ngợi anh em...
Mùa Hè năm 1966, tình hình ở Huế và Miền Trung rất căng thẳng, phe “TRANH ĐẤU” đang phát động những cuộc biểu tình bạo động, cướp chính quyền nhân vụ Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I... mất chức. Tướng Nguyễn Chánh Thi đã dựa vào lực lượng tranh đấu để làm áp lực với Sài Gòn hầu củng cố cho địa vị của ông ở Miền Trung. Các cuộc tranh đấu đó lúc đầu do những người ủng hộ Nguyễn Chánh Thi chủ xướng, nhưng sau đó bị tràn ngập bởi lực lượng Phật tử và sinh viên tranh đấu, trong đó có nhiều phần tử thân Cộng như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lê Hiếu Đằng, Lê Quang Long, Phan Duy Nhân v.v… Chúng tôi cũng tập hợp một lực lượng sinh viên chống Cộng để tự vệ và chống lại các sinh viên thiên Cộng. Tôi đi vào Sài Gòn trình bày tình hình với Trung Ương và tiếp xúc với báo chí mục đích nói rõ các hoạt động của Cộng Sản trong sinh viên để cho dư luận biết...
Hôm đó, không có máy bay Huế - Sài Gòn, tôi bèn đổi máy bay đi Đà Lạt. Tôi gặp Đức Cha tại phi trường, Ngài cũng đi Đà Lạt. Máy bay đến phi trường Liên Khương, không có ai đón Ngài cả... chẳng hiểu tại sao. Tôi liền mượn điện thoại gọi lên Đại Học, báo tin cho Cha Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập và xin xe đón Ngài. Từ Liên Khương lên Đà Lạt khoảng 30 cây số, khá xa so với các phi trường khác ở Việt Nam hồi đó. Lợi dụng thời gian từ phi trường Phù Bài Huế cho đến khi về tới Đại Học Đà Lạt, tôi trao đổi với Ngài về tình hình ở Huế. Ngài rất quan tâm và lắng nghe rất đầy đủ những gì tôi trình bày.
Trong Tết Mậu Thân, lúc đó tôi đang làm Dân Biểu Hạ Nghị Viện, đơn vị Thừa Thiên, được đi theo để hướng dẫn phái đoàn các Giám Mục Việt Nam do Đức TGM Nguyễn Văn Bình hướng dẫn ra thăm Huế. Phái đoàn đến Đà Nẵng, và đã được Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I cho máy bay trực thăng đưa ra Huế, có Đức Cha Phạm Ngọc Chi cùng đi theo. Máy bay đã đáp xuống sân đá banh trước mặt Dòng Chúa Cứu Thế Huế, Đức Cha Điền đã đến đó để đón tiếp phái đoàn. Đồng bào nạn nhân cũng có mặt rất đông ở đó. Đức Cha Bình đã thay mặt các Đức Cha và phái đoàn an ủi anh em giáo hữu, tặng quà và ban phép lành cho họ. Những hình ảnh tang tóc trong Tết Mậu Thân đã khiến cho Đức Cha Điền rất đau xót.
Giáo Xứ Phủ Cam, nơi có nhà thờ chính tòa là nơi Đức Cha thường đến đó cử hành những nghi lễ long trọng, đã trở nên một nơi đầy máu và nước mắt. Có hơn ba trăm (300) người đã bị Việt Cộng bắt đi và đã bị thảm sát tại Khe Đá Mài, quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên. Khoảng tháng 10 năm 1969, khi Đức TGM Nguyễn Kim Điền mới từ Roma về đến Huế, Ngài được tin chính quyền mới tìm được mấy trăm nạn nhân bị thảm sát, vất xác dưới khe Đá Mài, lâu ngày, thịt thối rữa hết chỉ còn sọ người và xương xóc nằm lẫn lộn thành một đống. Những hình ảnh đó đã được chiếu trên Truyền Hình và tin tức được loan báo trên đài Phát Thanh... Đức Cha rất xúc động.
Ngay khi Ngài vừa về đến Sai Gòn, chưa có mặt ở Huế, thì có một vị Dân Biểu địa phương đã nói với báo chí rằng: “Ông Nguyễn Kim Điền, TGM ở Huế đã dính vào vụ tranh chấp những xác chết đó”. Lúc bấy giờ có nhiều sự bất đồng giữa các nhân vật có thế lực đại diện cho các tổ chức tôn giáo, chính trị tại địa phương về địa điểm sẽ được an táng các nạn nhân. Chúng tôi đã đến gặp đại diện các tôn giáo cũng như Hội Nạn Nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân để hỏi ý kiến, và cuối cùng đã quyết định sẽ an táng các nạn nhân tại chân núi Ba Tầng, gần núi Ngự Bình, phía sau lưng làng Phủ Cam.
Qua Đài Phát Thanh và Đài Truyền Hình Huế, chúng tôi đã trình bày với đồng bào mọi diễn tiến và quyết định của Ban Tổ Chức tang lễ, kêu gọi mọi người bình tĩnh, tránh những hành động hay lời nói gây chia rẽ có hại cho tình đoàn kết quốc gia. Chúng tôi cũng cho báo chí biết sự việc xảy ra khi Đức TGM còn ở ngoại quốc, Ngài hoàn toàn không hay biết gì... Khi về đến Huế, Ngài đã đến nhà thờ chính tòa dâng thánh lễ cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình của họ và tuyên bố Công giáo không liên quan gì đến cuộc tranh chấp nói trên.
Cảm động nhất là trong lễ an táng của hai linh mục Gioan Baotixita Bửu Đồng và Micae Hoàng Ngọc Bang cùng hai sư huynh dòng La San bị Việt Cộng chôn sống tại Phú Thứ, cử hành tại nhà thờ Phủ Cam ngày 12-11-1969, Ngài đã đọc một bài điếu văn làm cho mọi người không cầm được nước mắt.
Sau Tết Mậu Thân, cơ sở Dòng Kín Carmel Huế bị hư hại nặng. Quá kinh hoàng nên Mẹ và chị em trong Dòng đã vào tạm trú tại nhà Ông Nguyễn Văn Bửu, Phú Nhuận Sài Gòn. Vào một buổi sáng rất sớm, chúng tôi vừa thức dậy, chuẩn bị đi làm thì một nữ tu đến báo tin Cha Bề Trên Benoit Nguyễn Văn Thái, Dòng Bénédictin Thiên An Huế mới bị chết do Việt Cộng pháo kích vào Sài Gòn hôm qua. Ngài đã đến thăm ông Nguyễn Văn Bửu và ông nầy đã nhường phòng ngủ của mình cho ngài tạm trú... Các nữ tu quá hoảng sợ và không biết giải quyết làm sao. Tôi bèn gởi điện tín báo tin cho Các Bề trên Dòng Bénédictin ở Huế, Ban Mê Thuột và báo cho Đức TGM Huế biết. Đồng thời tôi cũng nhờ Cha Cao Văn Luận và Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng, Phụ Tá Tổng Thống lúc đó nhờ tìm cách giúp nhà Dòng đưa xác Cha Bề Trên về an táng ở Huế. Ít lâu sau, tôi nhận được thư viết tay của Đức Cha Điền cám ơn về việc đó.
Tết năm 1971, tôi đưa vợ con đến thăm Ngài. Trong phòng khách của Tòa TGM Huế lúc đó có nhiều giáo hữu ở trong khu vực lân cận cũng đến thăm Ngài. Con gái đầu của tôi là H.A. đưa tay nắm lấy tượng Thánh giá Ngài đang đeo ở trước ngực, không chịu buông ra. Vợ tôi tỏ vẻ lo lắng, sợ vô lễ với Ngài... Nhưng Ngài tươi cười ẵm cháu vào lòng và nói rằng: “Giây chuyền đeo tượng nầy, Cha đã trao cho ba con đi bán rồi, nhưng nay vẫn còn đây. Đó là ý Chúa vậy...” Ngài muốn nhắc lại câu chuyện cứu trợ nạn nhân bão lụt hồi 1964, khi tôi còn là sinh viên, Ngài đã tặng giây chuyền đó cho anh em đem đi bán để giúp vào quỹ cứu trợ....
Cuối năm 1973, có người anh ruột vợ tôi chịu chức linh mục. Đức Cha đã quyết định sẽ tổ chức lễ phong chức cho thầy đó tại ngay nhà thờ giáo xứ Phú Lương, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Đó là một trường hợp rất đặc biệt vì xưa nay những lễ nghi long trọng như thế đều tổ chức tại nhà thờ chính tòa Phủ Cam, Huế. Trước khi vào lễ, Ngài đã nhắc lại hoàn cảnh gia đình cha mẹ anh em của vị tân linh mục, là nạn nhân của biến cố Mậu Thân 1968 ở Huế, cha chết, ba đứa em chết, nhà cửa hư hại, mẹ con phải chạy về nương náu tại giáo xứ Phú Lương. Mặc dù trong hoàn cảnh như thế nhưng bà mẹ và anh em chỉ một lòng xin Chúa ban cho người con của gia đình được làm linh mục... Bài giảng rất cảm động với mục đích cho mọi người biết quý trọng ơn kêu gọi và giúp người đi tu được trung thành với ơn gọi. Khi gia đình đến Tòa Giám Mục để cám ơn, Ngài đã đón tiếp rất nồng hậu trong tình cha con...
Sau hiệp định Paris, 27-1-1973, Phong Trào Sùng Kính Đức Mẹ (Đạo Binh Xanh) đã đứng ra tổ chức rước tượng Đức Mẹ Fatima đến Việt Nam để cầu nguyện cho Hòa Bình. Từ Sài Gòn, tượng Đức mẹ đã được đưa ra Huế rồi trở vô Đà Nẵng, Qui Nhơn, Mỹ tho, Cần Thơ... Máy bay đưa tượng Đức Mẹ ra Huế, Đức Cha Điền đón tại phi trường Phú Bài và đi đường bộ ra La Vang. Ngài không đồng ý sử dụng máy bay trực thăng vì Ngài tránh không dùng phương tiện của chính quyền. Đức Cha Chi rất nôn nóng vì Ngài cũng cần đón tượng Đức Mẹ về Đà Nẵng cho kịp giờ... Nhưng đành phải chịu. Tại La Vang, sau khi tôn vinh Đức Mẹ xong thì Đức Cha Chi rước tượng Đức Mẹ lên máy bay trực thăng bay vô Đà Nẵng ngay vì đồng bào đang đợi Ngài ở đó.
Trong bài giảng tại Vương Cung Thánh Đường La Vang đổ nát, Đức TGM Nguyễn Kim Điền đã lên án cả hai bên : Quốc Gia cũng như Cộng Sản, Ngài đả kích những hành vi tham nhũng, thối nát, chính quyền phải chịu trách nhiệm về một xã hội nghèo đói, chậm tiến, bất công... Bài giảng của Ngài đã được phổ biến tại Sài Gòn... Phát biểu trong cuộc họp của Hội Đồng Giám Mục Á Châu, Ngài cũng đã nhắc lại những tư tưởng đó. Ngài nói rằng Giáo Hội phải xét lại mình, xem có đi đúng đường lối của Đức Kitô hay không ? Cái nhìn của Ngài về vấn đề người nghèo... cũng đã được chú ý rất nhiều trước đây.
Lần cuối cùng chúng tôi gặp Ngài vào cuối năm 1973, từ đó không còn dịp nào trở về Huế để thăm Ngài nữa. Sau 30-4-1975, ở trong nhà tù CS, tôi được Trung Tá Nguyễn Thế cho xem bài diễn văn của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong dịp tiếp phái đoàn Giám Mục Việt Nam, khoảng 1980 và tài liệu “Đường Hy Vọng” của Đức TGM Nguyễn Văn Thuận biên soạn. Đức Thánh Cha đã ca tụng Đức TGM Nguyễn Kim Điền là một người can đảm... Tôi không biết tình hình bên ngoài lúc đó như thế nào vì mới ở nhà giam Hỏa Lò Hà Nội về... Một số anh em có gia đình đến thăm, biết được một vài tin tức của Giáo Hội... đã cho biết Đức TGM Nguyễn Kim Điền đã lên tiếng tố cáo chính sách tiêu diệt tôn giáo của CSVN và đang bị quản chế... Anh em chúng tôi đã nhắc nhở nhau cầu nguyện cho Ngài. Đầu năm 1988, tôi gặp Linh Mục Nguyễn Văn Lý, nguyên bí thư của Đức Cha Điền bị kết án 15 năm tù mới được chuyển đến Trại Nam Hà (tỉnh Hà Nam Ninh), được Cha Lý cho biết thêm một vài chi tiết về Đức Cha Điền. (2)
Tết năm đó, tôi được ra khỏi nhà tù, về với gia đình tại Sài Gòn. Tôi rất muốn đi Huế thăm Đức Cha, nhưng không có phương tiện, vả lại cùng còn ngại công an theo dõi nên không dám đi lại nhiều. Tháng 5-1988 tôi được tin Đức Cha đau nặng phải đem vào bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Tôi muốn đến thăm nhưng lại được tin công an canh gác không cho người ngoài đến đó. Thế rồi khoảng hai tuần sau, chúng tôi nghe đài BBC loan báo Ngài đã qua đời (lúc 1g30 chiều 8-6-1988 tại Bệnh viện Chợ Rẫy). Các đài VOA, BBC, RFI, đài Chân Lý Á Châu ở Manila đều loan tin kèm theo lời bình luận về cái chết của Ngài. Dư luận trong và ngoài nước đều cho rằng chính Cộng Sản đã giết Ngài (hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp...) (2)
Thi hài của ngài được quàn tại Tòa Tổng Giám Mục, Sài Gòn từ sáng 9-6 cho đến lúc 4g chiều 10-6-1988 thì linh cữu được đưa đến Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Sài Gòn và một Thánh Lễ đồng tế do Đức TGM Nguyễn Như Thể và các Linh Mục Huế đã được cử hành tại đây. Đức TGM Nguyễn Văn Bình cùng 8 Giám Mục, 1 Đan Viện Phụ và gần 300 Linh Mục đã cử hành Thánh Lễ đồng tế vào lúc 7g sáng ngày 11-6-1988. Sau đó, linh cữu được đưa về Huế bằng đường bộ.
Chiều 12-6-1988, khi xe tang vừa xuống đèo Hải Vân thì giáo dân các xứ đạo ở hai bên Quốc Lộ I như Lăng Cô, Sáo Cát, Thừa Lưu, Nước Ngọt, Cầu Hai, Truồi, Phù Lương v.v... đổ xô ra đường đón linh cữu của Đức TGM Philipphê. Từng đoàn xe Honda đi theo quan tài mỗi ngày một đông, kẹt đường, xe phải đi chậm... đến An Cựu vào lúc 8g tối. Giáo dân Huế đứng hai bên đường, tay cầm đuốc sáng rực, đi bộ theo linh cữu ngài về Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam... Giáo dân ở thành phố Huế và vùng phụ cận lúc đó ước khoảng trên mười ngàn người. Nhưng con số hiện diện đã lên đến năm, sáu chục ngàn người, tất nhiên cũng đã có rất nhiều tín đồ của các tôn giáo bạn có cảm tình đã đến với ngài.
Sau 30-4-1975, chưa từng thấy có một sự tập hợp đông đảo tại Huế như vậy. Người ta cho rằng đây là một sự biểu dương lực lượng hay là một thái độ phản kháng của những tín đồ các tôn giáo đang bị áp bức dưới chế độ Cộng Sản. Sáng 15-6-1988, Thánh Lễ an táng do Đức TGM Nguyễn Văn Bình chủ sự với 9 vị Giám Mục khác và gần 80 Linh Mục thuộc các Giáo phận Huế và Đà Nẵng đồng tế.
HÌNH ẢNH CUỐI CÙNG
GS Nguyễn Ngọc Lan, sau khi nghe tin Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền đã bị đầu độc, liền đến Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn (đường Phan Đình Phùng, Quận 3) để kính viếng thi hài của ngài đang để ở đó. Ông cũng như mọi người đã rất xúc động khi thấy thi hài của ngài nằm trên một cái băng-ca... không có một sự tôn kính nào đối với một vị Tổng Giám Mục đạo đức và danh tiếng mà khắp cả thế giới đều biết đến !
Thông thường đối với người chết, dù là người không có địa vị gì trong xã hội thì thân nhân cũng phải chọn một nơi xứng đáng, tôn nghiêm, để đặt thi hài (hay quan tài), tối thiểu cũng trên một cai giường hay một cái bục cao. Trước hình ảnh đó, thân nhân của Đức TGM Philipphê, giáo dân Huế và tất cả những người hiện diện... đã lên tiếng trách Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình và các Linh Mục có trách nhiệm tại Sài Gòn đã xem thường “thi hài người quá cố”... Sau đó, GS Nguyễn Ngọc Lan đã gởi cho Đức TGM Nguyễn Văn Bình một bức thư nói lên cảm tưởng của ông về việc nầy.
Khi Đức TGM Têphanô Nguyễn Như Thể và các Linh Mục thuộc Giáo phận Huế đến, họ đã thuê người khâm liệm và đưa quan tài của Đức TGM Philipphê đến đặt tại Nhà thờ Chính tòa Đức Bà, Sài Gòn để cho mọi người đến kính viếng trước khi đưa về an táng tại Nhà thờ Chánh tòa Phủ Cam, Huế.
Tôi và gia đình, bạn bè đã đến nhà thờ Đức Bà Sài Gòn để kính viếng Ngài. Trong thánh lễ cầu nguyện và tiễn đưa Ngài về Huế, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Như Thể đã đọc một bài cám ơn rất cảm động, ca đoàn nhà thờ Đức Bà Sài Gòn đã hát những bài thánh ca rất ý nghĩa. Mọi người đều chảy nước mắt vì mến thương một vị Thánh đã từ giã chúng ta trên cõi đời nầy...
Hôm nay, nhân lễ giỗ của Đức TGM Nguyễn Kim Điền, chúng tôi viết lại một vài kỷ niệm tình Cha con, những ngày tháng mà chúng tôi đã được sống gần Ngài, với ước mong các con cái của Ngài, những giáo hữu Cần Thơ, Huế và Việt Nam... đừng bao giờ quên hình ảnh MỘT NGƯỜI CHA TỬ ĐẠO trong giai đoạn mới nầy, dưới chế độ Cộng Sản.
Gs Nguyễn Lý- Tưởng.
(giỗ thứ mười 8/6/1988-8/6/1998)
---------------------------------------------
PHẦN BỔ TÚC: (giỗ thứ 13: 08/6/2001)
(1) Tiểu Sử của Đức Tổng Giám Mục Philippe Nguyễn Kim Điền:
- Ngài sinh ngày 13-3-1921 tại Gia Định. Năm 12 tuổi, ngài vào tu học tại Tiểu Chủng Viện rồi sau đó vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse, đường Cường Để, Sài Gòn (nay đổi tên mới là đường Tôn Đức Thắng). Ngài chịu chức Linh Mục ngày 21-5-1947, sau đó làm giáo sư, rồi Giám Đốc Chủng Viện.
- Năm 1955, ngài gia nhập Dòng Tiểu Đệ của Chân phước Charles de Foucauld, sinh hoạt mục vụ với người nghèo trong các xóm lao động, đạp xích lô để sống tự túc. Ngài cũng đã qua Bắc Phi, sống tập thể trong sa mạc Sahara với các tu sĩ Dòng Tiểu Đệ theo truyền thống của Dòng nầy. Năm 1957, trở về Việt Nam, ngài đã từng sống ở Sài Gòn, Lâm Đồng, Cần Thơ
- Ngày 8-12-1960, ngài được Tòa Thánh Vatican chính thức bổ nhiệm làm Giám Mục Giáo Phận Cần Thơ (lúc 39 tuổi), lễ tấn phong được tổ chức tại Sài Gòn ngày 22-01-1961.
- Ngày 30-9-1964, ngài được Tòa Thánh cử làm Giám Quản Tổng Giáo phận Huế thay thế Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục đi họp ở Roma và không trở về sau biến cố 01-11-1963.
- Ngày 11-3-1968, ngài được chính thức làm Tổng Giám Mục Huế.
- Ngày 19-10-1983, ngài gởi thư cho LM Nguyễn Thế Vịnh (34, Ngô Quyền, Hà Nội) là “Chủ Tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo Yêu Nước” nói lên lập trường “hiệp nhất” với Giáo Hội Hoàn vũ và cảnh giác trước âm mưu lập Giáo Hội Việt Nam “ly khai” với Vatican.
- Ngày 11-04-1984, ngài gởi thư cho ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Quốc Hội CSVN phản đối việc Công An tỉnh Bình Trị Thiên đối xử với Ngài và Linh Mục Nguyễn Văn Lý, là vi phạm điều 10 khoản 7 của Hiến Pháp CSVN.
- Trong suốt 120 ngày kể từ 5-4-1984, ngài bị Công An tỉnh Bình Trị Thiên “mời” đi “làm việc” (thẩm vấn)... và ra lệnh quản chế, cấm ngài không được đi ra khỏi chu vi thành phố Huế. Trước tình thế đó, ngày 19-10-1985, ngài đã viết thư gởi cho giáo dân: “Mai này khi tôi bị bắt, tôi xin anh chị em đừng tin một điều tuyên bố nào của tôi, dù lời tuyên bố đó mang chữ ký mà người ta gán cho tôi”...
- Ngày 8-11-1985, cảm thấy cái chết có thể đến với ngài bất cứ lúc nào nên ngài đã viết di chúc ngắn để lại cho các Linh Mục “khuyên các cha hãy trung thành với Hội Thánh và đoàn kết với nhau, sống trọn vẹn bổn phận của chủ chăn nhân hiền”...
- Ngày 25-3-1988, ngài viết một bức thư gởi cho ông Nguyễn Văn Linh, sau khi ông được bầu làm Tổng Bí Thư đảng CSVN và tuyên bố chính sách “đổi mới”... Nội dung bức thư đòi xóa bỏ lệnh quản chế ngài, cho ngài được phục hồi quyền công dân, được tự do đi lại để thi hành nhiệm vụ Tổng Giám Mục đối với giáo dân Huế và thăm viếng các Giáo Phận khác thuộc Tổng Giáo phận Huế.
- Ngài qua đời ngày 8-6-1988 tại Sài Gòn, hưởng thọ 67 tuổi.
(2) Về Tình Hình Giáo phận Huế sau 30-4-1975:
Chúng tôi xin trích dẫn hai nhân chứng (LM Nguyễn Văn Lý và ông Bảo Thái) đã nói về tình hình Giáo phận Huế sau 30-4-1975, và chính sách tiêu diệt tôn giáo (đặc biệt với Công Giáo và Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền) của CSVN:
a. Lời chứng của LM Nguyễn Văn Lý (Xin xem lời chứng của cha về cái chết của Đức TGM Nguyễn Kim Điền)
b. Lời chứng của Ông Bảo Thái (một giáo dân ở Huế):
“Cộng Sản phong tỏa toàn bộ Tổng Giáo phận Huế bằng ngón đòn “hộ khẩu”. Tất cả đều phải ở nguyên trạng, không được thay đổi, không được di chuyển đi đâu khác ngoài nơi “hộ khẩu” của mình. Họ thu hẹp các tổ chức, các hội dòng, và cả Tòa Tổng Giám Mục... bằng một tờ hộ khẩu! Linh Mục Quản Nhiệm một xứ đạo cũng chỉ là chủ một hộ khẩu! Đến hay đi phải được khai báo “tạm trú, tạm vắng”.
“Các thánh đường và các cơ sở trong toàn Tổng Giáo Phận đều không được sửa chữa, trùng tu, nếu chưa khai báo và chưa có phép của nhà nước. Muốn trùng tu, sửa chữa phải khai kinh phí bao nhiêu, do đâu mà có. Các dòng tu không được nhận các em dự tu, Đại Chủng Viện không nhận thêm, cũng như không có các Thầy đại chủng sinh chịu chức Linh Mục. Tiểu Chủng Viện phải giải tán, các cơ sở của Công Giáo hầu hết đều bị trưng dụng thành cơ quan của nhà nước... Các Hội đoàn trong giáo xứ tuyệt đối không được sinh hoạt, nhóm họp, ngay cả các lớp học giáo lý cũng phải bãi bỏ... Không một nhà thờ nào, một giáo xứ nào họ không đặt người ở bên trong để làm “thông tin”, để “báo cáo tình hình”, để “theo dõi hoạt động”, và để “phát hiện sự chống phá”... Thánh lễ có bao nhiêu người tham dự? Vị Linh Mục giảng những gì? Sinh hoạt của giáo xứ ra sao? Có những ai là người lạ mặt? Có những hiện tượng chống đối nào? Những người nầy phải viết báo cáo đầy đủ cho họ hàng tuần, hàng tháng... Phương cách nầy không khác gì những điều họ đã áp dụng trong các trại tù cải tạo. Không một nơi nào mà Công an không theo dõi, kiểm soát...
“Bản thân của Đức TGM Nguyễn Kim Điền, một vị lãnh đạo tinh thần có hàng chục ngàn tín hữu, dưới mắt họ cũng chỉ “một công dân của chế độ”. Họ đã đưa giấy gọi Đức Cha đến Công An “làm việc” và xem Ngài như “một tội phạm”. Ngài phải “làm việc” với họ suốt từ sáng đến chiều, từ tháng này đến tháng khác như thế. Chưa kể các nhân viên hành sự đã thiếu lễ độ với Ngài, đập bàn quát tháo khi thấy Ngài chỉ làm thinh, cầu nguyện và không khai báo gì khác hơn những gì Ngài đã nói một lần. Họ cầm chân Đức Cha một chỗ và không cho phép Ngài đi đâu ra ngoài thành phố Huế, đúng hơn là ra khỏi Tòa Tổng Giám Mục.
“Bản án mà CS lập cho Đức Cha khá dài, những 4 trang, họ kết tội Ngài là “phản động”, “chống đối nhà nước”, “phải bị trừng trị”. Bản án nầy được truyền đi khắp các khu phố, bắt các tín hữu Công Giáo phải tập trung để “học tập”, mục đích là tách Ngài ra khỏi Cộng Đồng giáo dân để dễ dàng bóp chết Ngài...” (Bảo Thái: Nghĩ Về Cái Chết Của Đức TGM Nguyễn Kim Điền, Hiệp Nhất số 97 tr.65 xuất bản tại Orange County, California, Hoa Kỳ tháng 01-2001)
23- Lời Chứng về cái chết của Đức TGM Nguyễn Kim Điền
Ðức TGM Philipphê đã tử đạo như thế nào?
Linh mục Nguyễn Văn Lý, 30-01-2001
1. Ðức Cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Ðiền trước 1975
Ðức Cố TGM Ðiền, sinh năm 1921, nguyên là một Linh mục xuất sắc về đạo đức và trí thức của Giáo phận Sài Gòn. Ngài làm giáo sư Tiểu chủng viện, rồi làm Giám đốc Tiểu chủng viện Giáo phận Sài Gòn. Ngài nói và viết tiếng Pháp gần như một nhà trí thức Pháp. Ngài đã trở nên một trong những thành viên đầu tiên của Dòng Tiểu Ðệ Phúc Âm theo tinh thần của Cha Charles de Foucauld do Cha René Voillaume thành lập. Từ đó, Ngài đạp xích lô để mưu sinh và gần gũi với giới lao động. Năm 1960, Ngài được chọn làm Giám mục Cần Thơ. Năm 1964, Ngài được chọn làm Giám quản Tông tòa Tổng Giáo phận Huế. Ít lâu sau Ngài chính thức làm Tổng Giám mục Huế.
Ngài thánh thiện, hiền từ, kín đáo, tế nhị đến nỗi làm Giám mục ở Huế suốt 11 năm, trừ một căn phòng nhỏ Ngài dùng để ngủ, còn lại tất cả các phòng khác trong Tòa TGM Huế, cách bày biện trang trí Ngài vẫn cố tình để y nguyên như thời Ðức TGM Phêrô Ngô Ðình Thục, để đợi Ðức TGM Thục trở về. Ngay cả cái ghế mỗi ngày Ngài quì chầu Mình Thánh Chúa cả tiếng đồng hồ, Ngài cũng để y nguyên như thời Ðức TGM Thục vậy. Sau 1975 Ngài mới cho thay đổi, vì biết chắc chắn Ðức TGM Thục không bao giờ trở về nữa.
Ngài có đời sống nội tâm sâu xa, mỗi ngày quì chiêm ngắm Mình Thánh Chúa đủ hoặc hơn một giờ đồng hồ không động đậy, không sách vở. Ngài xưng tội đều đặn với một linh mục đạo đức đang ở nghỉ hưu tại Nhà hưu dưỡng Giáo phận.
Ngài luôn xử sự với mọi người cách lễ độ, ôn tồn. Ðặc biệt, với hàng linh mục, Ngài luôn tôn trọng và thân tình. Với các tôn giáo bạn, Ngài luôn chân thành kính cẩn. Nhóm Hướng Thiện Phật giáo, một tổ chức từ thiện nổi tiếng ở Huế luôn coi Ngài là Vị Bảo trợ tinh thần, mỗi năm đều đến kính thăm Ngài ít nhất 4 lần: Tết Nguyên đán, Giáng Sinh, Phục Sinh và ngày Giỗ của Vị Bồ tát sáng lập Phạm Văn Siêu. Mỗi lần, họ đều quì lạy Ngài, không bao giờ nhận sự trợ giúp vật chất, chỉ xin Ngài cầu nguyện cho việc từ thiện của họ mà thôi. Ngài đỡ họ dậy, không muốn họ quì lạy như thế, nhưng họ vẫn cứ làm mãi.
Ðặc biệt là Ngài rất cẩn thận để Giáo Hội tách biệt khỏi chính trị thế tục, đến nỗi suốt 11 năm làm Giám mục ở Huế từ 1964 đến 1975, Ngài không hề sử dụng một chuyến máy bay nào của Không lực Việt Nam Cộng hòa và Không lực Hoa Kỳ, Ngài cũng không hề tiếp một Nhân viên nào của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa hay Sĩ quan cao cấp nào tại Tòa TGM Huế với tư cách là quan quyền phần đời cả. Ðầu năm 1975, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Khu I, một Vị Tướng lúc đó rất có uy tín trong chế độ Sài Gòn cũ, muốn gặp Ðức TGM Ðiền, Ngài đã trả lời: "Tôi là nhà tu hành, nếu Ngài muốn gặp tôi với tư cách là một con người đi tìm chân lý và bình an thì xin kính mời Ngài đến bình thường như mọi người lúc nào cũng được, nhưng nếu Ngài muốn đến thăm tôi với tư cách một Sĩ quan của Quân lực VNCH thì tôi không đủ tư cách tiếp Ngài". Nghe trả lời thế, Tướng Ngô Quang Trưởng đã không đến.
Năm 1974, Ngài đi dự Thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới ở Rôma, nhiều phóng viên báo chí bao vây Ngài. Có người hỏi Ngài: "Có dư luận cho rằng Cộng sản Bắc Việt sẽ chiếm được miền Nam, Ngài nghĩ sao về Cộng sản VN"? Ngài đã trả lời rằng: "Là Giám mục Công giáo, tôi không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản, nhưng người cộng sản Việt Nam cũng là người anh em của tôi". Sau đó, có dư luận cho rằng Ngài là TGM "đỏ"!
Ðầu năm 1975, Ngài tiên đoán quân CS Bắc Việt thế nào cũng đánh chiếm Huế, nên có bí mật thăm dò các Linh mục Giáo phận Huế để biết nếu quân Bắc Việt chiếm Quảng Trị Thừa Thiên, liệu có bao nhiêu Linh mục tình nguyện ở lại để làm việc trong chế độ cộng sản. Cuộc thăm dò cho kết quả đáng buồn: chỉ có 6 trên khoảng 120 Linh mục dám ở lại với CS mà thôi.
Ngài tức khắc vào Sài Gòn tìm 1 Nhà hưu cho các Linh mục già lão của GP Huế di tản vào và bàn giao Hội Thừa Sai VN cho Ðức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình để vội về lại Huế cho kịp. Ngày 19-3-75 Ngài về đến Ðà Nẵng bằng một trong vài chuyến Boeing cuối cùng của Hàng không VN lúc đó. Từ Ðà Nẵng, xe của Tòa TGM Huế đưa Ngài về đến Huế lúc 2g sáng ngày 20-03-75. Ðược biết chỉ còn khoảng hơn 6 Linh mục thật sự ở lại trong tỉnh Thừa Thiên, còn tỉnh Quảng Trị thì không còn Linh mục nào, Ngài vội nhờ đường dây điện thoại còn lại cuối cùng của phòng Tuyên úy Công giáo để gọi gấp vào Sài Gòn mời tôi ra, là người đã tình nguyện theo Ngài ra sống trong vùng cộng sản.
Tôi đang dâng Thánh lễ tại Vườn Xoài trong một tuần giảng tĩnh tâm tại đây, thì nhận được tin Ðức TGM Huế muốn tôi ra Huế lúc 6g sáng. Tôi vội về lại cộng đoàn Thừa Sai thu xếp và ra Ðà Nẵng lúc 12g trưa ngay ngày hôm đó. Tôi chỉ ra Huế sau Ðức TGM Ðiền 10g đồng hồ, nhưng Ðèo Ðá Bạc đã bị quân Bắc Việt chiếm, nên từ Ðà Nẵng, tôi phải dùng nhiều phương tiện. Cuối cùng, sau 5 đêm và gần 6 ngày trọn, tôi về được đến Tòa TGM Huế chiều 25-03-75.
2. Ðức Cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Ðiền sau 1975
Sáng 26-3-1975, quân Bắc Việt treo cờ giải phóng trên Thành phố Huế. Quân đội giải phóng miền Nam VN thực chất cũng là quân Bắc Việt thôi, nhưng phải lấy cớ là quân miền Nam giải phóng để tránh tiếng cho Hà Nội khỏi xâm lược miền Nam.
Ngay ngày 01-04-1975, Ủy ban Quân quản tỉnh Thừa Thiên đã mời Ðức TGM Ðiền tham dự buổi mit-tinh để chào mừng ngày Huế giải phóng. Ngài đã phát biểu theo tinh thần tích cực, vui mừng vì chiến tranh chấm dứt tại một phần Ðất Nước. Sau đó Ngài đều cổ vũ mọi người vui sống theo tinh thần lạc quan đó. Ngài phổ biến tập sách "Tôi Vui Sống" để hướng dẫn Dân Chúa sống Phúc Âm trong hoàn cảnh mới một cách tích cực.
Ðể đề phòng việc có thể thiếu vắng Chủ Chăn, Ngài dùng năng quyền đặc biệt, ngày 09-7-1975, tấn phong ngay Cha Têphanô Nguyễn Như Thể làm TGM Phó với quyền kế vị.
Dịp 02-09-75, Ngài xin đi Hà Nội để chào mừng vị Hồng y Tiên khởi của Giáo Hội Công giáo Việt Nam: Ðức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Như Khuê, đồng thời để 2 vị Lãnh đạo gặp nhau lần đầu tiên. Trên đường đi, Ngài thăm 2 Ðức Giám mục Giáo phận Vinh và Giáo phận Thanh Hóa. Tại Hà Nội, Ngài gặp Ðức Giám mục Bắc Ninh, hiện nay là Ðức Hồng Y Giuse Maria Phạm Ðình Tụng. Ngài lưu lại Tòa Tổng Giám mục gần 2 tuần, gặp Ðức TGM Phó Hà Nội, sau nầy là Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, gặp Cha Phanxicô Xavie. Nguyễn Văn Sang, hiện nay là Giám mục Thái Bình, Tổng Thư ký HÐGMVN, gặp Cha Tổng Ðại diện Lê Đắc Trọng, hiện nay là GM Phụ tá Hà Nội, gặp cha Nguyễn Tùng Cương, về sau làm Giám mục Hải Phòng, gặp Cha Đỗ Tông, hiện nay là Tổng Ðại Diện TGP Hà Nội, và nhiều linh mục quan trọng khác. Chuyến đi miền Bắc nầy giúp Ngài thấy rất rõ CSVN đối xử thế nào với các Tôn giáo tại VN và nhất là Giáo hội Công giáo VN. Về lại Huế, CSVN yêu cầu Ngài viết và nói lại chuyến đi ấy, Ngài nhất mực từ chối. CSVN cũng mời tôi, Linh mục Thư ký cùng đi với Ngài làm như thế, nhưng tôi cũng từ chối.
CSVN đàn áp các Tôn giáo càng ngày càng rõ rệt, nhất là việc phân biệt đối xử các Tín hữu ghi rõ trong lý lịch mình là "Công giáo". Biết bao nhiêu sinh viên Công giáo không thể tốt nghiệp đại học, bao nhiêu học sinh Công giáo không thể thi vào đại học, bao nhiêu nhân viên bị mất việc làm chỉ vì mình là Công giáo. Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển Linh mục càng ngày càng khó khăn. Giữa năm 1975, Ngài phong chức được 2 linh mục, đầu năm 1976, được 4 Linh mục và sau đó đành chịu. Mãi 18 năm sau, năm 1994, Ðức TGM Têphanô Nguyễn Như Thể mới phong chức được thêm 5 linh mục khác.
Từ một người rất sợ Cộng sản, nhưng trong Ðức Tin và Ðức Ái, Ðức TGM Ðiền cố gắng sống cởi mở, hài hòa, tích cực. Tuy nhiên, dần dần Ngài nhận thức rõ, CSVN thực sự muốn tiêu diệt các Tôn giáo mà nhất là Công giáo. Năm 1977, nhân 2 cuộc họp do Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam (UBMTTQVN) tổ chức, Ðức TGM Ðiền đã phát biểu 2 bài đòi Tự do Tôn giáo, trong đó Ngài xác nhận, người Công giáo bị đối xử như "công dân hạng hai". Tôi đánh máy ra và phổ biến cho các Linh mục Gp Huế. Ít lâu sau, 2 bài nầy được in ra khá nhiều ở Sài Gòn và báo chí nước ngoài đăng lại. Cuối tháng 08-1977, Linh mục Hồ Văn Quý, Giám đốc Ðại chủng viện Huế và tôi bị bắt, các tòa án nhân dân của các tổ chức quần chúng kết án chúng tôi 20 năm. Nhưng năm 1977, Việt Nam vừa nộp đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc, nên chiều 24-12-1977, hai chúng tôi được đột ngột thả ra. CSVN buộc Ðức TGM Huế phải bổ nhiệm 2 anh em chúng tôi đi làm việc, không cho ở Nhà Chung nữa, nhưng không được bổ nhiệm ở thành phố, giáo xứ lớn, ở vùng núi, ở vùng biển; mà chỉ ở giáo xứ nhỏ vùng quê mà thôi. Ðầu tháng 7-1978, Linh mục Augustinô Hồ Văn Quí đi Bố Liêu, Quảng Trị; còn tôi đi Ðốc Sơ, gần Tp Huế.
Trước Giáng Sinh 1979, CSVN dùng bạo lực cưỡng chiếm Tiểu chủng viện Hoan Thiện, đuổi 3 Linh mục đang dạy trong đó phải đi làm việc khác và hơn 80 chủng sinh phải về sống với gia đình. Giáng Sinh năm đó, Ðức TGM Ðiền ra lệnh cho cả Giáo phận Huế phải để tang cho đứa con yêu 149 tuổi nầy vừa bị giết. Ngài nói: "Chủng viện là con mắt của Giám mục, nay tôi đã bị móc mắt rồi". Cả Giáo phận rất đau lòng về việc Tiểu chủng viện bị cưỡng chiếm.
Lúc bấy giờ, CSVN không muốn giáo hữu đi hành hương kính Ðức Mẹ La Vang, ngăn chận xe khách dọc đường, đuổi tất cả những ai muốn đi La Vang xuống. Nên việc hành hương kính Ðức Mẹ La Vang rất khó khăn. Cha Tôma Trần Văn Cầu, Quản xứ Trí Bưu phụ trách Trung Tâm La Vang; về sau Cha Emmanuel Nguyễn Vinh Gioang, Quản xứ Diên Sanh phụ trách La Vang, và tất cả các Linh mục vùng Quảng Trị đã phải kiên trì đấu tranh bằng nhiều cách để có thể đưa giáo hữu đến La Vang. Dịp 15-08-1981, phải hướng dẫn khách hành hương La Vang nhưng bị chận dọc đường, tôi phải đứng tại chỗ hướng về La Vang mà nguyện kinh 4 lần 4 nơi khác nhau, mới có thể khai thông tuyến đường được. Năm ấy, lần đầu tiên sau 1975, số người hành hương La Vang lên đến 10 ngàn. Sau đó, CSVN kết án 5 chủng sinh từ 2 đến 4 năm tù và đuổi 5 chủng sinh khác về nhà vì “tội” diễn lại sáng kiến “đấu tranh” nói trên của tôi.
Từ 1976, Ðức TGM Huế không truyền chức linh mục được thêm cho một chủng sinh nào. Ðại chủng viện Huế coi như bị đóng cửa với 1 Linh mục giám đốc duy nhất và mấy chục chủng sinh chẳng biết tương lai thế nào. Các Dòng tu liên tiếp gặp rất nhiều khó khăn. Phải tu chui, khấn chui, một cách vô lý và đầy ấm ức. Các giáo xứ "kinh tế mới" và vùng xa khó khăn lắm mới có một Thánh Lễ dịp Giáng Sinh, Phục Sinh,...
Năm 1980, cùng với Ðức TGM Phó Têphanô Nguyễn Như Thể, Ngài đi dự buổi họp đầu tiên của HÐGMVN tại Hà Nội. Khi về lại, cả 2 Vị TGM đều rất buồn về Bức Thư Chung không được vừa ý, nhưng vì muốn bày tỏ tính hiệp nhất của Giáo hội mà đành lòng ký chung. Thư Chung nầy, hầu như không có Linh mục Gp Huế nào đọc chung trong Nhà Thờ cho giáo hữu nghe, chỉ trừ một Linh mục duy nhất mà nay đã qua đời. Sau đó, Ngài được đi Rôma. Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi Ngài là "TGM anh dũng", chia sẻ với Ngài công thức lừng danh để sống trong chế độ cộng sản: "Cộng tác trong tình trạng luôn luôn đề kháng" (collaborer en résistant).
Năm 1983, CSVN kết án tôi 10 năm tù ở và 4 năm quản chế rồi đưa tôi ra Thanh Hóa. CSVN lại bắt Linh mục Lê Thanh Hoàng, kết án 3 năm, nhưng phải ở 5 năm.
Đức TGM lặp đi lặp lại nhiều lần, tại nhiều nơi: VN chưa có tự do tôn giáo thực sự. Nhiều lần, Ngài viết thư cho Hội Ðồng Giám mục Việt Nam và Linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Chủ tịch Ủy Ban Ðoàn Kết Công Giáo (UBÐKCG) chứng minh rằng Giáo Hội Công giáo VN đang bị bách hại thực sự; và GHCGVN đã có Hội Ðồng Giám mục VN là cơ quan chính thức để điều hành sinh hoạt Giáo hội, liên lạc với Chính quyền Cộng sản, không cần có thêm một Ủy ban nào hết. Nếu UBÐKCG hoạt động thì UB ấy cao hơn HÐGMVN, tạo nên sự bất hợp lý trong Giáo hội. (Tại nhiều giáo phận, việc thuyên chuyển, bổ nhiệm linh mục, việc du học và du lịch nước ngoài do UBÐKCG nầy lèo lái, sắp đặt). Ngài viết: "Ai không đi qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp" (Ga 10,1).
Ngài phải tìm cách chuyển các tài liệu ấy ra nước ngoài. Vì thế, Ngài đã bị CSVN gây ra bao nhiêu đau khổ. Rất tiếc, hiện nay tất cả các tài liệu nầy có lẽ đã bị một Linh mục của Tòa TGM Huế thiêu hủy năm 1994 (đành phải giấu tên cho Linh mục ấy). Khi đó, có một Nữ tu thấy và biết, khóc lóc xin đừng làm như thế, nhưng Linh mục nầy vẫn không nghe, vì cho rằng những tài liệu ấy không phù hợp và có hại (?!). Tôi chưa thể có đủ điều kiện kiểm chứng lúc nầy được. Hi vọng vẫn có ai đó trên trái đất nầy còn cất giữ được.
Linh mục Nguyễn Hữu Giải nhiệt tình chống đối việc thành lập UBÐKCG nên ngày 26-11-1983, ngài bị bắt, bị ở trại tập trung đến cuối 1989 mới được thả, dù không có tội gì. Nhiều Linh mục, Tu sĩ khác bị triệu tập làm việc rất căng thẳng. Ðức TGM Ðiền càng đau buồn.
Rồi Lm Phêrô Trần Văn Quí, Thư ký của Ngài cũng bị bắt và bị quản chế. Về sau bị cưỡng bức đưa đi giáo xứ Buồng Tằm, một giáo xứ nhỏ tận thượng nguồn sông Hương, nhưng Linh mục Quí phản đối và bỏ vào Sài Gòn học thêm tin học và ngoại ngữ. Năm 1995, Lm Quí được bổ nhiệm làm Quản xứ Phường Ðúc và Nguyệt Biều.
Ðức TGM Ðiền đã nói một câu rất thời danh: “Đã có những Giám mục chịu chết vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh. Nhưng ngày nay có Giám mục nào dám chịu chết để bênh vực quyền lợi của con người không?”
3. Ðức Cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Ðiền đã tử đạo thế nào?
Năm 1975, Ðức TGM Ðiền không hề bị một bệnh nào, chỉ thỉnh thoảng bị cảm lạnh. Nhưng chịu quá nhiều phiền toái do CSVN gây ra như bị ép buộc ký giấy trao cho CSVN sử dụng hầu hết các cơ sở giáo dục và từ thiện của Giáo phận, bị triệu tập làm việc suốt 120 ngày, suốt ngày bị nghe những lời thóa mạ, bị buộc viết các lời khai, bị buộc ăn năn sám hối vì đã đấu tranh cho các quyền lợi chính đáng của Giáo Hội, bị buộc tố cáo chê bai các Linh mục, Tu sĩ con cái của mình, không thể truyền chức Linh mục cho các chủng sinh đã học xong từ lâu, không thể bổ nhiệm các Linh mục, có thời gian không thể đi cử hành Nhiệm tích Thêm sức trong giáo phận, nên từ 1981, Ngài bị bệnh nhồi máu cơ tim, thỉnh thoảng tim ngừng đập vài giây, cao huyết áp, xơ cứng động mạch, suy thận, đau cột sống và tiểu đường, mỗi thứ một ít, nhưng chưa có bệnh nào nặng đến nỗi gây ra cái chết đột ngột.
Ðức TGM Ðiền qua đời ngày 08-06-1988, lúc bấy giờ tôi đang ở trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh. Khoảng 1 tuần sau đó, tôi chỉ biết tin Ngài qua đời qua nhật báo Nhân dân. Các điện tín và các thư thân nhân (nay còn sống và tạm giấu tên) viết báo tin cho tôi Ngài qua đời đều không đến tay tôi được.
Cuối năm 1992, tôi ra khỏi tù. Nghe nhiều người bàn tán về cái chết "đầy bí ẩn" của Ðức TGM Ðiền và về các "ơn lạ" mà nhiều người đã xin được nhờ cầu nguyện với Ngài. Tôi quì trước mộ Ngài cầu nguyện rất lâu rằng: "Nếu việc làm sáng tỏ nguyên nhân cái chết của Ðức Tổng làm sáng danh Chúa và có lợi cho Hội Thánh CGVN, thì xin Ðức Tổng cầu bầu cùng Chúa phù trợ cho con đủ điều kiện làm xong việc quá khó khăn nầy". Sau đó, tôi bắt đầu âm thầm tiến hành điều tra. Sau đây là kết quả bước đầu. Kính xin mọi người bổ sung đầy đủ hơn:
Cuối tháng 05-1988, Ngài xin vào điều trị tại bệnh viện Nguyễn Trãi, sao cho tạm ổn định để có thể đi Rôma. Ngài rất nôn nóng đi Rôma để báo cáo về Ðức TGM Phó mà Ngài định đặt, về Ðức GM Phụ tá Giacôbê Lê Văn Mẫn mà Ngài đã tấn phong "bí mật" và về GHCGVN, về GP Huế. Có 2 bác sĩ quen săn sóc, 1 bác sĩ ở đường Sương Nguyệt Anh, gần Nhà thờ Chợ Ðũi và một bác sĩ bạn của bác sĩ nầy. Theo họ, Ðức TGM bị ung thư đường tiểu, không thể chữa.
Ngài có bị nhổ 2 răng: 1 răng vàng và một răng khôn, có đem 2 răng ấy đến 42 Tú Xương nhờ em ruột của Nha sĩ Phạm Thị Thân khám. Ở phòng khám răng nầy có cô y tá tên Nguyễn Thị Kim Anh, 12 Trương Quốc Dung, Phường 10, Quận Phú Nhuận, Ðt 08.8350482 - 08.8449472, quen biết cô Bích Hồng, Thị Nghè, thuộc Tu hội Trợ Tá Tông Ðồ, người săn sóc Ðức Tổng vào những giờ cuối. Hai Lm Stanilaô Nguyễn Ðức Vệ và Gioakim Lê Thanh Hoàng đi theo Ðức TGM Ðiền để săn sóc Ngài biết cô Hồng nầy.
Chẳng biết có sự gợi ý của CSVN hay không, nhưng cho dù có, thì cũng chỉ vì chân tình và ngay tình, có hai Ðức Giám mục (tạm thời xin giấu tên) thăm Ngài hai lần khác nhau tại bệnh viện Nguyễn Trãi, khuyên Ngài xin vào bệnh viện Chợ Rẫy để có thể xét nghiệm làm hồ sơ xin đi nước ngoài chữa bệnh, vì theo hai Ðức Giám mục nầy cho biết, trên nguyên tắc Chính quyền CSVN đã đồng ý. Hai Ðức GM nầy còn cam đoan là CSVN không đến nỗi dùng thủ đoạn gì đâu (?!). Ngài nghe lời và xin chuyển qua bệnh viện Chợ Rẫy đầu tháng 06-1988, mục đích là để được khám nghiệm trước khi lên máy bay đi Rôma. Tại đây, các bác sĩ cho rằng bệnh Ngài quá nặng, không chữa được. Có một lần, Ngài đau đớn quá, Ngài bấm chuông gọi 2 Cha Vệ - Hoàng đưa Ngài về, vì không chữa được, nhưng sau đó, có một điện tín báo: Nhà Nước đã cho đi chữa bệnh nước ngoài, giấy tờ đã xong. Tòa Thánh đã bằng lòng tài trợ mọi phí tổn. Ngài rất mừng, vui, ăn hết một tô xúp, nhưng bí tiểu.
CSVN từ Huế đã vào Sài Gòn theo dõi Ngài sít sao và tham gia chỉ đạo các kế hoạch. Tôi có thể nêu tên của một sĩ quan công an CS lo việc nầy hiện nay đang công tác tại Huế.
Sáng 6-6-1988, cả 2 Linh mục Huế: Vệ và Hoàng theo chăm sóc Ngài đều vắng mặt. Ngài có người em ruột là Nguyễn Thị Thủy, Nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán (quen gọi là Dì Sáu) thường trực bên cạnh Ngài rất chu đáo, cẩn thận, không để Ngài uống thuốc gì mà không kiểm tra chặt chẽ. Nhiều Nữ tu Huế cũng xin được vinh dự chia sẻ gánh nặng túc trực chăm sóc Ngài. Sáng hôm đó, Nữ tu Nguyễn Thị Quí, Dòng Con Ðức Mẹ Vô Nhiễm Huế, xin phép thay Nữ tu Thủy để được săn sóc Ngài. Bà Thủy không chịu, hai người giằng co nhau, nên Ðức Tổng nói: "Thôi em để cho người ta săn sóc một lát, em về nghỉ ngơi đôi chút". Lợi dụng chỗ sơ hở nầy, khoảng từ 10 đến 11g ngày 06-06-1986, một cô y tá đến trao cho Ngài một nắm thuốc. Ngài hỏi cô y tá: "Cô cho tôi uống thuốc gì vậy?". Cô trả lời rất cộc cằn lỗ mãng: "Nhiệm vụ của ông là phải uống những gì chúng tôi điều trị ông, không được hỏi lôi thôi gì cả". Ngài rất phân vân. Cuối cùng Ngài bằng lòng uống. Uống xong, Ngài cảm thấy rất đau đớn. Ngài hỏi cô y tá: "Cô biết tôi mấy giờ nữa thì chết không?". Cô y tá ấy hốt hoảng và run sợ trả lời: "Con lạy cụ, xin cụ tha lỗi cho con! Việc nầy là do cấp trên." Ðức Tổng trả lời: "Không những tôi tha lỗi cho cô mà thôi, tôi còn tha thứ cho cả cấp trên sai cô làm. Tôi tha thứ hết". Sau đó, thấy dì Sáu vào, Ngài nói với Dì Sáu: "Chén đắng Chúa trao anh đã uống xong. Xin trọn theo ý Chúa". Dì Sáu báo cho cô y tá biết Ngài đau đớn lắm. Khoảng 12g30 trưa, cô y tá ấy trở lại cho Ngài uống một liều thuốc khác. Sau đó Ngài bị tiêu chảy liên tục cho đến chết, không cầm lại được. Các nhân chứng hiện nay đều còn sống, một số Nữ tu cần tạm giấu tên một thời gian.
Khoảng 13g ngày 8-6-1988, Ngài bấm chuông gọi cấp cứu, nhưng không có ai đến cả. Vài phút sau, Ngài qua đời tại phòng Ngài nằm điều trị bệnh. Phòng nầy nay đã thay đổi số (lúc đó, người thân không ai nhớ số phòng), chỉ nhớ ở tầng lầu thứ 9, bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Lúc ấy chỉ có Dì Sáu bên cạnh.
Vì vụ việc có nhiều ám muội (lúc Ðức TGM Ðiền qua đời xong, môi miệng Ngài tím bầm, 2 tay cũng tím thẫm), nên có một nữ tu kín đáo theo dõi cô y tá vừa cho Ngài uống thuốc, đã đi theo cô và nghe được câu nói rất quan trọng nầy của cô khi cô gọi điện thoại cho cấp trên: "Vụ việc đã hoàn thành". Nữ tu ấy nay còn sống ở Huế.
Vì thân nhân muốn đưa xác ra Huế, bệnh viện đã mổ lấy bộ ruột của Ngài. Bộ ruột nát bầy nhầy khác thường. Một bác sĩ tên Bình, bệnh viện Chợ Rẫy, trao nó cho thân nhân và đề nghị không nên đưa về nhà nữa. Lúc đó, các thân nhân quá đau lòng, không ai còn bình tĩnh để nhận lãnh cả. Bệnh viện đã đem chôn bộ ruột, nay chưa tìm ra dấu vết. Thật là đáng tiếc!
Sau đó, cô y tá ấy thanh minh rằng cô không biết Vị mà cô cho uống thuốc là ai, và cô đã xin lỗi thân nhân. Cô được gửi đi du học ngay tại Cộng Hòa Dân Chủ Ðức (Ðông Ðức) và theo thời hạn là sẽ trở về Việt Nam tháng 3-1995. Không rõ nay đang ở đâu.
Xác Đức TGM được đưa về Tòa TGM Sài Gòn.
Tin tức về cái chết của Ngài bị bưng bít hoàn toàn. Tất cả các đường điện thoại gọi ra Huế đều bị cắt. Lúc bấy giờ chưa có Fax, chưa có E-mail. Nội bộ Giáo hội chẳng ai có điện thoại di động. Và tất cả các điện tín khẩn gửi ra Huế đều không được trao ngay (người ta chỉ mang đến cho Tòa TGM Huế cả một chồng dày sau khi Ngài đã được an táng). Cho đến nỗi, Giáo phận Huế đã thành lập một phái đoàn vào Sài Gòn gồm tất cả các Linh mục Quản hạt để thăm viếng và tiễn đưa Ðức Tổng đi Rôma. Ðau đớn thay, khi phái đoàn ấy lên xe tại Huế sáng 09-8-1988 để đi thăm Ngài thì thực ra Ngài đã chết hôm trước rồi mà vẫn chưa ai biết ! Khi phái đoàn Gp Huế vào đến Tòa TGM Sài Gòn, hỏi Ðức Tổng Huế ở đâu, thì có nhân viên chỉ 1 phòng. Gp Huế tưởng gặp Ðức Tổng còn sống, không ngờ nhân viên chỉ phòng đang quàn xác Ngài! Các linh mục tại Huế thì chỉ biết tin nhờ Radio Veritas, Philippin. Sau đó mới tổ chức để đưa xác Ngài về Huế. Nhà Nước gây rất nhiều trở ngại để việc đưa xác Ngài về Huế bị chậm lại. Dầu vậy, giáo dân GP Huế quá thương tiếc Ngài đã đón tiếp xác Ngài rất trọng thể. Có công an kín đáo tháp tùng bám sát, có nhân viên của CSVN quay phim đầy đủ.
Xác Ngài được liệm trong hòm bọc kẽm, phần trên có lồng kính để thấy được mặt. Môi ngài tím bầm, mũi trương sình bong bóng máu, làm cho giáo dân hết sức thắc mắc. Mặc dù đã được điểm trang kỹ lưỡng, nhưng môi Ngài vẫn tím bầm! Ðoàn xe tang chở thi hài Ðức Tổng Giám mục về Toà Giám Mục Huế lúc 21g30 ngày 13-06-1988, và sáng 14-06-1988 được đưa lên an vị tại Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam để tín hữu và quan khách kính viếng Ngài suốt ngày đêm. Tối 14-06-1988, vì mặt Ngài biến dạng khác thường, nên ban tẩm liệm đã đậy nắp hòm gỗ che mặt Ngài lại. Sáng 15-6-1988, Thánh lễ Ðồng tế an táng trọng thể đã được Ðức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình, TGM Sài Gòn chủ sự cùng với hầu hết các Giám mục trong HÐGMVN, rất đông Linh mục các Giáo phận của 3 Giáo tỉnh và của Giáo phận Huế. Vì số giáo hữu quá đông, nên mãi đến tối 15-06-1988 mới hạ huyệt được, rồi ban tẩm liệm đã khoan 5 lỗ quanh hòm kẽm để xác dễ phân hủy và an táng Ngài tại phía trái Cung Thánh Nhà Thờ Phủ Cam.
Linh mục Phaolô Nguyễn Kim Bính, Hạt trưởng Thành phố Huế, Chánh sở Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam, trang hoàng mộ Ngài rất lộng lẫy như mộ một Vị Thánh Tử Ðạo. Sau đó, phái đoàn Tòa Thánh thăm Nhà Thờ Phủ Cam, thấy vậy có ý kiến rằng: không nên đi trước ý kiến của Tòa Thánh, nên Lm Kim Bính đã trang hoàng đơn giản như hiện nay: phần mộ sát với nền Nhà Thờ, bên trên có một tấm đá cẩm thạch đen, có khắc vài dòng về Ngài.
Dì Sáu, em ruột Ngài là Nữ tu Mến Thánh Giá Chợ Quán, 118 Trần Bình Trọng, Q. 5, Sài Gòn, Đt: 08.8350482. Nay ở Nhà Hưu dưỡng Dòng MTG Chợ Quán, 30/1 ấp Truông Tre, xã Linh Xuân, Thủ Ðức, Sài Gòn, Ðt 08.8964116.
Còn cô y tá đã cho Ngài uống thuốc là nhân viên cũ của Nữ bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôn thê của Bs Trần Văn Thọ, 117 Cách mạng 1-11 cũ, nay là 1 cơ quan Nhà nước. Cô có làm việc cho Bs Nguyễn Văn Thọ, 99 Võ Tánh, gần cổng xe lửa số 6, đối diện với Nhà thờ Cơ Ðốc Phục Lâm. Cô có 1 người bạn Công giáo, đã trọ học ở 40/5 Ngô Tùng Châu, Gia Ðịnh, đối diện với phòng mạch Bs Hoàng Văn Ðức, khoa trưởng Y khoa Minh Ðức. Lm Ðỗ Quang Biên, dạy trường Trí Ðức do Lm Nguyễn Văn Ngà làm hiệu trưởng, Lm Nguyễn Văn Hòa (nay là GM Nha Trang và đã được bổ nhiệm TGM Phó Hà Nội) làm hiệu phó, biết anh nầy. Anh hiện ở Ðà Lạt.
4. Kết luận:
Liều thuốc Ngài bị buộc uống sáng 6-6-1988 là liều thuốc độc. Liều thuốc Ngài bị uống sau trưa ngày 6-6-1988 là liều thuốc xổ để giúp tẩy bớt các dấu vết chất độc trong ruột, tạo nên cơn tiêu chảy cho đến ngày 8-6-1988 mà bệnh viện cố tình không cho cầm lại, mặc dù Chợ Rẫy là một bệnh viện lớn nhất nhì ở Sài Gòn. Bộ ruột nát bầy nhầy khác thường; miệng Ngài tím bầm, hai bàn tay Ngài cũng bị bầm tím, 2 hốc mắt trái và phải đều bị tím bầm và có 2 bong bóng máu đen sẫm rất lớn tại 2 lỗ mũi, vỡ rồi lại hiện, làm gương mặt Ngài biến dị khác thường, khiến tối 14-6-1988 một giáo hữu trong ban tẩm liệm (nay còn sống, nhưng tạm giấu tên) phải xin Lm Nguyễn Kim Bính cho phép đậy nắp hòm gỗ bên ngoài hòm kẽm, không để khách đến viếng thấy mặt Ngài nữa, vì quá đau lòng và khó nhìn. Kèm theo những diễn biến chung quanh việc Ngài bị buộc uống thuốc sáng 06-06-1988 nói trên, các điều nầy không phải là những bằng chứng Ngài đã thực sự bị đầu độc sao?
Sau đám tang Ðức TGM Ðiền, Công an tỉnh Bình Trị Thiên đến tận trại giam Bình Ðiền, Thừa Thiên, gặp Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải nguyên một buổi sáng, kể lại cái chết và đám tang Ngài, thanh minh về việc CSVN không hề đầu độc Ngài và dặn: "Khi được tự do, anh đừng có tin lời đồn ấy". Sau đó, Cán bộ Giáo dục trại giam lại gặp Lm Giải thêm một buổi thanh minh rằng Ðức TGM Ðiền không hề bị trúng độc, khuyên nên biết giải thích lại cho dân. Năm 1989, khi thả Lm Giải ra khỏi tù, CSVN lại nói với Lm Giải rằng: "CQ không đầu độc TGM Ðiền". Tại sao CSVN lại phải mất công thanh minh nhiều lần vất vả như thế và tại sao lại tự buột miệng phải thanh minh một điều không ai chất vấn cả?
Trong Tuyên ngôn 24-11-1994, tôi ghi rõ: "Ðức TGM Ðiền đã khổ vì đạo và đã chết vì đạo", mà CSVN trong suốt 5 tuần làm việc liên tiếp, không hề dám đả động gì đến chuyện ấy. Vì sự thực là thế!
Chắc chắn một điều: cho dù chưa đưa ra được bằng chứng khoa học 100% rằng Ngài đã bị cho uống thuốc độc đi nữa, vì một đàng bộ ruột Ngài chưa tìm được, một đàng việc khai quật mộ Ðức Cố TGM Ðiền lên là điều chưa thật sự cần thiết phải làm trong lúc nầy, thì việc Ngài suốt 13 năm liên tiếp chịu khổ vì Giáo hội từ 1975 đến khi chết (1988), cũng đủ cho mọi người thành tâm ngay thẳng xác nhận Ngài ÐÃ CHẾT VÌ ÐẠO rồi.
Ngày 26-12-2000, Lễ Thánh Têphanô Tử Ðạo tiên khởi, tôi đã nằm sấp trên mộ Ngài, khóc rất nhiều và cầu nguyện thiết tha khá lâu giờ, xin Ngài phù trợ cho công việc đấu tranh tự do tôn giáo của một nhóm linh mục Huế và tôi được thành công theo ý Chúa. Tôi xin Ngài cầu bàu cùng Chúa cho tôi một dấu chỉ từ trời trong ngày hôm đó. Và tôi đã được nhận lời mau lẹ ngay sáng hôm đó.
Hiện nay, hằng ngày vẫn có giáo hữu thường xuyên đến kính viếng, quỳ cầu nguyện trước mộ Ngài. Ðối với đa số Tín hữu Gp Huế, Ðức cố TGM Ðiền là một Vị Thánh Tử Ðạo.
Trong Sổ Tang của Ðức Cố TGM Ðiền tại Nhà xứ Chính Tòa Phủ Cam, rất nhiều người viết những câu rất ý nghĩa. Ðặc biệt là ngay khi ra khỏi tù, trước khi thăm viếng bất cứ ai, trước hết, Lm Nguyễn Hữu Giải đã đến kính viếng mộ Ðức TGM Ðiền, và ghi vào Sổ Tang nầy: "Xin Chúa cho chúng con được duy trì mãi phong cách Philipphê Nguyễn Kim Ðiền".
Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý, Quản Xứ An Truyền
30-01-2001
Theo bước chân uy dũng của Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền và Cố Linh Mục Bửu Ðồng ngày nay, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, LM Phan Văn Lợi và LM Nguyễn Hữu Giải cùng giáo dân An Truyền, Nguyệt Biều đang tranh đấu đòi Tự Do Tôn Giáo.
24- “Tinh thần Philipphê” hay lời tâm sự với
Đức Cố TGM Nguyễn Kim Điền nhân lễ giỗ lần thứ 14
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, 03-06-2002
Tổng Giáo phận Huế ngày 03-06-2002
Đức Cha kính yêu,
Thế là với hai câu nói, một ngỏ cùng cô y tá đã ép Đức Cha uống liều thuốc độc: “Không những tôi tha lỗi cho cô mà thôi, tôi còn tha thứ cho cả cấp trên sai cô làm, tôi tha thứ hết!”, một ngỏ cùng người nữ tu em ruột: “Chén đắng Chúa trao, anh uống xong rồi!”, Đức Cha đã kết thúc con đường thập giá đời mình tại bệnh viện Chợ Rẫy, chẳng khác chi Thầy Chí Thánh trên đồi Canvê, hoàn tất cuộc sống như một lễ hy sinh tốt đẹp.
Nghe tin Đức Cha qua đời, Đức Gioan-Phaolô II đã gởi lời phân ưu thương tiếc và gọi Đức Cha là “một giám mục dũng cảm”, còn chính quyền Cộng sản, khi được ám sát viên báo cáo: “Vụ việc đã hoàn tất!”, thì hể hả reo vui: “Kẻ thù của chúng ta đã chết rồi!” Theo chúng con nghĩ, đó là hai lời tôn vinh Đức Cha, mỗi lời mỗi cách. Vì sao Đức Cha được Thủ lãnh Giáo hội tặng tước hiệu “Giám mục dũng cảm” còn nhà nước Cộng sản Việt Nam gán danh xưng “Kẻ thù của chế độ” (dẫu tự thân Giáo hội chẳng coi ai như kẻ thù)? Đó là cả một quá trình dài!
Chúng con còn nhớ, trong Hội nghị các Giám Mục toàn cầu năm 1971 tại Rôma, Đức Cha từng tuyên bố một câu nổi tiếng, chấn động cả Hội nghị: “Từ ngàn xưa, trải qua lịch sử Giáo hội, đã có nhiều Giám mục chết để bảo vệ quyền lợi của Giáo hội. Ngày nay đã có một vị Giám mục nào sẵn sàng liều chết để bảo vệ nhân quyền chưa?”. Lời đó đã như nói lên lẽ sống và đường hướng của Đức Cha, đặc biệt sau ngày toàn thể đất nước bị chủ nghĩa Cộng sản nhuộm đỏ.
Những thời gian đầu sau biến động chính trị mở ra chế độ mới này, Đức Cha đã bày tỏ tất cả lòng lạc quan, vì tin vào thiện chí nơi con người, nơi những chủ nhân mới của đất nước. Bởi thế, Đức Cha đã kêu mời tất cả đoàn chiên của Tổng giáo phận hãy vui sống niềm tin, chân thành cộng tác với chính quyền và với toàn dân để tái xây dựng tổ quốc. Đức Cha đã sẵn sàng trao lại cho nhà nước quyền sử dụng hàng trăm trường học, cô nhi viện, trạm xá khắp giáo phận. Rồi hàng ngàn tập sách nhỏ “Tôi vui sống” được in ronéo (5-1976) phát cho các tín hữu ở những vùng kinh tế hẻo lánh xa xôi, thiếu bóng nhà thờ và linh mục, để giúp họ lạc quan sống đạo, đồng thời biết cách đọc kinh cầu nguyện và “cử hành” các nhiệm tích với nhau. Thế nhưng niềm tin đó đã sớm bị bội phản. Hầu như mọi tập sách “Tôi vui sống” đã bị chính quyền địa phương tịch thu đốt sạch. Và chỉ một thời gian ngắn thôi, ngày 15-04-1977, nhân vụ chính quyền thành phố Sài gòn bắt giam 6 nhà lãnh đạo Phật giáo, Đức Cha đã phải nhận định tại trụ sở Mặt Trận Tổ Quốc Bình Trị Thiên: “Sau ngày giải phóng, tôi được nghe chính phủ tuyên bố về chính sách tự do tín ngưỡng, tôi rất sung sướng và phấn khởi. Sự hăng say phấn khởi này được biểu lộ trong những lời phát biểu của tôi trước đây. Nhưng hai năm đã qua và tôi không còn cảm thấy sung sướng nữa, vì thực ra tự do tôn giáo không có.... Suốt trong hai năm qua... người dân Công Giáo không mấy thỏa mãn một tí nào. Họ làm gì, họ ở đâu, họ cũng cảm thấy bị chèn ép, bị lấn lướt”. Đức Cha cũng nhân dịp này bênh vực cho tôn giáo bạn: “Theo thiển kiến của chúng tôi, nếu thực ra có những cộng đồng tôn giáo gây rối loạn chăng nữa, chỉ vì không có tự do tín ngưỡng. Thẳng thắn mà nói, tôi không thỏa mãn với chính phủ về chính sách tự do tín ngưỡng”. Khoảng tuần sau, Đức Cha cũng đọc một bài phát biểu tương tự, làm nức lòng tất cả Giáo phận và cả đồng bào bên lương.
Sau hai bài này, chính quyền đã mở một chiến dịch tấn công Đức Cha. Họ “mời” các linh mục, tu sĩ, giáo dân đến “học tập” với nhiều mánh khóe hết sức bất lương: sáng hôm sau họp tối hôm nay mới gởi giấy mời (để người ta không kịp suy nghĩ và đi hỏi ý kiến), đãi ăn trưa thật thịnh soạn để tham dự viên phát biểu cho xuôi tai, chọn lọc kỹ lưỡng người phát biểu, lựa toàn những tay cò mồi, không cho nghe nguyên văn hai bài phát biểu mà chỉ cắt ra một vài câu rồi bắt người ta phê bình kết tội. Nhiều người vội vã lên án Đức Cha, sau đó hối hận tìm tới xin lỗi và Đức Cha đã sẵn sàng tha thứ.
Tuy cố gắng bày tỏ thiện chí đối thoại lẫn cộng tác, Đức Cha vẫn cương quyết bảo vệ sự độc lập của Giáo hội, duy trì quyền tự do của tôn giáo. Chỉ vài tháng sau ngày đất nước đổi chủ, Đức Cha đã tấn phong hai tân linh mục, năm sau lại tấn phong thêm bốn mà chỉ thông báo chứ không xin phép chính quyền. Và đây là hai lần duy nhất Đức Cha truyền chức trong xã hội mới. Phải đợi đến 18 năm sau (1994) mới có lại một cuộc tấn phong (với “giấy phép” nghiêm chỉnh!).
Đức Cha quy tụ quanh mình những linh mục có tinh thần Giáo hội đích thực. Thời ấy, giữa nhân viên nhà nước Cộng sản Huế truyền nhau kiểu nói “Tuệ Quý Lý Giải!”. Đây là danh hiệu gán cho một bộ tứ bị họ liệt vào hạng ngoan cố, cứng đầu. Điều này cũng dễ hiểu: Hai cha Nguyễn Hữu Giải và Hồ Văn Quý đã không bỏ giáo phận trong những ngày loạn lạc tháng 4-75, cha Nguyễn Văn Lý thì đã tức tốc từ Sài gòn ra Huế, cha Nguyễn Phùng Tuệ, đang du học ở Rôma, cũng xin thi sớm để kịp về Việt Nam. Bốn vị này đều hiểu nguy cơ Giáo hội sắp gặp phải và đã luôn có lập trường quyết liệt, thẳng thắn. Đức Cha đã đặt cha Quý làm giám đốc Đại chủng viện, cha Giải làm giám đốc Tiểu chủng viện, cha Tuệ làm bề trên các dòng nữ còn cha Lý làm thư ký riêng cho mình. Bốn vị này sau đó còn lập nhiều thành tích trong công cuộc bảo vệ sự độc lập của Giáo hội, như Đức Cha và mọi người đều thấy rõ.
Năm 1977, tuy chưa được Nhà nước “cho phép” mở lại, ĐCV Huế vẫn quy tụ được 45 chủng sinh gốc giáo phận, vốn đã học ở đây từ trước 1975. Chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên muốn dựa vào nghị quyết 297/CP vừa mới ban hành để thanh lọc một số đại chủng sinh khỏi nhà trường. Họ thông báo cho Đức Cha và ĐC Phó Têphanô ý định này và mời hai vị tới làm việc, để cùng nhà nước xem xét chủng sinh nào có bản thân hoặc gia đình “không được tốt” mà thải loại.
Vì từ khước nguyên tắc “giáo quyền và chính quyền cùng xét duyệt tư cách chủng sinh”, Đức Cha và ĐC Phó đã nhất định không đi làm việc. Thấy thế, CS đã đơn phương hành động, ngang nhiên trục xuất 2/5 số chủng sinh (tức 18/45) tháng 5-1978. Số bị trục xuất này phần nhiều là lớp lớn (trong đó có con), đã mãn hoặc gần mãn chương trình, khó uốn nắn lại, có đầu óc “bướng bỉnh”. Sau đấy CS còn lếu láo bắn tiếng: nếu như hai Giám mục cùng bàn thảo với chính quyền thì con số bị loại đã ít hơn nhiều.
Khi ấy chúng con, tuy tức tưởi vì bị Nhà nước trục xuất thô bạo, vẫn cảm thấy vui lòng vì Đức Cha, chủ chăn của chúng con, đã can đảm đấu tranh bảo vệ quyền độc lập và tự trị của Giáo hội, không chủ trương đối thoại theo kiểu mặc cả đổi chác với những quyền lợi trần thế do chính quyền Cộng sản thí cho.
Cuối năm sau (12-1979), nhà nước lại tiến hành việc cưỡng chiếm TCV Hoan Thiện. Họ lần lượt trục xuất 114 tiểu chủng sinh đã tốt nghiệp cấp III, tống khứ 3 nữ tu Mến Thánh Giá giúp việc về dòng và 3 linh mục phụ trách chủng sinh về Nhà Chung Giáo phận. Đức Cha lại phản kháng bằng cách không trao giấy chủ quyền nhà, đồng thời ra lệnh cho giáo phận để tang TCV bằng cách dẹp bỏ trang hoàng bên ngoài các nhà thờ dịp lễ Giáng sinh năm đó.
Đối với tay chân Nhà nước, Đức Cha cũng đối xử theo tinh thần độc lập tương tự. Ngay sau biến cố 75, nhóm Công Giáo Đoàn Kết tại Sài gòn đã tức tốc gởi người ra Huế, gặp Đức Cha và xin “tự nguyện làm cố vấn” để “giúp Đức Cha cùng Giáo phận thích nghi với tình hình mới, sống cái gọi là tinh thần Công giáo và Dân tộc”. Đức Cha đã thẳng thắn khước từ. Chính quyền và Ủy ban Đoàn Kết sau đó tìm mọi cách thiết lập cơ cấu công cụ này tại Huế, đưa vài giáo sĩ vào Mặt trận, Hội đồng Nhân dân và Quốc hội, nhưng đều thất bại thê thảm. Phần Đức Cha thì đã một lần cách chức chính tổng đại diện của mình vì vị này đã tự tiện đi Hà Nội họp Đại hội Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước. Đức Cha cũng không chấp nhận cho một linh mục quá thân với chính quyền được dạy ĐCV (dù vị này tha thiết van xin). Sau đó ngài còn bị Đức Cha “treo chén” vì tham gia Mặt trận Tổ quốc và có nhiều hành vi khác tiếp tay cho CS. Đây là lần duy nhất Đức Cha huyền chức một linh mục giáo phận. Cám ơn Chúa, biện pháp mạnh tay này đã giúp vị linh mục tỉnh ngộ trở về với cương vị đích thực. Đến tháng 10-1983, Đức Cha lại bồi thêm một phát vào Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu nước khi gởi cho Chủ tịch Ủy ban là Linh mục Nguyễn Thế Vịnh một lá thư nói lên lập trường “hiệp nhất” với Toà thánh Roma và cảnh giác mọi người về âm mưu của CS định lập Giáo Hội ly khai tự trị.
Trong thời gian này, tại giáo xứ Đốc Sơ, cha Nguyễn Văn Lý (bị chính quyền buộc thôi chức thư ký Tòa Giám mục sau vụ phổ biến hai bài phát biểu) đã gởi 7 lá thư lên Chính quyền tỉnh, yêu cầu họ tôn trọng tự do tôn giáo. Cha Lý còn dùng loa phóng thanh để đọc nội dung các bức thư này cho giáo hữu và đồng bào cùng nghe. Ngày 17-1-1983, chính quyền tỉnh ép Đức Cha bãi nhiệm cha Lý, bắt vị linh mục đấu tranh can trường này phải trở về nhà cha mẹ tại Quảng Biên, Đồng Nai. Đức Cha đã phản đối bằng câu nói nổi tiếng : “Chẳng lẽ tôi lại tự chặt chân tay của mình?” Thế là ngày 18-5-1983, một lực lượng Công an hùng hậu đã xông vào nhà xứ bắt cha Lý đem đi. Đến ngày 13-12, CS mở phiên tòa, tuyên án cha Lý 10 năm tù và 4 năm quản chế, đồng thời buộc tội Đức Cha là đầu rắn cần phải đập, là đồng lõa cần phải trị.
Nhưng là mục tử tốt lành đích thực, Đức Cha đâu có im lặng ngồi yên, điềm nhiên tọa thị. Ngày 11-4-1984, Đức Cha đã gởi một kháng thư lên ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Quốc Hội CS, phản đối việc Chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên đã hành xử bất công với cha Lý và với Đức Cha, vi phạm hiến pháp pháp luật cách nặng nề.
Trước đó, kể từ hôm 5-4-1984, suốt 120 ngày, Đức Cha đã bị Công an tỉnh “mời” đi “làm việc” đồng thời bị cấm cản ra khỏi chu vi thành phố Huế. Giáo phận còn nhớ mỗi khi đi “làm việc” về, Đức Cha lại “họp báo”, công khai hóa mọi chuyện tại phòng thẩm vấn mà Công an muốn Đức Cha giấu nhẹm với cớ “bí mật quốc gia”. Nhờ vậy Đức Cha được giải toả tâm trí, trụ vững đến cuối thời gian thẩm vấn, anh em linh mục cũng được học thêm kinh nghiệm đương đầu với cường quyền...
Nhưng họa vô đơn chí! Đức Cha đã phải gánh thêm hai thập giá trong thời gian này, đó là sự từ chức của người cộng sự, Giám mục Phó Têphanô, khiến Đức Cha trở thành đơn thương độc mã. Đến tháng 7-1985, một nữ tu dòng Mến Thánh Giá Huế bị bắt quả tang mang thư từ và tài liệu của Đức Cha vào Sài gòn. Chính quyền CS Bình Trị Thiên đã kết án chị nữ tu tội “làm gián điệp” để hòng khủng bố tinh thần Đức Cha cùng toàn thể giáo phận. Thế nhưng làm sao bẻ gãy ý chí Đức Cha nổi. Lợi dụng dịp này, ngày 19-10-1985, Đức Cha đã gửi cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân Huế một bức thư, trong đó Đức Cha nhắc lại câu nói của mình năm 1971: “Từ ngàn xưa, trải qua lịch sử Giáo hội, đã có nhiều Giám mục chết để bảo vệ quyền lợi của Giáo hội. Ngày nay đã có một vị Giám mục nào sẵn sàng liều chết để bảo vệ nhân quyền chưa?” Rồi Đức Cha áp dụng ngay cho bản thân: “Ngày hôm nay tôi là người được diễm phúc ấy: Thiên Chúa đã kêu gọi tôi để chịu tù tội và chết chóc vì bảo vệ nhân quyền và công lý”.
Qua lá thư, Đức Cha cũng mạnh mẽ kết án Nhà nước CS can thiệp thô bạo vào nội bộ Giáo hội, đồng thời thẳng thắn tuyên xưng mình “có bổn phận tuân theo luật Thiên Chúa thay vì luật người đời”. Đức Cha cũng như lường được số phận của bản thân: “Hậu quả chắc chắn sẽ là tù tội và chết chóc. Các hậu quả ấy, kẻ chăn chiên của anh chị em đã sẵn sàng chấp nhận. Tôi vui mừng đón nhận như một phần thưởng do Thiên Chúa gởi đến sau 25 năm làm Giám mục mà 22 năm coi sóc Giáo phận Huế”. Rồi Đức Cha kết thúc: “Trong giờ phút này, thưa anh chị em thân mến, tôi chỉ xin anh chị em một điều : Cùng với tôi, hãy cám ơn Thiên Chúa và sốt sắng cầu nguyện xin cho tôi được tuyệt đối trung thành với Thiên Chúa và Giáo hội cho đến hơi thở cuối cùng”. Đúng là “di chúc tinh thần” của một mục tử đích thực, tốt lành, hy sinh mạng sống vì đàn chiên.
Và quả thật như thế. Ngày 8-11-1985, cảm thấy cái chết có thể đến với mình bất cứ lúc nào, Đức Cha viết di chúc ngắn để lại cho các Linh mục giáo phận: “Khuyên các cha hãy trung thành với Hội Thánh và đoàn kết với nhau, sống trọn vẹn bổn phận của chủ chăn nhân hiền...”
Dầu thế, để hoàn tất đến cùng chức vụ lãnh đạo đoàn chiên, ngôn sứ sự thật, ngày 25-3- 1988, Đức Cha còn viết một bức thư khẳng khái gởi cho tân tổng bí thư CS Nguyễn Văn Linh, yêu cầu ông xóa bỏ lệnh quản chế, phục hồi quyền công dân cho Đức Cha, để Đức Cha tự do đi lại thi hành nhiệm vụ Tổng Giám Mục. Có ai thấy Đức Cha quỵ lụy, xin xỏ bao giờ!
Thế nhưng, cây thánh giá vốn nặng vì trách nhiệm mục tử, càng nặng hơn vì sự thù ghét phá phách của bạo quyền vô thần, đã khiến Đức Cha chuốc vào bản thân đủ thứ bệnh và đến cuối tháng 5-1988, Đức Cha đau nặng, phải vào bệnh viện Chợ Rẫy để xét nghiệm và làm hồ sơ xin đi Roma. Tòa Thánh muốn Đức Cha qua Giáo đô chữa bệnh đồng thời có dịp trình bày với Đức Giáo Hoàng tình hình Giáo Phận như một chứng nhân.
Tuy nhiên, ý Chúa lại muốn Đức Cha trở thành chứng nhân qua cái chết tử đạo nên đã để cho thế gian thực hiện được mưu đồ. Đức Cha đã giã biệt cõi đời với lời tha thứ cho các đao phủ, lời vâng phục phó thác cho Thiên Chúa và đã trút hơi thở cuối cùng trong cô đơn. Ôi! Sao mà giống Tôn Sư Nhân Lành vậy Đức Cha ơi!
Giờ đây Đức Cha đã khuất bóng, khuất bóng 14 năm rồi. Nhưng làm sao chúng con quên được những lời nói còn âm vang mãi trong lịch sử Giáo hội và trong lòng người: “Từ ngàn xưa, trải qua lịch sử Giáo hội, đã có nhiều Giám mục chết để bảo vệ quyền lợi của Giáo hội. Ngày nay đã có một vị Giám mục nào sẵn sàng liều chết để bảo vệ nhân quyền chưa?”. Làm sao chúng con quên được kiểu nói ví von Đức Cha dùng: “Các ông châm ngòi nhưng bảo pháo đừng nổ” khi Đức Cha phê bình việc Nhà nước CS đưa ra chính sách tôn giáo rất đầy đủ trong các Nghị quyết Nghị định, song thực tế lại bị chi phối bởi các khẩu lệnh của nhân viên chính quyền (Bài phát biểu 15-04-1977), khi Đức Cha vạch trần mánh khoé của các điều khoản trong Nghị định: cho “được quyền” ở đầu khoản nhưng bắt “xin phép” ở cuối khoản, khi Đức Cha tố cáo chính quyền CS luôn nuôi ý đồ tiêu diệt các giáo hội (công cụ hóa cũng là tiêu diệt) nhưng hễ mở miệng là nói “tôn trọng tự do tôn giáo”! Làm sao chúng con quên được câu chuyện Đức Cha kể sau một chuyến gặp gỡ Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II. Đáp lại câu Đức Cha hỏi: “Đức Thánh Cha nhận định thế nào về Cộng sản?”, vị Thủ lãnh Giáo hội người Ba Lan dày kinh nghiệm đã trả lời vắn gọn bằng tiếng Pháp: “Mensonge! Rien que mensonge!” (Dối trá! Chỉ là dối trá!).
Hiện nay, Đức Cha đang nằm trong Nhà thờ Chánh tòa Phủ Cam, bên cánh trái, đối diện với bàn thờ vị Tử đạo của Giáo xứ, bên cánh phải, thánh Phaolô Tống Viết Bường. Chúng con hy vọng và tin chắc một ngày kia, ngôi mộ của Đức Cha sẽ biến thành bàn thờ. Trong lòng đất giáo xứ Phủ Cam cũng đang an táng thi hài một vị tử đạo khác, thánh Isiđôrô Gagelin Kính, Linh mục Hội Thừa sai Paris. Vì nghi ngại môn đệ Chúa Kitô này sẽ sống lại sau ba ngày, vua Minh Mạng đã truyền khai quật mồ của ngài, khám nghiệm kỹ lưỡng, rồi mới yên lòng cho chôn lại. Người cộng sản hiện nay cũng đang có mối lo sợ đó. Họ sợ tinh thần của Đức Cha sẽ sống lại. Mà quả thật nó đã sống lại rồi, chúng con xin được phép gọi là “Tinh thần Philipphê” Đức Cha nhé. Tinh thần đó đã sống lại và sống mạnh nơi môn đệ truyền thừa của Đức Cha là cha Tađêô Nguyễn Văn Lý, vị thư ký đáng tin và trung dũng thuở nào, nơi tất cả những kitô hữu đang muốn đòi lại tự do cho con người và con Chúa, đòi lại các quyền cho dân tộc và Giáo hội.
Xin Đức Cha, từ bên ngai tòa của Thiên Chúa, ban phép lành cho cho Giáo hội Việt Nam, Giáo phận Huế và cho tất cả chúng con. Cảm tạ Đức Cha nhiều.
Viết tại Huế, tuần lễ mừng nhiều vị tử đạo và chủ chăn : 1-5/6/2002
Một người con của Giáo phận Huế,
Một thành viên Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền,
Một kẻ mong ước trở nên môn đệ truyền thừa của Đức Cha.
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi
25- Cố Tổng Giám Mục Huế Nguyễn Kim Điền
sống là bậc Đại sĩ, chết là đấng Tử đạo
Lý Đại Nguyên, 06-2002
Ngày 8-6-2002, Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại California, đã tổ chức Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền, để nhắc nhở cho những ngừơi đang sống yên vui đầy đủ tại Hoa Kỳ và khắp nơi trên Thế giới rằng: Quê hương Việt Nam mình: Nhân quyền còn bị chà đạp, Tôn giáo còn bị bách hại, Dân chúng còn bị đói khổ. Những nhà lãnh đạo Tôn giáo còn bị tù đày. Các vị lãnh tụ Tôn giáo, mà Cộng Sản sợ hãi như Tổng Giám Mục Huế, Nguyễn Kim Điền, như Hoà Thượng Cố Vấn Viện Hoá Đạo GHPGVNTN, Thích Thiện Minh, thì bằng mọi cách chúng phải xuống tay giết hại.
Khi Cộng Sản cướp được Miền Nam thì việc phải làm ngay là chúng mượn tay một số Giáo gian của Thiên Chúa Giáo, biểu tình đòi trục xuất Đức Khâm sứ của Tòa Thánh Vatican ra khỏi Việt Nam, nhằm kích động, làm lộ mặt sự đối kháng của những người Thiên Chúa Giáo chưa chịu khuất phục. Đã dẫn tới biến cố đẫm máu tại nhà thờ Vinh Sơn Sài Gòn. Đây là một màn răn đe cần thiết của một chính quyền độc tài, chuyên chính, khủng bố.
Cộng Sản đạt được kết quả là: Giáo Hội cam chịu. Dân chúng đứng nhìn. Thế giới làm ngơ. Thế là tạm yên mặt Thiên Chúa Giáo.
Năm 1977, chúng tiến đánh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, một tôn giáo lớn của Quốc Dân, đã phục hoạt bằng công sức đấu tranh của chính mình. Sau khi bắt 6 vị lãnh đạo của Giáo Hội, Cộng Sản mở ra các cuộc họp nhân dân để kết tội phản động cho Phật Giáo.
Tại cuộc họp ở Huế do Mặt Trận Tổ Quốc triệu tập ngày 19-04-1977, Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền, là người Việt Nam đầu tiên trong hoàn cảnh Cộng Sản vừa chiến thắng Miền Nam, đang vênh vang tự đắc, coi toàn dân là kẻ phải bị tẩy não, mà đã dũng cảm công khai lên tiếng phản bác lời buộc tội của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đối với Phật Giáo.
Ngay trong cuộc họp, Ngài nói: “Chúng tôi chắc chắn là không một ai trong buổi họp này có thể chấp nhận hành động như được diễn tả trong bản thông cáo. Chúng ta không thể không đau khổ khi những việc như vậy xẩy ra cho những người có tín ngưỡng”. Ngài tuyên bố: “Thẳng thắn mà nói, tôi không thỏa mãn với chính phủ về chính sách tự do tín ngưỡng”.
Tóm lại hai điều trọng yếu là: Tự do Tôn giáo không có, Nhân Quyền không được tôn trọng. Với thái độ bình thản và hiên ngang của bậc Đại Sĩ, làm chứng cho sự thật, Giám Mục Nguyễn Kim Điền đã bị Cộng Sản thường xuyên sách nhiễu gọi đi “làm việc” tại sở Công An Bình Trị Thiên, khoảng 120 ngày, về đề tài Ngài chống lại Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước Việt Nam do Cộng Sản lãnh đạo.
Ngài khẳng định, đó là Ngài tuân giữ luật của Giáo Hội “cấm các Giáo Sĩ, các Linh Mục làm chính trị, không được thành lập và tham gia các Hiệp Hội có tính cách nghiệp đoàn chính trị”. Cộng Sản cho như vậy là vi phạm luật pháp, vì đi ngược với chính sách của Nhà Nước. Ngài ung dung nhìn nhận: “Tôi xác định khi luật pháp trần thế nghịch với luật Thiên Chúa và Hội Thánh thì cũng như các Thánh Tông Đồ xưa và các Thánh Tử Đạo của mọi thế hệ, tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Thái độ chấp nhận Tử Đạo của Ngài đã rõ.
Cộng Sản bắt đầu thẳng tay đàn áp Giám Mục Nguyễn Kim Điền và Giáo phận Huế. Năm 1983, bắt và kết án 10 năm tù thư ký của Ngài, Linh Mục Nguyễn Văn Lý và buộc Tổng Giám Mục tội đồng lõa. Cuối cùng vào tháng 5-1988, Ngài lâm trọng bệnh phải nằm tại bệnh viện Chợ Rẫy Sài Gòn, thì bị Cộng Sản sai y tá đầu độc Ngài. Chính người đó đã thú nhận với Ngài như vậy.
Ngài đã uống xong chén đắng của trần gian. Đúng là Ngài đã tự trả lời cho câu hỏi lịch sử, mà Ngài đã nêu ra trong Hội Nghị Giám Mục Toàn Cầu tại Roma năm 1971: “Từ ngàn xưa, trải qua lịch sử Giáo Hội đã có nhiều Giám Mục chết để bảo vệ quyền lợi của Giáo Hội. Ngày nay đã có vị Giám Mục nào sẵn sàng liều chết để bảo vệ Nhân Quyền chưa?”
Câu hỏi thật vĩ đại được đặt ra với Giáo Hội, sự trả lời lại càng vĩ đại hơn, bằng thực tế dứt khoát lấy sự sống và cái chết của chính mình để bảo vệ Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo, đã khiến cho năm chục ngàn Dân chúng không phân biệt tôn giáo tại Huế, cùng về dự đám tang của Ngài. Khiến Giáo Hoàng John Paul II, khi hay tin Ngài chết, đã gọi Ngài là một “Giám Mục Dũng Cảm”.
Phải chăng chính hành động quả cảm của bậc Đại Sĩ Nguyễn Kim Điền, cũng là một trong những nguyên cớ để cho vị Giáo Hoàng đương kim sáng suốt có những quyết định dứt khoát long trời lở đất, là thay đổi chính sách của Giáo Hội Hoàn Vũ hiện hành. Từ sự nhẫn nhục để tồn tại thành trực diện can dự vào cuộc vận động giải thoát cho Dân Tộc Ba Lan quê hương của Giáo Hoàng, góp phần tích cực trong cuộc giải thể Chế độ Cộng Sản tại Đông Âu và Thế Giới?
Phải công nhận sự nhẫn nhục chịu đựng để tồn tại, rồi phát triển của Thiên Chúa Giáo thời bắt đầu truyền đạo tại Đế Quốc La Mã xưa đã thành công, vì chính các Hoàng Đế cấm đạo đó, trong tâm thức họ cũng là những người hữu thần, chỉ khôg cùng một niềm tin. Cuối cùng họ thấy rằng: Toàn thể dân chúng trong Đế Quốc đã tin theo Thiên Chúa Giáo là tôn giáo của toàn Đế Quốc thì mới củng cố được quyền lực của Hoàng Đế.
Còn với Cộng Sản ngày nay thì tư tưởng của họ là Vô Thần. Chủ trương của họ là phải diệt Tôn Giáo, để giữ địa vị toàn thống. Vậy nhẫn nhục là tự chấp nhận để cho chúng tiêu diệt. Đại sĩ Kim Điền đã đúng, Giáo Hoàng John Paul II lại càng đúng hơn, khi quyết định can dự vào vấn đề Ba Lan.
Nhất là mới đây Giáo Hoàng đã trực tiếp ban giáo chỉ cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tại La Mã, rằng “Giáo Hội Việt Nam phải giữ tư thế độc lập với thế lực cầm quyền”. Trong hoàn cảnh của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam hiện nay, muốn Giáo Hội độc lập với Cộng Sản, thì không có con đường nào khác, ngoài việc nói lên sự thật như Đại Sĩ Kim Điền, và trực diện đấu tranh như LM Nguyễn Văn Lý đã chọn: Tự do Tôn giáo hay là Chết.
Trong sự chết ấy, thấy được sự sống vĩnh hằng, và sự Giáo Hội Thiên Chúa Giáo cùng tồn tại phát triển với các Tôn Giáo khác trong lòng Dân Tộc Việt Nam.
26- Vị Giám Mục Uy Dũng
Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền
Nguyễn An Quý, 08-06-2003
“Từ ngàn xưa, trải qua lịch sử Giáo Hội, đã có nhiều vị chết để bảo vệ quyền lợi của Giáo Hội. Ngày nay đã có một vị Giám mục nào sẳn sàng liều chết để bảo vệ Nhân quyền chưa? Ngày hôm nay tôi là người được diễm phúc ấy: Thiên Chúa đã gọi tôi để chịu tù tội và chết chóc vì bảo vệ Nhân Quyền và Công Lý” (Trích thư luân lưu của Đức Cha Điền gởi TGP Huế năm 1985)
Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã gọi Cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền là “Vị Giám mục uy dũng” khi Đức Giám Mục đến Rome tham dự cuộc họp Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới năm 1980.
Đức Giám mục Nguyễn Kim Điền được Toà Thánh bổ nhiệm làm Giám Quản TGP Huế từ năm 1964, đến năm 1968 mới chính thức giữ chức Tổng Giám Mục. Trong suốt thời gian giữ nhiệm vụ chủ chăn tại TGP Huế, ngài đã trải qua những ngày đầy giông tố như: biến cố Tết Mậu Thân với hàng ngàn giáo dân bị cộng sản sát hại, một số Linh mục bị chôn sống gồm có Lm Bửu Đồng (Chánh xứ An Truyền), Lm Guy và Lm Urbain dòng Biển Đức Thiên An, Lm Cha Cressonnier Hội Thừa sai Paris. Mùa hè Đỏ lửa năm 1972 với khu Thánh địa La Vang trở thành bình địa, thị xã Quảng Trị đổ nát kéo theo nhiều Thánh đường của các giáo xứ cũng tiêu tan, rồi đến mùa xuân 1975, đất Thần Kinh bỏ ngỏ để cộng quân tiến chiếm thành phố Huế ngày 26-3-1975. Lúc bấy giờ Giáo phận Huế chỉ còn lại 6 linh mục. Chiếm được Huế, Mặt trận Tổ Quốc tại Huế có mời ngài tham dự cuộc mit-tinh chào mừng ngày "Huế Giải Phóng", ngài đã bày tỏ niềm vui trong an phận khi một phần đất nước (Huế) đã được hòa bình, hết chiến tranh, hết cảnh nồi da xáo thịt thì cũng tạm ổn. Ngài phổ biến tập sách "Tôi Vui Sống" để mọi tín hữu thuộc Giáo phận cùng lấy đó làm niềm vui cho cuộc sống Đức Tin mà ngài biết là sẽ có nhiều khó khăn bao trùm đời sống người Kitô hữu. Với tính vị tha, ngài luôn chủ trương sống "Mình vì Mọi người" và luôn tôn trọng mọi người trong tinh thần Đức Ái, cho nên Ngài cũng đã từng bị nhiều tạp chí thế giới đặt cho một cái tên đặc biệt: "Giám mục Đỏ" trong dịp ngài đến Rome vào năm 1974, khi họ hỏi ngài nghĩ gì về cọng sản thì ngài đã nói: "Cộng sản cũng là người anh em của tôi".
Ngài tuyệt đối trung thành với Giáo hội Hoàn vũ dưới sự lãnh đạo của Đức Thánh Cha cho nên ngài luôn luôn bảo vệ nền Độc lập và Tự chủ của Giáo Hội. Muốn thực hiện điều này, đương nhiên phải dấn thân vào cuộc tranh đấu đòi tự do tôn giáo khi phải sống dưới chế độ cộng sản.
Cuộc tranh đấu của ngài không phải có ngay từ khi chạm trán với cộng sản vào những ngày mà chế độ này bắt đầu nắm quyền thống trị tại Huế cũng như khi chiếm trọn miền Nam Việt Nam. Nó được phát sinh từ chuyến ngài đi Hà Nội vào tháng 9 năm 1975 để chào thăm vị Hồng y tiên khởi của Giáo Hội Việt Nam: Đức Hồng y Trịnh như Khuê. Trong chuyến đi Bắc lần này, ngài đã cảm nhận rằng Giáo Hội bị mất hết Tự do khi phải sống dưới chế độ Vô thần.
Sau 30-4-1975, các linh mục Huế chạy giặc trở về, bị nhà nước gây khó khăn trong việc nhập hộ khẩu cho nên TGP Huế đã thiếu linh mục trầm trọng. Mặt khác, để khống chế việc đào tạo linh mục, cộng sản Huế đã dùng kế sách "mượn Giám mục để loại chủng sinh". Năm 1977 chúng bày trò mời Đức Cha Điền và Đức Cha Thể (Giám mục phó) tham dự một buổi họp của Ban Tôn giáo để cứu xét các chủng sinh tại Đại Chủng Viện ai được ở lại và ai sẽ bị loại vì lý lịch. Đức Cha Điền đã từ chối (dĩ nhiên có luôn Đức Cha Thể) không tham dự buổi duyệt xét này vì lẽ đây không phải quyền và nhiệm vụ của nhà nước. Không tham dự buổi duyệt xét để phản đối việc nhà nước xâm phạm quyền Tự chủ của Giáo Hội. Sau đó, nhà cầm quyền Huế đã tự động đuổi hầu hết các thầy ra khỏi Đại Chủng Viện Huế qua nhiều đợt thanh lọc. Cuối cùng chỉ có 12 thầy được ở lại trong tình trạng mỏi mòn lo âu, nhưng các thầy vẫn bền tâm vững chí cho đến năm 1994 thì mới lần lược được thụ phong linh mục.
Sau khi miền Nam sụp đổ, tất cả mọi cơ sở giáo dục như các trường Trung Tiểu học Công giáo, các cơ quan từ thiện, các cơ sở sản xuất và nhiều tài sản của Giáo phận Huế đều bị nhà nước chiếm đọat. Các Dòng tu bị kiểm soát gắt gao, công an thường xuyên kiểm tra hộ khẩu. Nhiều Thánh đường bị cấm làm lễ, hoặc bị nhà nước trưng thu làm kho chứa hàng cho các hợp tác xã. Việc phân biệt đối xử được thực hiện với người Công giáo, đặc biệt là sinh viên học sinh, qua hình thức công an tra cứu lý lịch. Hễ sinh viên học sinh nào mang lý lịch công giáo thì được “ưu tiên” loại trước trong mỗi kỳ thi cử hay không được thi vào Đại học.
Hiện tượng đàn áp đầy bất công và trắng trợn này đã khiến cho Đức TGM Nguyễn Kim Điền có một ý chí sắt đá, một lập trường dứt khoát, không nhân nhượng, không đối thoại. Cuộc tranh đấu bắt đầu bằng bài phát biểu vào ngày 15-04-1977 tại Hội nghị do Mặt trận Tổ Quốc Huế tổ chức, trong đó ngài được mời tham dự, có cả Thượng tọa Thích Thanh Trí đại diện Phật Giáo tại Huế. (Bài phát biểu này hiện được lưu trữ tại Mạng lưới Tuổi trẻ Lên đường).
Nên nhớ rằng trong những năm đầu, khi miền Nam mới lọt vào tay cộng sản, mọi người dân miền Nam đều khiếp sợ khi thấy bóng dáng người cán bộ cộng sản, kể cả các cán bộ xã ấp, công an hay quân đội. Chỉ có vị Giám mục uy dũng Nguyễn Kim Điền mới dám nói thẳng, nói thật và nói công khai trong một hội nghị đầy uy hiếp của nhà cầm quyền độc tài đảng trị tại Huế. Hai điểm chính mà ngài đã nêu trong bài phát biểu là:
- Tự do tôn giáo chưa có.
- Bất bình đẳng quyền công dân.
Tưởng nên nhắc lại, khi đất nước mới lọt vào tay cọng sản, Đức Cha đã cổ vũ Giáo dân của ngài qua tập sách "Tôi Vui Sống", nhưng qua hai năm không còn vui sống được nữa nên buộc lòng ngài phải lên tiếng đòi tự do tôn giáo. Bởi vậy cuộc tranh đấu của ngài là chính đáng vì tôn giáo bị đàn áp chứ không phải tranh đấu vì quá khích. (Nghị định Đóng khung Tôn giáo 297/CP được ra đời vào năm này, 1977).
Sau phần mở đầu, Đức Cha đã đi thẳng vào vấn đề. Ngài nói trước Hội nghị: "Chính phủ đã nhiều lần nói: Nếu có những gì làm cho chúng ta không thỏa mãn, nên báo cáo với chính quyền chứ đừng có quảng bá giữa quần chúng. Do đó hôm nay tôi muốn nói với tất cả thành tâm thiện chí và hy vọng với thiện chí này, Mặt trận Tổ quốc sẽ không gán cho tôi nhãn hiệu "Phản động". Tôi ghét và sợ danh từ này lắm và không bao giờ muốn gánh nó vào người”.
Về Tự do Tín ngưỡng, ngài nói: "Sau ngày Giải phóng, tôi được nghe chính phủ tuyên bố về chính sách tự do tín ngưởng, tôi rất sung sướng và phấn khởi. Sự hăng say phấn khởi này được biểu lộ trong những lời phát biểu của tôi trước đây. Nhưng hai năm đã qua và tôi không còn cảm thấy sung sướng nữa, vì thực sự Tự do Tôn giáo không có”.
Về bất bình đẳng quyền công dân, ngài nói: "Suốt hai năm qua, xin quý vị cho tôi được phát biểu ý kiến một cách ngay thẳng: người dân Công giáo không mấy thỏa mãn một tí nào. Họ làm gì, họ ở đâu, họ cũng cảm thấy bị chèn ép, bị lấn lướt” (có phần chứng minh), và ngài nói tiếp: "Trong phiên họp Quốc Hội tại thành phố HCM, một Ủy viên trong ban chấp hành Trung ương Đảng đã đưa ra ý kiến là những người Công giáo chỉ được xem là Công dân hạng hai!!!”
Bài phát biểu này đã được linh mục Hồ Văn Quý và linh mục Nguyễn Văn Lý đem tất cả công sức ngồi đánh máy hằng trăm bản vừa phổ biến tại Huế, vừa chuyển vào Sài Gòn và tìm cách chuyển ra nước ngoài. Việc đưa tin vào thời điểm này không phải là chuyện đơn giản như hôm nay chỉ cần bấm nút gởi đi trong tích tắc là cả thế giới cùng đọc được. Nghĩ đến điều này tôi thường có ước mơ: "Giá hôm nay còn Đức Cha Điền".
Sau buổi Hội Nghị này, tiếng vang của Đức Cha Điền bắt đầu gây hiệu quả, nhà nước cộng sản liền tìm mọi cách để triệt hạ ngài. Người ta còn nhớ linh mục quốc doanh Huỳnh Công Minh từ Sài Gòn lập tức đến Huế để tổ chức một buổi nói chuyện cho các giáo viên Công giáo và một số giáo dân tại Huế nghe về cái gọi là "Sai trái” của Đức Cha Điền vì đã dám nói thẳng nói thật trong bài phát biểu trước Hội nghị nêu trên. Lúc bấy giờ nhiều bài báo đã đăng tải các lời phát biểu của lũ giáo gian và một số giáo dân quá khiếp sợ trước sự đe dọa hay dụ dỗ của những tên công an cộng sản, nên họ cho rằng Đức Cha Điền đã làm sai !?!
Từ đó bắt đầu cuộc chiến đấu đầy cam go, và ngài luôn làm việc mục vụ trong tình trạng đề kháng cho đến khi ngài nói với Soeur Thủy, em gái của ngài tại Bệnh viện Chợ Rẫy trong giờ phút hấp hối vào ngày 8-6-1988: "Chén đắng Chúa trao anh đã uống xong rồi".
Không ai có thể quên được lời tuyên bố đầy nước mắt của ngài khi Tiểu Chủng Viện Hoan Thiện bị nhà cầm quyền tỉnh Bình Trị Thiên điều động một lực lượng công an đông đảo dùng bạo lực để cướp lấy sau khi đã đuổi các chủng sinh cũng như linh mục ra khỏi nơi này vào gần ngày Lễ Giáng Sinh năm 1979. Ngài nói: "Tiểu Chủng Viện là con mắt của Giám Mục, nay họ đã móc mắt tôi rồi". Cho nên lễ Giáng Sinh năm đó, ngài đã ra lệnh cho toàn TGP Huế để tang, không trang hoàng gì cả, đón Chúa Giáng Sinh trong thầm lặng.
Cuộc tranh đấu của ngài hòan toàn bất bạo động, nhưng rất cương quyết và dứt khoát, nhất là không bao giờ xin phép nhà cầm quyền bất cứ một điều gì thuộc về quyền của Giáo hội. Ngài luôn bảo vệ quyền Độc lập và Tự chủ của Giáo hội, dĩ nhiên từ đó ngài phải chấp nhận mọi khó khăn xẩy đến. Năm 1984, ngài đến ban phép Thêm sức cho các em ở giáo xứ Tiên Nộn, cách thành phố Huế khoảng 4 cây số. Khi ngài vừa đến cổng nhà thờ, hai tên công an đến hỏi giấy phép, ngài nói: "Nếu mọi người đi từ chợ Đông Ba về đây đều phải có giấy phép thì tôi sẽ làm như mọi người". Liền đó các thanh niên và chức sắc trong giáo xứ chạy đến bao vây hai tên công an. Thấy bất ổn nên hai tên này đã lặng lẽ rút lui. Ngài đã nhiều lần bị công an chận trên Quốc lộ 1 trong các chuyến đi La Vang. Có lúc gần đến nơi bọn chúng vẫn nhất quyết đuổi ngài lui về.
Do cương quyết và dứt khoát cho nên ngài đã "treo chén" một linh mục tại TGP Huế, vì vị linh mục này đã tự ý đi Hà Nội để tham dự buổi họp của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước do linh mục Nguyễn Thế Vịnh làm chủ tịch. (Linh mục Vịnh đã theo Việt Minh từ năm 1945). Ngài cũng từng tuyên bố: "Bất cứ linh mục, tu sĩ hay giáo dân nào tham gia Ủy ban phá đạo này sẽ bị phạt vạ".
Năm 1983 ngài đã gởi đến linh mục Nguyễn Thế Vịnh chủ tịch Ủy ban "Phá đạo" (Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước) một bức thư để phản đối các hoạt động của Ủy ban đã xâm phạm quyền của Hội đồng Giám mục. Vì trên thực tế, Ủy ban đã khống chế HĐGM trong mọi hoạt động thuộc quyền của các Giám mục như tuyển chọn, phong chức và thuyên chuyển các linh mục thuộc phạm vi của từng địa phận.
Tháng 3 năm 1984, công an Bình Trị Thiên bắt đầu tấn công ngài bằng 120 ngày “làm việc” (thẩm vấn) và sau đó ra lệnh quản chế, không cho ngài đi đâu cả. Tháng 4 năm 1984, ngài đã gởi kháng thư cho ông Nguyễn Hữu Thọ chủ tịch Quốc hội CSVN lúc đó để phản đối việc công an đã đối xử với ngài và linh mục Nguyễn Văn Lý một cách phi pháp.
Tình trạng càng ngày càng căng thẳng, nên tháng 10-1985, ngài đã gởi đến toàn thể giáo dân trong Giáo phận một bức thư trong đó có đọan rất quan trọng như một "Lời Trối". Ngài nói: "Mai ngày, khi tôi bị bắt, xin anh chị em đừng tin một điều tuyên bố nào, dù lời tuyên bố đó có mang chữ ký của tôi đi nữa". Lời này đã được chính Đức Cha nhắc lại vào dịp Lễ Dầu thứ năm Tuần Thánh năm 1986 tại nhà thờ Chánh Toà Phủ Cam. Khi nghe điều này, mọi tín hữu đều cảm động và nhiều giáo dân đã khóc.
Đối với các Linh mục, ngài thường khuyên phải tuyệt đối trung thành với Giáo Hội Hoàn vũ dưới sự lãnh đạo của Đức Thánh Cha.
Khi Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng bí Thư, với chính sách cởi trói và mở cửa vì chế độ đã đi đến ngưỡng cửa hấp hối, ngày 25-3-1988, ngài gởi cho Nguyễn Văn Linh một bức thư đòi xoá bỏ lệnh quản chế cho mình, đòi phục hồi quyền công dân, đòi được tự do đi lại để thi hành nhiệm vụ chủ chăn trong toàn TGP vì ngài đã bị công an Bình Trị Thiên ngang nhiên cấm chỉ.
Hai mươi bốn năm sống tại đất Huế mà hết 13 năm ngài lận đận vì đòi quyền Tự do Tôn giáo cho Giáo Hội Việt Nam cũng như các Tôn giáo khác. Cuộc tranh đấu đứt ngang bởi cái chết đầy bí ẩn mà mọi người đều thắc mắc, nhất là giáo dân Huế.
Tôi có mặt tại Huế vào những ngày tang lễ của ngài. Sức mạnh và lòng thương mến cũng như sự kính phục vị chủ chăn của mọi thành phần Dân Chúa thuộc TGP Huế đã làm cho nhà cầm quyền tỉnh Bình Trị Thiên không dám ngăn cản việc cử hành tang lễ, mặc dầu cũng muốn lăm le ngăn cấm để giảm bớt sự long trọng.
Thi hài của ngài được quàn tại nhà thờ Chánh toà Phủ Cam từ sáng 14 đến sáng 15-6-1988. Suốt thời gian này, giáo dân và linh mục của các giáo xứ trong toàn Tổng Giáo phận đã về tại nhà thờ Chánh toà để luân phiên cử hành Thánh lễ liên tục suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ.
Sáng ngày 15-6, Thánh lễ An táng do Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn chủ tế. Đồng tế Thánh lễ gồm hầu hết các Giám mục Việt Nam, đầy đủ các linh mục Tổng Giáo phận Huế và rất đông linh mục thuộc Giáo tỉnh Huế. Thi hài của ngài được mai táng bên trong cánh trái Cung thánh của nhà thờ Chánh Toà.
Cuộc tranh đấu của ngài chưa thành, "vì Giáo hội vẫn chưa được những tự do cần thiết", và Giáo hội vẫn còn bị đàn áp, vẫn còn bị bách hại.
Tuyệt đối trung thành với Giáo Hội hoàn vũ, dưới quyền lãnh đạo của Đức Thánh Cha là Lời trối của ngài nơi đất Huế, cho nên từ giáo xứ bé nhỏ Nguyệt Biều, linh mục Nguyễn Văn Lý đã phát động cuộc tranh đấu đòi Tự do tôn giáo để được tiếp nối con đường của vị Chủ chăn. Hưởng ứng cuộc tranh đấu này có các linh mục Nguyễn Hữu Giải, Lm Phan Văn Lợi và giáo dân An Truyền, Nguyệt Biều. Đây là việc chung của Tổng Giáo phận Huế nói riêng và của toàn thể Giáo hội Việt Nam nói chung chứ không phải việc riêng ai.
Nhân ngày giỗ của Đức Cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, tôi xin ghi lại vài hàng về những năm tháng dài đầy gian khổ trong cuộc đời tranh đấu cho Quê hương và Giáo hội Việt Nam của ngài để xin mọi người cùng tiếp sức tiến bước trên con đường yểm trợ cho công cuộc tranh đấu tại Quê nhà cho đến khi nhà cầm quyền Việt Nam thực hiện lời yêu cầu của Đức Thánh Cha: "Giáo Hội mong đợi nơi chính quyền sự tôn trọng toàn diện nền độc lập và tự chủ của Giáo Hội".
Nguyễn An Quý, 08-06-2003
27- Tưởng niệm Đức TGM Nguyễn Kim Điền,
Vị Giám mục đã trực diện chống lại chế độ Cộng sản
Hòa Ái, 08-06-2003
(LTS: Nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền qua đời, 8-6-1988-8-6-2003, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị độc giả bài viết của Hòa Ái, một chứng nhân đã từng sống gần gũi với Đức Cha và đã có mặt tại Nhà thờ Chánh tòa Phủ Cam hôm tang lễ của ngài…)
Cách đây 15 năm, vào ngày 8-6-1988, sự kiện Đức Cha Philipphê Nguyễn Kim Điền, Tổng Giám Mục Huế qua đời, đã là niềm xúc động sâu xa làm thổn thức hàng triệu con tim của những người Việt Nam trong và ngoài nước, Công giáo cũng như không Công giáo.
Thật vậy, dư luận đã bàng hoàng sửng sốt trước cái tin đau đớn và đột ngột này. Những người ngoài Công giáo tiếc thương một vị Giám mục Công giáo có tinh thần đoàn kết, tôn trọng và gần gũi với các tôn giáo bạn. Những người Việt Nam yêu chuộng công lý và đấu tranh cho nhân quyền luyến tiếc một chiến sĩ can trường quả cảm đã trực diện đương đầu với chính quyền Cộng sản để đòi hỏi nhân quyền và tự do tín ngưỡng cho đồng bào Việt Nam.
Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền sinh tại Gia Định, ngày 13-3-1921 trong một gia đình ngoan đạo. Vào Tiểu Chủng viện Sài Gòn năm 1933. Vào Đại Chủng viện Sài Gòn năm 1940. Thụ phong Linh mục ngày 21-9-1947 và được cử làm giáo sư Tiểu Chủng viện Sài Gòn. Năm 1955 ngài gia nhập Dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu (Charles de Foucauld). Ngày 24-11-1960, ngài được Tòa Thánh chỉ định làm Giám Mục và được tấn phong ngày 22-01-1961. Sau cuộc chính biến ngày 1-11-1963, chế độ đệ I Cộng hòa sụp đổ, Đức Tổng Giám mục Ngô Đình Thục đang ở Roma và không thể về lại, Đức cha Điền được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám quản Tổng Giáo phận Huế ngày 30-9-1964 và đến ngày 11-3-1968, Ngài chính thức lên Tổng Giám Mục. Từ năm 1983 Ngài bị bệnh tim và huyết áp nặng. Tháng 5-1988 phải vào Sài Gòn khám bệnh và đã qua đời tại bệnh viện Chợ Rẫy ngày 8-6-1988.
Đức Cha Nguyễn Kim Điền được nhiều người kính phục mến mộ vì đời sống thánh thiện khiêm tốn, cốt cách uy nghi lẫm liệt và diện mạo đẹp đẽ siêu phàm cùng với những bài thuyết giảng nhẹ nhàng êm ái mà vẫn hùng biện và đầy sức thuyết phục. Người viết đã từng chứng kiến nhiều anh em ngoài Công giáo thường đến dự những buổi lễ lớn do Ngài chủ sự và thuyết giảng để chiêm ngưỡng dung nhan và được nghe những lời giảng dạy dịu dàng hấp dẫn từ môi miệng duyên dáng của Ngài nói ra. Khi còn là linh mục, Ngài thường được mời giảng tĩnh tâm cho các linh mục khắp các giáo phận, và như một Tiểu đệ hèn mọn của Chúa Giêsu, dù là Linh mục, Ngài vẫn thường gần gũi đồng bào lao động nghèo khổ và đã hành nghề đạp xích lô trong vùng Sài Gòn - Gia Định. Khi được Tòa Thánh chọn làm Giám mục Cần Thơ, một nhà báo đã phỏng vấn Ngài "có bằng cấp gì mà được làm Giám Mục?” Ngài đã vui vẻ trả lời: "Tôi có bằng đạp xích lô".
Sau năm 1975, Ngài được nhiều người nghe danh biết tiếng vì thái độ cứng rắn chống đối kịch liệt chính quyền CSVN. Ngài là Giám mục duy nhất tại Việt Nam đã phạt "treo chén" một linh mục trong Giáo phận vì đã hoạt động tích cực cho chế độ Cộng sản. Do đường lối chống đối này của Ngài, tương quan giữa giới cầm quyền Cộng sản với hàng Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân Giáo phận Huế rất căng thẳng. Đặc biệt CSVN đã áp dụng nhiều biện pháp trả đũa mạnh mẽ như :
- Cho công an thường xuyên canh chừng theo dõi các lối ra vào của Tòa Tổng Giám mục Huế cũng như theo dõi nội dung các bài giảng của Ngài trong Thánh lễ. Không cho Ngài tham dự các phiên họp của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Không cho Ngài đi Roma triều kiến Đức Giáo hoàng và viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô cũng như tham dự các hội nghị của Tòa Thánh. Tuy là Giám mục Giáo phận Huế gồm thành phố Huế,và hai tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Ngài vẫn bị cấm không được đi ra khỏi phạm vi thành phố Huế mà không có phép.
- Bắt bớ giam cầm các linh mục cộng sự thân tín của Ngài hoặc chỉ định cư trú đối với những linh mục "nguy hiểm" cho chế độ.
- Gây khó khăn tối đa trong việc thuyên chuyển nhiệm sở của các linh mục quản xứ cũng như hoạt động mục vụ của các ngài.
- Phong tỏa và lục soát các cơ sở của Giáo phận Huế không bị "nhà nước quản lý" như Tòa Giám mục, Đại Chủng viện, Nhà Chung, các Dòng tu v.v… Đại Chủng viện bị kiểm soát gắt gao, bị ngăn trở tối đa mọi hoạt động, và các thầy không được cho thụ phong linh mục. Đại chủng sinh bị công an gọi "làm việc" (tức là hạch hỏi, chất vấn, nạt nộ, bắt làm kiểm điểm v.v...), làm khó dễ, hoặc bị trục xuất. Cho đến năm 1992, chỉ còn lại 12 thầy, dù đã học hết chương trình từ lâu, vẫn không được chính quyền Cộng Sản cho chịu chức linh mục.
Đức Cha Nguyễn Kim Điền còn bị triệu tập (chứ không phải mời) đến "làm việc" nhiều lần tại Sở Công an, Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên (và sau này là tỉnh Thừa Thiên Huế). Mỗi lần như vậy có khi kéo dài nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng, mỗi ngày từ sáng đến chiều (buổi trưa được về ăn cơm rồi trở lại). Mục đích của họ là khủng bố tinh thần, làm cho con người mệt mỏi, khiếp sợ và khuất phục. Lần "làm việc" sau cùng tại Sở Công an Bình Trị Thiên từ tháng 4-1984 đến tháng 10-1984, kéo dài liên tục trong bốn tháng. Cho đến một hôm Ngài bị mệt, công an cho mời bác sĩ đến tận nơi khám thấy huyết áp lên quá cao, họ mới cho Ngài về nghỉ.
Mặc dầu bị những áp lực nặng nề của chính quyền Cộng sản, Ngài vẫn không hề nao núng và vẫn kiên quyết giữ vững lập trường. Trong nhiều bài phát biểu, Ngài vẫn khẳng định không có tự do tín ngưỡng tại Việt Nam, và đã trích dẫn Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền để xác định những quyền căn bản của con người. CSVN luôn cay cú vì không bắt bẻ, kết tội gì được Ngài. Ngay cả trong những buổi "làm việc", Ngài vẫn thản nhiên bình tĩnh đấu lý với họ bằng những lập luận sắc bén và khéo léo mà trình độ của một cán bộ Cộng sản không thể theo kịp được. Một số cán bộ đã tiết lộ rằng họ rất thán phục và e dè mỗi khi đối diện với Ngài, người mà họ mô tả là vĩ đại và không hề sợ chết.
Tại Giáo phận Huế có Trung tâm Thánh Mẫu La Vang nổi tiếng (ở Quảng Trị), cứ mỗi ba năm một lần có Đại hội Đức Mẹ rất lớn, và hằng năm vào dịp lễ Đức Mẹ Lên Trời, giáo dân có truyền thống hành hương viếng Mẹ. CSVN đã tìm đủ mọi cách để ngăn cấm và yêu cầu Ngài không được tổ chức. Ngài đã trả lời rằng: “Không ai tổ chức cả. Đó là Đức tin và lòng thành kính của giáo hữu, và chúng ta phải tôn trọng. Tôi không thể ngăn cấm được”. Suốt trong nhiều năm, mỗi lần có kiệu Đức Mẹ La Vang, công an ngăn chận đầy đường, kiểm soát chặt chẽ các xe hành khách, các chuyến tàu hỏa từ mọi nơi về Quảng Trị. Họ thấy ai có thẻ chứng minh nhân dân (tức thẻ căn cước) ghi Thiên Chúa giáo là đuổi lui về, nhưng các linh mục và tu sĩ, giáo dân đã khôn khéo tìm đủ mọi cách để qua mặt họ. Tại đền thờ Đức Mẹ La Vang, có khi linh mục không được cử hành thánh lễ, giáo dân liền tập trung cầu nguyện, cử hành nghi thức suy tôn Lời Chúa và nhận lãnh Mình Thánh từ các thừa tác viên giáo dân. Những ai tham dự các buổi lễ này đều không cầm được nước mắt khi nhìn lên bàn thờ không thấy sự hiện diện của linh mục mà chỉ là tấm áo lễ trải rộng trên bàn thờ cùng với dây stola tượng trưng cho tác vụ của linh mục.
Đức Cha Nguyễn Kim Điền vốn bị bệnh tim và huyết áp. Qua nhiều năm căng thẳng đương đầu với chính quyền CS, bệnh ngài phát nặng. Đầu tháng 5-1988, ngài được chở vào Sài Gòn để làm bệnh án hầu đi Rôma chữa trị dưới sự bảo trợ của Tòa Thánh. Vào ngày 8-6-1988, Ngài đã qua đời tại bệnh viện Chợ Rẫy. Cái chết của ngài với nhiều nghi vấn đã gây bàn tán sôi nổi trong dư luận giáo dân và đồng bào trong lẫn ngoài nước. Người ta nghi ngờ Cộng Sản đã tìm cách triệt hạ ngài.
Thi hài của ngài sau hai ngày quàn tại Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn, đã được di chuyển bằng đường bộ ra Huế. Khi đi qua các Giáo phận dọc quốc lộ 1, rất nhiều linh mục và giáo dân đã tuôn đến kính viếng và tỏ lòng ngưỡng mộ. Đặc biệt tại đỉnh đèo Hải Vân, ranh giới giữa hai giáo phận Đà Nẵng và Huế, một đoàn xe môtô và ôtô gồm 200 thanh niên, trung niên Giáo phận Huế đã đón và hộ tống linh cữu ngài về Tòa Tổng Giám mục Huế vào lúc 7g tối. Dọc đường quốc lộ 1, từ Lăng Cô đến Phủ Cam, giáo dân mang băng tang màu tím quỳ hai bên đường để tỏ lòng thương tiếc và tiễn biệt vị chủ chăn kính mến. Khi đoàn xe tang về tới Tòa Tổng Giám mục, cả một rừng người thổn thức nghẹn ngào, những tiếng khóc thương đau xót tràn ngập. Suốt từ tối 12 đến chiều 13-06 tại Tòa Tổng Giám mục Huế, rất nhiều cá nhân, đoàn thể đến thăm viếng; đặc biệt là một số hội đoàn Phật Giáo và hàng giáo phẩm chức sắc đại diện Phật Giáo, Tin Lành, Cao Đài đều đến kính viếng và tham dự lễ tang. Người ta thấy rõ mối thiện cảm các tôn giáo bạn đã ưu ái dành cho ngài. (Để đáp lại mối thịnh tình này, khi Hòa thượng Thích Đôn Hậu viên tịch, Tòa Tổng Giám mục Huế cũng đã cử một phái đoàn đến phân ưu, kính viếng; ngoài ra còn có một số linh mục đến thăm và tham dự lễ tang Hòa thượng).
Chiều ngày 13-6, linh cữu Đức Tổng Giám mục được rước trọng thể qua Nhà thờ Chính toà Phủ Cam. Tại đây, suốt đêm đến sáng 15-6, giáo sĩ, tu sĩ, và giáo dân luân phiên cầu nguyện và dâng thánh lễ. Ngày 15-6-1988, lúc 9g sáng, Thánh lễ an táng đã được cử hành trọng thể tại Nhà thờ Chính tòa với sự đồng tế của rất đông Giám Mục (Miền Nam và Miền Bắc) và toàn thể linh mục Giáo phận Huế cũng như các linh mục từ các nơi đến. Sau đó thi hài Ngài được chôn cất ngay trong Nhà thờ Chánh tòa.
Trong suốt một thời gian dài sau đó, tại khuôn viên mộ ngài luôn luôn tràn ngập hương hoa và vô số người đến viếng thăm khấn nguyện. Người viết đã từng nghe kể lại những sự kiện được mô tả như là phép lạ: nhiều người đã cầu xin với Đức Cha và đã được toại nguyện, trong đó có cả những người ngoài Công giáo.
Đức Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền mất đi, Giáo Hội Việt Nam mất một Giám mục lỗi lạc, một chủ chăn gương mẫu, đất nước Việt Nam mất đi một công dân can trường quả cảm, một tấm gương sáng chói chống độc tài áp bức Cộng Sản. Nhiều người Công giáo trong nước đã ví ngài như một vị Thánh Tử Đạo. Những người ngoài Công giáo coi ngài như một anh hùng liệt sĩ đã hy sinh cho Quê hương Dân tộc.
Được tin Đức Cha Philipphê qua đời, ngày 8-6-1988, trong điện văn phân ưu với Giáo phận Huế, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã ban tặng Ngài danh vị "Grand Figure d’Evêque". Trước đó, năm 1980, trong dịp một số Giám Mục Việt Nam sang Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và yết kiến Đức Thánh Cha, cũng như vào dịp Ngân khánh của ngài năm 1985, Đức Thánh Cha đã nồng nhiệt gọi ngài là "Vaillant Confrère".
Nhân dịp tưởng niệm 15 năm cái chết oanh liệt của Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền, chúng ta hãy học tập và phát huy tinh thần dũng cảm của Ngài trong cuộc sống đạo và đời của chúng ta.
28- Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền.
Lê Thiên, 4-2005 (trích “30 năm nhìn lại”)
Cùng với việc trục xuất Đức Khâm sứ Tòa Thánh và lưu đày Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, Cộng sản từ từ khống chế các Giám mục, linh mục, tu sĩ cả nước. Chúng thu thập danh sách các Ban Chấp hành Hội đồng Giáo xứ, các giới lãnh đạo Hội đoàn Công giáo, ruồng bắt các thành phần cốt cán đi “cải tạo”. Các trường học, viện mồ côi, tu viện và nhiều cơ sở khác của Giáo Hội bị tịch biên. Các Giám mục không được phép đi lại thăm viếng giáo dân. Nhiều linh mục bị tống vào các trại giam về tội làm Tuyên úy hoặc do bị gán tội phản động chống phá Cách mạng. Các việc dạy giáo lý, sinh hoạt đoàn thể đều bị cấm chỉ triệt để và cũng bị coi là truyền bá văn hóa phản động! Trong khi đó, cái tổ chức gọi là “Công Giáo Yêu Nước” được dựng nên để dùng làm công cụ cho chính quyền luồn lách vào nội bộ Công giáo.
Riêng với Đức Cha Philípphê Nguyễn Kim Điền, Tổng Giám mục Huế, Cộng sản đối xử một cách tàn nhẫn chỉ vì ngài dám nói thẳng, nói thật, đấu tranh cho tự do tôn giáo. Ngay từ thời gian đầu Cộng sản đánh chiếm miền Nam, Đức Cha Điền đã có thái độ dứt khoát và quyết liệt chống lại những hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng.
Trong hai bài phát biểu ngày 15 và 22-4-1977 tại Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Bình Trị Thiên, Đức Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền đã công khai phê phán sự đàn áp tự do tôn giáo và đòi hỏi phải có Tự do Tôn giáo tại Việt Nam. Ngài cấm các linh mục và tu sĩ không được tham gia Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước là một tổ chức tay sai của Cộng sản Việt Nam nhằm lũng đoạn hàng ngũ Giáo Hội. Ngài còn ra vạ “treo chén” một linh mục vì vị này tham gia Mặt trận Tổ quốc và Ủy ban Đoàn kết.
Trong văn thư ngày 19-10-1983 gửi cho linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Chủ tịch Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu nước, Đức Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền cảnh giác tổ chức này về việc họ mưu toan lập một Giáo Hội Việt Nam “ly khai” với Tòa Thánh.
Từ ngày 05-4-1984, Đức Cha Nguyễn Kim Điền bị Công an tỉnh Bình Trị Thiên mời đi “làm việc” Ngài bị thẩm vấn trong suốt 120 ngày, rồi nhận được lệnh quản chế, cấm không được ra khỏi chu vi thành phố Huế. Kể từ đó, khu vực trước cổng Tòa Giám mục Huế luôn có Công an giả dạng thường dân lai vãng canh chừng kiểm soát.
Ngày 25-3-1988, Đức Cha Điền viết một bức thư cho ông Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản VN, yêu cầu hãy “xóa bó lệnh quản chế đối với ngài, phục hồi quyền công dân cho ngài, và hãy để ngài tự do đi lại để thi hành nhiệm vụ Tổng Giám Mục đối với giáo dân Huế và thăm viếng các Giáo Phận thuộc Tổng Giáo phận Huế”.
Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền không ngừng đấu tranh cho công lý và quyền tự do của con người, mà Tự do Tôn giáo là căn bản. Đến cuối tháng 5-1988, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền lâm bệnh. Ngài được chuyển vào Sài Gòn. Bấy giờ Tòa Thánh can thiệp cho ngài đi Rô-ma chữa trị. Tại bệnh viện Chợ Rẫy, nơi đang tiến hành xét nghiệm và làm thủ tục cho ngài được đi điều trị, bỗng ngài từ trần ngày 08-5-1988, thọ 67 tuổi. Nhiều nghi vấn được đặt ra chung quanh vụ đột tử của ngài, và có nhân chứng xác nhận ngài chết vì “bị đầu độc”
Lê Thiên
29- Con đường đối thoại của TGM Nguyễn Kim Điền
Đỗ Mạnh Tri, 29-04-2005
(trích: 1975-2005 Con đường đối thoại của các Giám mục Việt Nam)
TÓM LƯỢC
Từ khi đảng CSVN thống lãnh đất nước, có không một đường hướng của hàng Giáo phẩm Công giáo đối với Chinh quyền toàn trị ? Trả lời “không” hay “có” đều dễ bị phản bác. Điều nhiều người có thể đồng ý đó là các giám mục miền Nam, rồi cả các giám mục miền Bắc chủ trương nhìn nhận thực tế chính trị, sẵn sàng hợp tác và đối thoại với chính quyền nhằm phục vụ công ích.
Nhưng trước thái độ cởi mở của Giáo phẩm Công giáo, Chính quyền từ khước đối thoại, dùng Công an, Mặt trân Tổ quốc và nhóm Công giáo yêu nước để áp đặt chính sách đàn áp tôn giáo rất khắc nghiệt đã thực hiện tại miền Bắc.
Trước sự kiện này, có những vị giám mục kiên vững đối thoại một cách nghiêm túc, có những vị giữ yên lặng (một sự yên lặng không nhất thiết thụ động), có những vị mềm dẻo tới mức khó phân biệt giữa khoan nhượng và nhượng bộ. Vì không thể và cũng không có khả năng đi vào chi tiết, trong bài này chúng tôi chủ yếu đề cập đến những vị đứng đầu 3 giáo tỉnh Hà Nội, Huế, Sài Gòn và HĐGMVN.
Nói chung, tuy có những khác biệt cá nhân, nhưng trong chiều sâu có một sự đồng thuận nào đó -một cách đối phó ôn hoà nhưng bền bỉ- phản ánh nếp sống đức tin có khi mộc mạc nhưng sâu sắc, âm thầm nhưng thiết thực của cộng đoàn công giáo.
Sự đồng thuận ấy biểu lộ mãnh liệt qua vụ Phong Thánh 117 Chân Phúc Tử đạo Việt Nam, năm 1988, điểm cao của sự căng thẳng (để khỏi nói là mâu thuẫn) giữa Chính quyền và Giáo hội Công giáo.
Sau vụ này, Chính quyền đổi thái độ vì nhận ra rằng cơ cấu tổ chức chặt chẽ của Giáo hội Công giáo không chỉ là một cơ cấu xã hội. Nó còn là và trước hết là dạng thái xã hội của một niềm tin. Cơ cấu xã hội có thể lũng đoạn, phá huỷ. Lòng tin không dễ gì lay chuyển. Chính quyền đã nhận ra điều đó và chấp nhận liên hệ trực tiếp với các giám mục.
Từ năm 1989 tới nay, song song với những cuộc đàm phán giữa Vatican và Hà Nội, có cuộc đối thoại khó khăn giữa Nhà nước độc tài và hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam. Cuộc đối thoại ấy diễn ra khá thất thường, ‘en dents de scie’, lúc lên lúc xuống. Dĩ nhiên, chính quyền giữ vai trò chủ động, lúc đóng lúc mở, tuỳ hứng, tuỳ nơi, tuỳ đối tượng.
Chủ thể đối thoại, về phía Giáo phẩm Công giáo, là HĐGMVN. Nhưng cũng là cá nhân từng giám mục, nhất khi một giám mục có một vị trí cao trong hàng giáo phẩm thì tiếng nói của một cá nhân có trọng lượng lớn không kém tập thể HĐGM.
Khi HĐGMVN lên tiếng, trong các Thư chung chẳng hạn, thì tương đối có sự thống nhất, nhưng sự hiệp nhất này không che giấu nổi những khuynh hướng khác nhau, thậm chí khác biệt giữa các giám mục. Âu cũng là nét tự do cố hữu của người công giáo (rất tuân phục Hội Thánh nhưng rất tự do con cái Chúa) ? Cũng có thể là do chính quyền khéo thao túng bằng những biện pháp tinh vi, xảo trá. Kết quả, ba mươi năm sau, mặc dầu những giằng co và căng thẳng tồn đọng, tiếng nói của hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam có trọng lượng hơn và được chính quyền nể vì hơn..
***
Sau hiệp định Genève, một triệu người miền Bắc tản cư vào Nam. Phần lớn là công giáo. Trong số người công giáo, tỷ lệ giám mục, linh mục, tu sĩ lớn hơn giáo dân nhiều[1]. Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, mấy triệu người bỏ nước ra đi. Trong số này, công giáo chiếm một tỷ lệ nhỏ (15% ?). Đặc biệt không có một giám mục nào ra đi, kể cả Đc Phạm Ngọc Chi, nguyên là Giám mục coi sóc Giáo phận Bùi Chu. Hơn nữa, HĐGM/VN miền Nam chủ trương rõ ràng không tị nạn. Đây là sự kiện then chốt, tượng trưng cho một thái độ : đảm nhận thực tại ; và biểu hiện một tinh thần : tinh thần đối thoại. Ba mươi năm qua, thái độ ấy, tinh thần ấy đã biến chuyển ra sao, đã gặp những trở ngại nào và thu lượm được những thành quả gì cho Giáo hội, cho Đất nước ?
Để trả lời câu hỏi trên, chúng tôi đề nghị phân tách một số sự kiện và văn bản mà những người quan sát đều có thể biết đến. Xin bỏ ngoài những lời đồn thổi về những hành động, những liên hệ bí mật ; vì tính cách thất thiệt của chúng và vì, theo thiển ý, dù có thiệt đi nữa, cũng không mang tính quyết định.
1. NHỮNG PHẢN ỨNG BAN ĐẦU
Sau khi Miền Nam tan rã như chim vỡ tổ, không có ngay một phản ứng chung của HĐGM miền Nam. Tình thế lộn xộn, nhớn nhác lúc đó không cho phép. Tuy nhiên phản ứng mau lẹ của hai vị đứng đầu hai Giáo tỉnh miền Nam, Tổng Giám mục Huế, Đc Nguyễn Kim Điền và Tgm Sài gòn, Đc Nguyễn Văn Bình đủ đại diện cho toàn thể hàng Giáo phẩm công giáo miền Nam.
1.1. Đc Nguyễn Kim Điền, Tgm Huế.
Ngày 30 tháng tư quân đội miền Bắc mới vào Dinh Độc lập, nhưng sáng ngày 26 tháng 3, cờ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã treo trên Thành phố Huế rồi. Ai cũng biết, thực chất là quân đội miền Bắc, nhưng Hà Nội vẫn còn dùng con bài Mặt trận Giải phóng để tránh tiếng xâm lược miền Nam. Đức cha Điền lúc đó đang ở Sài gòn, hối hả ngược dòng người tị nạn chạy về Huế.
Lời phát biểu ngày 09-04-1975
Trong lễ ra mắt của Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế ngày mồng 9 tháng 4, Đc Điền đã nói lên cảm tưởng của mình. Xin lấy lại toàn văn (chúng tôi ấn mạnh một số từ) :
“Ở đời này, không có gì quý hơn mạng sống con người, không có gì quý hơn độc lập tự do. Bao nhiêu mạng sống con người được bảo tồn, nếu chiến tranh chấm dứt sớm đi một ngày. Chiến tranh đã chấm dứt trên một phần lớn của quê hương chúng ta. Độc lập hôm nay là một sự thực cho cố đô Huế.
“Còn tự do thì Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã long trọng bảo đảm cho toàn thể đồng bào, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng cho đồng bào các tôn giáo.
“Mạng sống của con người, độc lập của đất nước, tự do của nhân quyền được bảo đảm, như vậy niềm vui mừng của chúng tôi, của những người công dân công giáo Việt Nam yêu nước, được trọn hảo.
“Như vậy, đồng bào công giáo nguyện tích cực góp phần với tất cả đồng bào ruột thịt để cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng xây dựng một xã hội đầy tình thương, tự do, dân chủ, thịnh vượng, hoà bình, trong đó chúng tôi được chu toàn bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa ”.
Lời phát biểu ngắn, rất ngắn. Nhưng nghiêm túc và đầy đủ. Chiến tranh chấm dứt. Tổng giám mục Huế không nói chuyện thắng bại, chỉ mừng cho những mạng sống con người được bảo tồn. Vần đề còn lại là tự do, dân chủ, nhân quyền ; chính quyền mới bảo đảm. Thể theo sự bảo đảm ấy, người công giáo vui mừng, nguyện tích cực hợp tác để chu toàn bổn phận đối với Thiên chúa và Tổ quốc : xây dựng một xã hội tình thương, tự do, dân chủ.
Thư ngày 01-04-75
Trước đó, ngày 01 tháng 04, Đc Điền đã lên tiếng trong một bức thư gửi linh mục, tu sĩ và giáo dân của Tổng Giáo phận.
Lá thư nhìn nhận “Chiến tranh đã chấm dứt trên Giáo phận Huế. Đó là điều chúng ta mong ước và cầu nguyện từ 30 năm nay”. Đã qua rồi, thời gian của hãi hùng, lo âu, thù hận, chém giết. Mời gọi linh mục, tu sĩ, giáo dân “hoan hỷ sẵn sàng và hăng say cộng tác với mọi người thiện chí, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ Cách mạng để xây dựng lại quê hương sau bao đổ vỡ tang tóc, hầu đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ruột thịt”. Kêu gọi hãy khoan dung, tha thứ mọi lỗi lầm, đừng nghi ngờ, thù hận ai và gây sợ hãi cho ai. Nhưng trái lại, phải hiểu tốt, thông cảm và nhìn nhận thiện chí của người khác”, “đoàn kết, yêu thương và phục vụ người khác, giúp đỡ và chia sẻ cơm áo với đồng bào, không phải chỉ chia sớt những gì mình dư thừa, mà còn trao nhường những gì mình chỉ có vừa đủ”. Nói một cách khác, “phaỉ cùng nhau xây dựng thế giới huynh đệ đại đồng”. “Nhưng không phải dừng lại đó, mà để nhờ đó chúng ta đạt tới đời sống huynh đệ trường cửu”. Cụ thể : “Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy sống Phúc Âm của Chúa Giêsu cho đến tận cùng”. Cho đến tận cùng, nghĩa là nếu cần, phải sẵn sàng “thí mạng sống mình”.
Tóm lại, vui mừng vì chiến tranh chấm dứt ; đón nhận, phục tùng chính quyền mới ; hoan hỉ phục vụ và cộng tác với mọi người thiện chí để xây dựng lại đất nước ; nhưng đồng thời tuyệt đối trung thành với Phúc Âm của Chúa Giêsu. Đức cha Điền không nói gì đến Đảng Cộng sản Việt Nam, vì chính quyền mới, trên danh nghĩa vẫn là Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Tuy nhiên, “thế giới huynh đệ đại đồng” ám chỉ một thứ ước mơ, một hứa hẹn trần thế nào đó… một điểm gặp gỡ có thể có giữa những con người thiện chí.
2. SỰ CHUYỂN HƯỚNG CỦA HÀNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
3. CHÍNH QUYỀN TỪ KHƯỚC ĐỐI THOẠI
4. CÁC GIÁM MỤC CHỌN CON ĐƯỜNG ĐỐI THOẠI
4.4. Đối thoại kiểu Đc Nguyễn Kim Điền
Trong thư gửi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, đề ngày 25-3-1988, Đc Điền viết : “Năm 1967, khi tham dự cuộc họp quốc tề Caritas Internationalis tại Rôma, một nhà báo người Ý hỏi tôi: “Ông nghĩ thế nào về Đảng cộng sản Việt Nam?” Tôi trả lời “Là giám mục công giáo, tôi không thể theo chủ nghĩa cộng sản. Nhưng người cộng sản Việt Nam là anh em của tôi”. Hôm sau, báo đăng lời đó với hàng tít to. Năm 1980, cụ Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ tại Hà Nội nói với tôi: “Ông Tổng giám mục tuyên bố câu đó hồi năm 1967 thì chỉ có hại cho ông thôi, vì lúc đó CIA thống trị tại phía Nam và chính phủ nào ở đó cũng là chính phủ chống cộng”. Tôi không biết anh nhà báo phỏng vấn tôi năm đó hiện nay còn sống hay chết và ở đâu? Anh sẽ nghĩ thế nào nếu anh biết được hoàn cảnh hiện tại của tôi? Còn lập trường của tôi từ năm 1967 đến nay vẫn trước sau như một”.
Hoàn cảnh hiện tại của Đc Điền lúc đó là từ năm 1984, sau 120 ngày bị thẩm vấn, mặc dầu là Tgm giáo tỉnh miền Trung, ngài không được phép đi thăm viếng các giám mục thuộc giáo tỉnh, không được phép đi họp hội nghị thường niên của HĐGM/VN, không được phép ra khỏi chu vi Tp Huế để thăm các giáo xứ và làm các công tác căn bản của một giám mục. Sự thể ra thế chính vì lập trường của ngài không thay đổi. Chiến tranh đã chấm dứt ! Đc Điền đón nhận hoà bình như một hồng ân. Ngài là vị giám mục Việt Nam đầu tiên kêu gọi mọi người hợp tác với chính quyền mới, một chính quyền có đấy, như bất luận chính quyền nào. Chính phủ cách mạng lâm thời tuyên bố tự do tôn giáo, Tổng giám mục Huế đề nghị hoà giải dân tộc để xây dựng lại đất nước, và trước mắt, hàn gắn những thương đau mà Huế là tang chứng bi thảm nhất. Tâm thư ngày 1-4-75 gửi linh mục, tu sĩ và giáo dân Tổng Giáo phận Huế cũng như lời phát biểu ngày 9-4-75 trong lễ ra mắt của Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế cho chúng ta hình ảnh một vị chủ chăn cởi mở, khiêm nhu, nhưng táo bạo, hết lòng phục vụ, dấn thân vì công ích, vì Đạo Chúa, nhưng cũng chính vì thế, luôn luôn bênh vực lẽ phải và tuyệt đối trung thành với sứ vụ của một giám mục công giáo.
Chính quyền mới đã sớm lột mặt nạ như mọi người đều biết. Và hai năm sau, Tgm Nguyễn Kim Điền đã lợi dụng hai cuộc họp do chính quyền triệu tập để phát lên tiếng nói của lương tâm, tiếng nói tự do. Trong khi mọi người nơm nớp nhất trí, nói theo, dù một chút thắc mắc cũng không dám thổ lộ, Đc Điền đã ung dung, nhẹ nhàng nói thật. Tiếng nói của ngài hoàn toàn bất ngờ, khác nào ngọn lửa bừng lên giữa đêm đen hay nhát búa giáng xuống tảng băng cứng lạnh. Tiếng nói ấy đánh thức lương tri, chấn động lòng người, truyền đi rất nhanh trong dân chúng, vượt bức màn tre của chế độ và thành tít lớn trên báo chí ngoại quốc. Không thể phân tách ở đây cuộc đối thoại nguy hiểm của Tgm Huế với chính quyền độc thoại[2]. Chúng tôi xin chỉ đề cập đến hai bài phát biểu mở đầu cho mười năm gian khổ của một công dân giám mục, vốn kín đáo, gần gũi với những con người lao động, những tầng lớp thấp kém trong xã hội hơn là những kẻ có quyền lực[3], nay bị lịch sử đẩy ra sân khấu của thời cuộc.
Phát biểu ý kiến ngày 15.4.77 [4].
Một buổi họp do Mặt trận Tổ quốc Bình Trị Thiên và Tp Huế tổ chức, nói là để thông báo, kỳ thực là để học tập cải tạo nhân vụ chính quyền bắt giữ 6 nhà sư của Phật giáo Việt Nam Thống nhất hệ phái Ấn Quang tại Tp Hồ Chí Minh. Được mời phát biểu, Đc Điền không đi vào nội dung[5] của sự kiện mà người của UBND Tp HCM vừa trình bày : “Cá nhân tôi, tôi không có ý kiến gì cả. Vấn đề quảng bá tin tức, cắt nghĩa lý do là nhiệm vụ của chính phủ. Tôi chỉ muốn san sẻ với các vị lãnh đạo Phật giáo những kinh nghiệm mà trước đây chúng tôi đã phải chịu trong vụ Vinh Sơn”. Rồi Đc Điền lấy giả thuyết tồi tệ nhất cho phía các tôn giáo : “Chúng tôi chắc chắn là không có ai trong buổi họp có thể chấp nhận hành động được diễn tả trong bản thông cáo của chính phủ”. Nói một cách khác, cứ cho là sự việc đã xảy ra đúng như chính quyền thông cáo (mà có ai đủ ngây thơ để tin chính quyền đây ?), cứ cho là có những kẻ dựa vào tôn giáo để xách động này nọ đi, “Sự kiện mà chính phủ vừa giải thích và trình bày cho chúng ta nghe, chỉ là một sự kiện đơn độc”. Một sự kiện đơn độc ! Như muôn vàn sự kiện tốt xấu xảy ra hàng ngày trong xã hội, có thể chạy tít lớn trên trang 1 của báo chí nhưng chẳng có gì đáng cho chính quyền các cấp phải làm rùm beng ! Và đây, tiếng sấm nổ vào lỗ tai chính quyền : “Nhiều chuyện như vậy đã xảy ra và còn sẽ xảy ra trong tương lai, nếu chúng ta không giải quyết nguyên nhân căn bản của nó. Theo thiển kiến của chúng tôi, nếu thực ra có những cộng đồng tôn giáo gây rối loạn chăng nữa, chỉ vì không có tự do tín ngưỡng. Thẳng thắn mà nói, tôi không thoả mãn với chính phủ về chánh sách tự do tín ngưỡng” Rồi ngài kể ra một loạt những hạn chế, truy bức, vu khống, mạ lỵ… Riêng người công giáo “có cảm tưởng mình là công dân hạng hai”, “trong giới công nhân, công viên chức, bịnh viện hay giáo viên, thường người công giáo được cho là tiên tiến ; nhưng chắc rồi cũng không tiếp tục làm việc được, vì là công giáo. Đi xin việc làm hoặc bị từ chối, hoặc gặp khó khăn trong việc làm, muốn biết căn do thì được rỉ tai cho biết là bỏ đạo hay đừng đi nhà thờ nữa là êm xuôi”.
Ngày 22.4.1977. Cuộc họp Góp ý kiến vào bản dự thảo “Đề cương báo cáo của Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên”. Đc Điền lấy làm vinh dự được mời tham gia đóng góp ý kiến, cám ơn Ban tổ chức và coi đây là một việc làm có tính cách cởi mở, mới mẻ “vì Đảng và Tôn giáo không đi chung với nhau”. (Cử toạ đột xuất vỗ tay !) Với tư cách là người lãnh đạo tôn giáo, Đức cha góp ý về Chính sách tôn giáo của Đảng.
Về cách tiếp cận vấn đề tôn giáo trong bản Đề cương, đức cha thấy tôn giáo chỉ được nhắc tới 2 lần. Một lần, trong mục “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân” có nói đến “đoàn kết các tầng lớp nhân dân” trong đó có đồng bào các tôn giáo. Một lần nữa khi nói về “củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh, chính trị và trật tự xã hội” sau khi đã kể ra bao nhiêu tội phạm và các âm mưu phá hoại…”. Có người nhậy cảm thấy nói về chính sách tôn giáo trong mục này thì lo ngại, vậy “để tránh những lo âu và cảm tình không mấy tốt của đồng bào có tôn giáo đối với Đảng”, Đức cha “đề nghị đem chỗ nói về chính sách tôn giáo lên mục B, nơi nói về “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”. Tuy nhẹ nhàng, nhưng nhận xét trên vạch trần ý đồ của Đảng : khi Đảng nói chính sách tôn giáo, phải hiểu chính sách đàn áp tôn giáo. Nếu không, tại sao đặt tôn giáo vào mục an ninh chính trị, xã hội và xếp hoạt động tôn giáo bên cạnh những âm mưu phá hoại và mọi thứ tội phạm ? Thay vì vòng vo tam quốc, Đc Điền đặt thẳng vấn đề thiếu tự do tôn giáo với chính quyền.
Nhưng để tránh những góp ý trừu tượng, vì “ông Tống Hoàng Nguyên, khi khởi đầu buổi họp sáng nay có dặn nên góp ý vào việc lao động sản xuất và kinh tế cách trực tiếp hơn”. Diễn nôm : mọi chính sách đã có Đảng lo, góp ý này nọ là để nhất trí và học tập chính sách, thực hiện chính sách. Đc Điền hẳn cũng hiểu thế, nhưng ngài cứ coi như ông chủ toạ cuộc Hội thảo nói thật và ngài thật thà góp ý vào việc lao động sản xuất. Một cách thực sự cụ thể : “Theo tôi nghĩ, nếu có tự do tín ngưỡng thì năng xuất của đồng bào công giáo sẽ lên cao lắm”. Đức cha đơn cử một việc mới xảy ra trước đó mười ngày. Ngày Chúa nhật 10-4-1977 là ngày lễ Phục sinh của Công giáo, một ngày lễ lớn, được chuẩn bị bằng cả một tuần trước. “Xã Hải Trí phải làm thuỷ lợi trong thị xã Quảng Tri. Huyện cho làm trong 10 ngày nhưng xã rút xuống còn năm ngày để thi đua. Mỗi thôn được chia phần của mình và sẽ phát động lao tác vào sáng Chúa nhật. Ngày thứ bảy, thôn Trí Bửu (hầu hết là công giáo) đã đệ đơn xin xét lai cho đồng bào công giáo có giờ đi cử hành nghi lễ đạo, rồi sau đó sẽ đi làm, nếu không kịp thì xin làm đêm nữa. Nhưng xã không cho (…). Có người nói với xã xin xét lại, vì nếu đồng bào họ không tuân lệnh, thì tổn thương phần nào uy tín của chính quyền địa phương. Như hôm lễ Giáng Sinh 76, thôn Trí Bửu cũng đã không đi làm vì họ phải đi lễ. Nhưng xã cương quyết không xét lại… Thì rồi, thôn Trí Bửu lấy quyền nhân dân làm chủ nên không đi làm thuỷ lợi hôm đó, mà đi lễ hết. Ngày hôm sau họ huy động cả thôn ra lảm thuỷ lợi thì thay vì năm ngày, họ làm trong hai ngày rưỡi là xong. Nghe nói xã định tuyên dương họ, nhung họ không nhận vì họ không tuân lệnh đi làm trong ngày lễ Chúa Phục Sinh hôm đó”.
Những trường hợp cụ thể như trên cho phép khẳng định một cách khái quát : “Chỉ có tự do tín ngưỡng thực sự thì những người có tín ngưỡng mới sống thoải mái, hạnh phúc trong chế độ xã hội chủ nghĩa mà thôi” ! Thực sự thì Đảng va Nhà nước chủ trương tự do tín ngưỡng bằng văn bản, sắc lệnh. Đã có tới 5 sắc lệnh và thông tư. “Nhưng trong thực tế vẫn có những khẩu lệnh đi ngược lại với chính sách”.
Vậy phải có tự do tôn giáo thực sự. Phải từ bỏ ý đồ tiêu diệt tôn giáo. Người cộng sản cũng biết tôn giáo “là một nhu cầu xã hội và tâm lý, bao lâu nhân dân còn cần đến, thì cứ để“. Đc Điền đồng ý : “chừng nào đồng bào không thèm đến tôn giáo nữa thì thôi, tự nhiên sẽ hết tôn giáo” Nhưng cấm thí chắc chắn không thể cấm được, vì 1) thực tế lịch sử đông tây kim cổ, nhất là gần đây bên các nước thuộc khối Liên xô đủ chứng minh điều đó. và 2) “vì tôn giáo nằm ở địa hạt khác, địa hạt tinh thần và tâm linh nên khoa học và kỹ thuất không đánh trúng được”. Đã không diệt được thì chỉ còn cách tôn trọng tư do tín ngưỡng để đồng bào cùng nhau xây dựng đất nước về mặt vật chất, còn tín ngưỡng thì ai chọn tôn giáo nào tuỳ sở thích. “Như vậy mới thoải mái, mới đoàn kết được”.
Qua hai bài phát biểu trong vòng 10 ngày, Tgm Huế thẳng thắn trực diện với chính quyền toàn trị. Thiết tưởng, để tránh ngộ nhận, nên nói cho rõ : Đc Điền không khi nào chống lại chính quyền. Ngài chỉ bênh vực tự do tín ngưỡng thực sự thôi. Và khi đòi tự do tín ngưỡng, Đc Điền đương nhiên đòi tự do và bảo vệ những quyền con người, trong đó tự do tín ngưỡng là một quyền căn bản. Khi nói với chính quyền như thế, Đc Điền cũng nói thay cho mọi người và nói với mọi người, đặc biệt với những người đồng đạo và trong số này, hàng Giáo phẩm Công giáo. Đối thoại với chính quyền một cách thẳng thắn và nghiêm túc như thế cũng là đề nghị với các giám mục Việt Nam khác một đường lối thích ứng trong hoàn cảnh mới. Nhưng đường lối này không được sự đồng tình của tất cả mọi giám mục. Ta sẽ nhắc tới đường lối của Tgm Sài Gòn. Nhưng trước đó, xin nói về phản ứng của chính quyền sau hai bài phát biểu của Tgm Huế.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Tp Hồ Chí Minh can thiệp.
Chính quyền đã đánh giá đúng mức những lời phát biểu của Tgm Huế. Bằng chứng là ông Nguyễn Văn Chì, Chủ tịch UB MTTQ Tp HCM, gửi cho Đc Bình một bản "NHẬN ĐỊNH VỀ HAI BẢN VĂN ghi lại lời phat biểu của Tgm Nguyễn Kim Điền". Mở đầu như sau :
"Gần đây Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tp HCM được biết có luân lưu, phổ biến trong một số linh mục, tu sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo ở Tp HCM hai bản văn dưới có ghi lời phát biểu của ông Tgm Nguyễn Kim Điền, địa phận Huế. Hai bản văn này không những chỉ luân lưu, phổ biến trong giới Thiên chúa giáo mà còn phổ biến tới cả một giới Phật giáo và tới một số nơi khác nữa". Ông Nguyễn Văn Chì thông báo cho mọi người biết rằng hai bản văn của Đc Điền đã được phổ biến rộng rãi. Nhưng vì hình như còn nể một ông Tổng giám mục dù sao cũng được chính quyền coi là cởi mở, ông viết tiếp : "Chúng tôi chưa rõ hai bản văn này có phải đúng là của ông Tổng giám mục địa phận Huế ghi hay không ? Sự ghi chú đó có phản ảnh trung thành lời phát biểu của ông Tổng giám mục địa phận Huế hay không ? Và chúng tôi cũng chưa biết rõ việc phổ biến hai bản văn đó là có ý kiến của ông Nguyễn Kim Điền hay không ? Ai là người chịu trách nhiệm phổ biến ?". Một loạt câu hỏi vừa để chạy tội cho Đc Điền (nếu biết sám hối !), vừa đe doạ ‘người chịu trách nhiệm phổ biến’. Vì, theo ông Chủ tịch UB MTTQ Tp HCM, những ý kiến trao đổi trong hội nghị, dù đúng đắn cũng không nên đơn phương phổ biến, huống chi những ‘ý kiến sai lầm’ mà phổ biến ra ngoài ‘sẽ gây tác hại có khi rất to lớn’.
Đe doạ xong, ông phân tách và phản bác hai luận điểm chính của Đc Điền : 1) Không có tự do tôn giáo thực sự và 2) vì thế mà có những vụ như Vinh Sơn hay Phật giáo Ấn Quang.
Về điểm 1) ông Nguyễn Văn Chì khẳng định chính sách tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng trước sau như một của Đảng. Không có mâu thuẫn giữa văn bản và thực hành. Tuy nhiên ông công nhận còn có những thiếu sót cần khắc phục. Những thiếu sót này một phần đến từ phía “một số cán bộ cách mạng do trình độ còn non kém hoặc do chưa hết thành kiến mà làm sai đường lối chính sách”, nhưng cũng đến từ “hố sâu ngăn cách, chia rẽ, thành kiến lương giáo do bọn đế quốc và tay sai tạo ra hơn 100 năm nay”. Hơn nữa, hiện nay, bọn đế quốc “vẫn tiếp tục lợi dụng khai thác những thành kiến vốn dĩ do chúng tạo ra đó để kích động những hành động chống phá cách mạng trong các tôn giáo ; đặc biệt trong Thiên Chúa giáo”. Cho nên, đồng bào công giáo hiện nay cần phải có sự cố gắng và nỗ lực vượt bực, vượt lên mọi trở ngại để phối hợp hành động cùng với chính quyền cách mạng và tất cả những người có thiện chí, kiên quyết đấu tranh cưỡng lại bọn phản động trong thiên Chúa giáo (…) Có thể nói đó là cuộc đấu tranh khẩn trương, gay go quyết liệt, bền bỉ trong lòng dân tộc, trong nội bộ Thiên Chúa giáo và ngay trong từng con người của mình, giữa chánh nghĩa và phi nghĩa”. Dĩ nhiên, chánh nghĩa trong lòng dân tộc là chánh nghĩa của chế độ. Vì vậy ông Nguyễn Văn Chì cũng chẳng ngần ngại nhìn nhận có công dân hạng hai : “Có thể nói thẳng, không cần gì phải giấu giếm là quả có sự phân biệt đối xử và cần có sự phân biệt đối xử với một số người không chịu cải tà quy chính”. Mà cải tà quy chính trong ngôn ngữ của chế độ phải hiểu là trở về với dân tộc ; và trở về với dân tộc phải hiểu là trở về với Cách mạng, với Đảng.
Về điểm 2) ông Chì còn gay gắt hơn nhiều. Ông rất “tin tưởng đồng bào có đạo, cũng như các hàng giáo phẩm chân chính”. Nói cách khác, ông chỉ tin tưởng đồng bào có đạo và các hàng giáo phẩm trong chừng mực họ chân chính theo những tiêu chuẩn của chế độ. Đối với ông, càng theo Đảng, càng chân chính ; tôn giáo chân chính khi tôn giáo phuc tùng Đảng ; giáo phẩm chân chính khi giáo phẩm quỵ luỵ, luồn cúi Đảng. Đc Điền nói : “Theo thiển ý của tôi, nếu còn tựa vào tôn giáo để xách động này khác là vì chưa có tự do tín ngưỡng đó thôi”. Ông Chì không hiểu nổi điều đó, vì đối với ông, Đảng trước sau như một bảo vệ tự do tín ngưỡng cho những ai theo gót Đảng. Ông cho rằng luận điểm của Đc Điền chỉ “lập lại luận điệu của bọn đế quốc Pháp và Mỹ” : nhân danh tự do tín ngưỡng “để cho phép mình làm hoặc bênh vực cho những hành động bỉ ổi xấu xa nhất, phi đạo nhất (…) Những người làm như thế, bênh vực như thế không những làm mất phẩm giá của mình, mà còn làm mất phẩm giá của đồng đạo, của đạo lý mà chính tác giả hai bản văn đang tín ngưỡng. Làm như thế, là nhân danh tự do tín ngưỡng để khuyến khích mọi hành động phản cách mạng, mọi hành động xấu xa phi đạo đức”. Phản cách mạng là xấu xa, phi đạo đức. Thiện là Cách mạng, Ác là chống lại Cách mạng. Tgm Huế Nguyễn Kim Điền, theo những lời cáo buộc của ông Nguyễn Văn Chì, đã đánh mất phẩm giá của mình. Tệ hơn nữa, đã làm mất phẩm giá của đồng đạo (vẫn cái lối ‘tội’ cá nhân, trách nhiệm tập thể !) và của đạo Công giáo !
Gần ba mươi năm sau, đọc lại những lời kết án này, thật khó hình dung nổi thái độ u mê, trâng tráo và cường bạo của Đảng cộng sản Việt Nam hồi đó.
Qua cách lên án Đc Điền, chính quyền cộng sản đe doạ mọi tôn giáo, đặc biệt hàng giáo phẩm công giáo. Dĩ nhiên, Đc Điền không thay đổi thái độ. Giữa Nhà nước CHXHCNVN và Thiên Chúa, đương nhiên Đức cha chọn Thiên Chúa và trước những đòi hỏi phản tự do, phản nhân quyền, phản đạo lý của Đảng CSVN, Đức cha chỉ có thể trả lời : Non possumus. Chúng tôi không thể. Và sẵn sàng đón nhận mọi hậu quả. Trong lá thư gửi cho linh mục, tu sĩ và giáo dân ngày 19-10-85, Đức cha viết : “Năm 1971, tại Thượng Hội đồng giám mục Thế giới, tôi có phát biểu : “Đã có những giám mục chịu chết vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh, nhưng ngày nay có giám mục nào dám chịu chết để bênh vưc quyền lợi của con người không ?” Hạnh phúc thay ! Hôm nay chính tôi được Chúa gọi để chịu tù ngục, chịu chết vì bênh vực nhân quyền, công lý và công bình”
Người ta đã bắt Tgm Huế đi làm viêc, đã chặt chân chặt tay của ngài. Những người công tác gần gũi của ngài bị thẩm vấn, bắt bớ, giam cầm như lm Nguyễn Văn Lý, lm Trần Văn Quý, nữ tu Trương Thị Lý…
Cuối cùng, Đc Nguyễn Kim Điền đã chết một cách khả nghi tại bênh viện Chợ Rẫy ngày 8.6.1988.
Đỗ Mạnh Tri.
Paris 29.04.2005.
30- Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền,
một niềm tin sắt son không dời đổi
Trần Phong Vũ, 04-2005 (trích “Hai diện mạo, một tấm lòng”)
Trước khi dẫn vào bài viết:
Sau ngày cộng sản thôn tính miền nam, thống nhất lãnh thổ Việt nam về một mối[6], dù muốn hay không, cũng như các tôn giáo bạn và các khối lực dân tộc khác, tập thể Công Giáo đã không tránh khỏi những tác động về nhiều mặt. Trong tình huống ấy, giữa các giám mục và nói chung, trong giáo hội, đã nảy sinh ít nhất hai khuynh hướng ứng xử khác nhau:
1/ Bám trụ trên nền tảng Tin Mừng, với thiện chí và tâm tình ngay thẳng, chân thành cộng tác với tân chế độ trong tinh thần yêu thương, liên đới để cùng nhau xây dựng lại quê hương đổ nát. Nhưng sau một thời gian, vì thiện chí không được đáp ứng, trái lại càng ngày nhà cầm quyền mới càng để lộ rõ chủ trương chèn ép, bách hại tôn giáo, nên đã dứt khoát tỏ bày thái độ cương quyết sống và bảo vệ đức tin, cho dẫu có vì thế mà phải gánh chịu thương đau.
2/ Chấp nhận thỏa hiệp cách này hay cách khác với chế độ để sống còn, mà mục tiêu trước mắt là tránh những tai hại, những đổ vỡ về nhân sự, về cơ cấu, tổ chức.
(Ở đây người viết không muốn nói tới một khuynh hướng ứng xử thứ ba gồm những thành phần ‘ăn theo’[7] nhà nước, tự biến thành con cờ trong Mặt trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng, gồm một nhúm giáo dân và giáo sĩ quy tụ chung quanh Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước, hậu thân của Ủy Ban Liên Lạc Toàn Quốc Những Người Công Giáo Yêu Nước, Yêu Hòa Bình, từng có mặt tại miền bắc Việt Nam sau tháng 7 năm 1954).
Đi sâu vào hệ quả của hai cung cách ứng xử kể trên để mổ xẻ, nhận định hoặc phê phán không phải là trọng tâm bài viết này.
Với những chứng từ giới hạn có được trong tầm tay, người viết muốn giới thiệu tới những lớp người trẻ hôm nay hai khuôn mặt biểu trưng cho một lập trường, một tấm lòng thiết tha yêu mến và trung thành với Hội Thánh giữa những năm tháng dài huyết hãn trên quê hương. Một thuộc hàng Giáo Phẩm và một thuộc hàng tín hữu giáo dân.
Đó là đức cha Nguyễn Kim Điền, Tổng Giám Mục Giáo phận Huế và người tín hữu giáo dân mang tên Nguyễn Văn Chất. Cả hai tuy ở trong những cảnh ngộ, điều kiên, địa vị khác nhau và nay đã ra người thiên cổ, đã trở về cùng Thiên Chúa, nhưng lời nói, hành vi và thái độ sống vẫn còn để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng mọi người.
TỔNG GIÁM MỤC NGUYỄN KIM ĐIỀN,
MỘT NIỀM TIN SẮT SON, KHÔNG DỜI ĐỔI
Trước khi bàn về con người, tư duy, thái độ và hành động của đức cha Nguyễn Kim Điền, tổng giám mục (TGM) Huế, nhân vật số ba trong hàng ngũ lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Việt Nam (GHCGVN) thời bấy giờ -sau đức hồng y Trịnh Như Khuê cai quản tổng giáo phận (TGP) Hà Nội và đức cha Nguyễn Văn Bình, TGP Sài Gòn-, chúng ta cần biết qua vài nét về thân thế và sự nghiệp của ngài.
Đôi giòng tiểu sử
· Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền sinh ngày 13-3-1921 tại Gia Định, là người con thứ tư trong một gia đình gồm 7 anh chị em.
· Ngày 21-9-1947 thụ phong Linh Mục tại Sài Gòn, làm Giáo Sư rồi Giám Đốc Chủng Viện Thánh Giuse.
· Năm 1955, gia nhập dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu theo tinh thần Chân phước Charles de Foucauld, qua Phi Châu sống tập thể với các tu sĩ Dòng tại sa mạc Sahara.
· Hai năm sau trở về Việt Nam và lần lượt phục vụ tại Sài Gòn, Lâm Đồng, Cần Thơ, sinh hoạt mục vụ với người nghèo trong các xóm lao động, đạp xích lô để tự túc.
· Ngày 28-12-1960 được Tòa Thánh Vatican bổ nhiệm làm Giám Mục Cần Thơ (39 tuổi). Lễ tấn phong tại Sài Gòn ngày 22-01-1961.
· Ngày 30-9-1964, làm Giám Quản TGP Huế thay thế Đức TGM Phêrô Ngô Đình Thục.
· Ngày 11-3-1968, chính thức được Tòa thánh đặt vào chức vụ TGM Huế.
· Sau 30-4-1975, ngài bày tỏ một thái độ tuyệt đối trung thành với Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo, quyết liệt phản đối chính sách tiêu diệt tôn giáo, cách riêng đối với Giáo Hội Công Giáo, của CSVN.
· Ngày 8-11-1985, cảm thấy cái chết có thể đến với ngài bất cứ lúc nào nên ngài đã viết di chúc ngắn để lại cho các Linh Mục: "khuyên các cha hăy trung thành với Hội Thánh và đoàn kết với nhau, sống trọn vẹn bổn phận của chủ chăn nhân hiền..."
· Ngày 25-3-1988, ngài viết một bức thư gởi cho ông Nguyễn Văn Linh, sau khi ông nay được bầu làm Tổng Bí Thư đảng CSVN và tuyên bố chính sách "đổi mới"... Nội dung bức thư đòi xóa bỏ lệnh quản chế, được phục hồi quyền công dân, được tự do đi lại để thi hành nhiệm vụ Tổng Giám Mục đối với giáo dân và thăm viếng các Giáo Phận khác thuộc Tổng Giáo phận Huế.
· Cuối tháng 5/1988, ngài đau nặng, xin vào điều trị tại bệnh viện Nguyễn Trãi, Chợ Lớn. Có hai vị Giám Mục đã đến thăm và khuyên ngài nên xin vào bệnh viện Chợ Rẫy để có thể xét nghiệm và làm hồ sơ xin đi chữa bệnh tại Roma. Lúc đó cũng có tin Tòa Thánh đã can thiệp xin cho ngài qua Roma chữa bệnh nên ngài đồng ý qua bệnh viện Chợ Rẫy.
· Khoảng 13 giờ trưa 8-6-1988, ngài qua đời trong cô đơn tại đây. Có những nguồn dư luận cho rằng, Đức TGM Nguyễn Kim Điền đã bị đầu độc!
Vui mừng, phấn khởi, sẵn sàng hợp tác
Là một người xuất thân dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu, trước và sau khi nhận chức linh mục, đức cha Nguyễn Kim Điền luôn noi gương thày mình, sống thân cận với giới cần lao nghèo khó. Nhiều chứng từ còn lưu lại cho biết ngài từng hành nghề đạp xích lô trong nhiều năm trên đường phố Sài Gòn, Chợ Lớn để sinh sống. Vì thế, về mặt lý thuyết thuần túy, chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít không có điều gì úy kỵ đối với người mục tử hiền hòa, khiêm tốn và khả ái này. Năm 1967, nhân dịp tham dự hội nghị Caritas Internationalis ở Rôma, đáp câu hỏi của một nhà báo Ý muốn biết quan điểm của ngài đối với người cộng sản Việt Nam, đức cha đã thẳng thắn trả lới: “Là giám mục Công giáo, tôi không theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng tôi coi những người cộng sản Việt Nam như anh em tôi”[8].
Câu trả lời trên đây mang ý nghĩa gì?
Trong tinh thần vâng phục, đức cha dứt khoát không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, vì giáo huấn của Giáo Hội dạy như thế. Đó là chuyện tất nhiên. Nhưng, trong mối tương quan giữa người với người, giáo lý yêu thương của Chúa Giêsu nhắc nhở ngài phải coi mọi người, nhất là người Việt nam, như anh em, cho dẫu họ là cộng sản[9].
Chính do não trạng trên đây mà ngay từ những ngày đầu khi cộng quân tiến vào cố đô, vị chủ chăn Tổng Giáo phận Huế đã bày tỏ thiện chí và một thái độ chân thành, cởi mở, sẵn sàng cộng tác với chế độ mới để cùng nhau xây dựng lại quê hương sau những năm dài chinh chiến. Bên trong ngài thiết tha kêu gọi hàng ngũ giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi úy kỵ đối với nhà cầm quyền mới. Bên ngoài, ngài công khai nói lên lòng tín thác nơi thành tâm, thiện chí (được thể hiện qua Hiến Pháp cũng như qua những văn kiện công khai) của giới hữu quyền ‘cách mạng’ lúc bấy giờ.
Vì TGP Huế nằm ở cực bắc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, nên cũng là nơi đoàn quân xâm lược phương bắc kiểm soát được đầu tiên vào ngày 26-3, trước khi kết thúc cuộc trường chinh thôn tính trọn miền nam Việt Nam vào ngày 30-4-1975.
Trong Tâm Thư đề ngày 01 tháng 4 năm 1975 gửi các linh mục, tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân trong TGP, đức cha Nguyễn Kim Điền viết:
“Chiến tranh đã chấm dứt trên Giáo phận Huế Đó là điều chúng ta mong ước và cầu nguyện từ ba mươi năm nay. Thời gian sống trong hãi hùng, lo âu qua rồi. Thời gian đồng bào chúng ta nghi kỵ, chia rẽ, hận thù nhau, có khi đến chém giết nhau đã qua rồi. Chúng ta hãy cùng cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân quý giá này.....
“Giờ đây đã đến lúc chúng ta hoan hỉ sẵn sàng và hăng say cộng tác với mọi người thiện chí, dưới sự chỉ đạo của Chánh quyền Cách mạng để xây dựng lại quê hương sau bao đổ vỡ tang tóc, hầu đem lại tự do, no ấm và hạnh phúc cho đồng bào ruột thịt. Hơn bao giờ hết, đây là lúc chúng ta cần đoàn kết, yêu thương và phục vụ người khác, giúp đỡ và chia sẻ cơm áo với đồng bào, không phải chia sớt những gì mình dư thừa, mà còn trao nhượng những gì mình chỉ có vừa đủ, theo tinh thần bác ái của Chúa Giêsu mà mọi người thiện chí và mọi chính quyền trên thế giới quyết tâm thực thi mỗi ngày mỗi hoàn hảo hơn.....Giờ đây, chúng ta hãy khoan dung, tha thứ mọi lỗi lầm, đừng nghi ngờ, thù hận ai và gây sợ hãi cho ai. Nhưng trái lại, phải hiểu tốt, thông cảm và nhìn nhận thiện chí của người khác, để tất cả mọi người sống thoải mái, vui tươi, hạnh phúc của những công dân trong chế độ dân chủ, thịnh vượng và hòa bình...”
Trong bài phát biểu 8 ngày sau đó nhân buổi lễ ra mắt Ủy Ban Mặt Trận Nhân Dân thành phố Huế (09-4-1975), Đức TGM nói: “Ở đời này, không có gì quý hơn mạng sống con người... Độc lập hôm nay là một sự thực cho cố đô Huế. Còn tự do thì Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam đã long trọng bảo đảm cho toàn thể đồng bào, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào các tôn giáo.”
Sau khi tỏ bày niềm vui mừng của người Công Giáo Việt Nam khi thấy mọi quyền năng căn bản của con người -hàm súc trong những nghị quyết, những văn kiện của nhà nước-, được đảm bảo, ngài cam kết:
“Người Công Giáo nguyện tích cực góp phần với tất cả đồng bào ruột thịt để cùng với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng xây dựng một xã hội đầy tình thương, tự do, dân chủ, thịnh vượng, hòa bình, trong đó chúng tôi có cơ hội chu toàn bổn phận đối với Tổ Quốc và đối với Thiên Chúa”.
Chúng ta đọc được thành tâm thiện chí và tâm trạng vui mừng thật sự của đức cha Điền trong những lời phát biểu trên đây. Nhưng, qua ngôn từ, người cầm đầu TGP Huế vẫn không quên đưa ra những lời ràng buộc, và ẩn sâu trong đó gói trọn ước mơ của tuyệt đại đa số đồng bào Việt Nam –trong số có tập thể công giáo dân- về một xã hội đầy tình thương, tự do, dân chủ, thịnh vượng để người Công Giáo có cơ hội chu toàn bổn phận đối với Tổ Quốc và Thiên Chúa.
Trong hai năm thử nghiệm, những khó khăn bắt đầu ló dạng
Trong suốt hai năm trường, từ tháng 4-75 đến tháng 4-77, cùng với các linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân trong Tổng Giáo Phận, đức cha Điền luôn tìm mọi cơ hội để chứng tỏ với nhà nước thiện chí của người công dân Công Giáo muốn đóng góp công sức cùng các giới đồng bào trong công cuộc tái thiết xứ sở. Theo lời thuật lại của một số người thân cận với đức TGM Nguyễn Kim Điền trong thời gian ấy thì không phải chỉ trong lúc xuất hiện nơi công cộng, mà ngay cả trong những tiếp xúc riêng tư, đức cha luôn khuyên bảo mọi người đừng bao giờ quên mình là người Công Giáo, là con cái Chúa, trong khi phán đoán, đối xử với người chung quanh, nhất là đối với những viên chức nhà nước. Điều ngài thường tâm niệm và công khai nhắc nhở các linh mục, tu sĩ cũng như giáo dân là đừng bao giờ nuôi thành kiến xấu về bất cứ ai. Mọi phán đoán hãy để cho Thiên Chúa, hãy cố gắng nhẫn nhục, sống hòa hợp với mọi người, mọi giới trong tinh thần yêu thương, liên đới như lời Chúa dạy. Đức Cha tin rằng, sớm hay muộn, nếu mình cứ kiên nhẫn, luôn bày tỏ thiện chí, sẽ có ngày người ta sẽ hiểu.
Nhưng, mọi chuyện đã không diễn ra suông sẻ như ngài hằng thành tâm mong ước.
Càng ngày càng phát hiện nhiều khó khăn, trở ngại trong sinh hoạt phụng tự, từ trung ương cho tới các địa phương. Trong khi trên lý thuyết, xuyên qua những văn kiện, sắc lệnh, nghị định, kể cả Hiến Pháp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa với những điều 67, 69, 70, 71 công nhận những quyền tự do phổ quát và quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng của người dân, thì trên thực tế những hành vi chà đạp cách trắng trợn lên những quyền này diễn ra từng ngày, từng giờ tại khắp các địa phương. Dĩ nhiên không phải chỉ trong phạm vi TGP Huế. Nhiều giáo đường, tu viện bị trưng dụng hoặc bị cấm hành lễ. Việc tuyển chọn và đào tạo tu sinh tại các chủng viện cũng như việc bổ nhiệm, di chuyển của các linh mục, tu sĩ bị hạn chế gắt gao, khiến cho giáo dân ở những vùng sâu, vùng xa, nhất là tại những vùng kinh tế mới không có Thánh Lễ, không được lãnh nhận các bí tích Thánh.
Khi vấn đề được nghiêm chỉnh đặt ra với Ủy ban Nhân dân tỉnh thì nơi đây lại quy trách cho chính quyền trung ương hoặc địa phương. Và cái vòng luẩn quẩn ấy cứ lập đi lập lại, tạo nên một không khí căng thẳng trong mối tương quan giữa cán bộ nhà nước và tập thể đồng bào Công giáo ở nhiều nơi trong TGP. Từng bước một, nhà nước lần hồi tạo sức ép để cưỡng bách chiếm dụng các trường ốc, tu viện và các cơ sở xã hội vốn là sở hữu của giáo phận, trong khi vẫn không ngừng kiểm soát gắt gao những sinh hoạt phụng tự, từ sự di chuyển của linh mục, tu sĩ tới các buổi hội họp của các đoàn thể giáo dân.
Cũng trong thời gian ấy, nhiều biến cố quan trọng đã nổ ra ở trong nam. Sau vụ các lực lượng an ninh nhà nước tấn công nhà thờ Vinh Sơn, bắt giam một số linh mục, tu sĩ hồi tháng 2-1976, đầu năm 1977, công an vũ trang lại mở cuộc bao vậy các chùa chiền thuộc hệ phái Phật giáo Ấn Quang, bắt bớ một số tăng sĩ cùng tín đồ!
Những tiếng nói của lương tâm
Là chủ chăn, là người có trách nhiệm trực tiếp đối với đời sống tâm linh của giáo dân trong Tổng Giáo phận Huế, Đức Cha Nguyễn Kim Điền đã nhân cơ hội này mạnh mẽ lên tiếng. Một mặt để tỏ bày tình liên đới với Giáo Hội bạn, mặt khác để nói lên quan điểm của ngài trước những hành vi chèn ép tôn giáo, vi phạm nhân quyền của nhà nước. Ngày 15 tháng 4 năm 1977, nhằm hù dọa và cũng để trấn áp dư luận, Mặt Trận Tổ Quốc Bình Trị Thiên đã tổ chức một cuộc họp với thành phần tham dự gồm đông đảo các nhà lãnh đạo các tôn giáo, trong số có đức TGM Nguyễn Kim Điền. Cuộc họp nhằm thông báo và giải thích chủ trương, chánh sách của đảng và nhà nước cộng sản chung quanh vụ bao vây và bắt giữ 6 tăng sĩ thuộc hệ phái Phật Giáo Ấn Quang ở Sài Gòn trước đó ít hôm.
Được yêu cầu phát biểu cảm tưởng trong dịp này, vị chủ chăn TGP Huế đã minh nhiên nói lên quan điểm của ngài về hai vấn đề quan trọng:
Thứ nhất là quyền tự do tôn giáo
và thứ hai là quyền được đối xử bình đẳng của người công dân[10].
Trước khi dẫn vào những nhận định rốt ráo về tình trạng tự do tôn giáo và quyền bình đẳng của người công dân bị tước đoạt, ngài tóm tắt mục đích và nội dung cuộc họp do MTTQ Bình Trị Thiên triệu tập. Mở đầu phần phát biểu, đức cha nói:
“Tôi vừa được nghe vụ bắt bớ 6 vị lãnh đạo Phật Giáo qua tin tức mà Ủy Ban Nhân Dân thành phố Huế và đại diện Mặt Trận vừa cho hay ngày hôm nay. Tôi cũng vừa nghe ông Trần Văn Long, đại diện chính phủ tại thành phố HCM cho biết là chính quyền phải áp dụng biện pháp mạnh đối với Phật giáo. Tôi cũng vừa được nghe ý kiến của những vị tham dự buổi họp hôm nay phát biểu về chuyện vừa xảy ra và theo ý kiến của những vị này chúng ta có bổn phận phải làm cho nhân dân sáng tỏ vấn đề....
“Cá nhân tôi... tôi chỉ muốn san sẻ với các vị lãnh đạo Phật giáo những kinh nghiệm mà trước đây chúng tôi đã phải chịu trong vụ Vinh Sơn[11] (chính quyền đã bố ráp nhà thờ Vinh Sơn tại thành phố HCM và một số tu sĩ Công giáo cũng như tín đồ đã bị bắt, bị buộc tội là chống chính phủ). Chúng tôi chắc chắn là không có ai trong buổi họp này có thể chấp nhận hành động của chính phủ được diễn tả trong bản thông cáo của chính phủ. Chúng tôi không thể không đau khổ khi những việc như vậy xảy ra cho những người có tín ngưỡng. Làm thế nào để diễn tả tâm trạng của chúng ta? Chỉ những người nào đã trải qua những kinh nghiệm tương tự mới có thể biết sự đau khổ như thế nào... Sự kiện mà chính phủ vừa giải thích cho chúng ta nghe, chỉ là một sự kiện đơn độc. Nhiều chuyện như vậy đã xảy ra và còn sẽ xảy ra trong tương lai, nếu chúng ta không giải quyết nguyên nhân căn bản của nó. Theo thiển kiến của chúng tôi nếu quả thực có những cộng đồng tôn giáo gây rối loạn thì chỉ vì không có tự do tín ngưỡng. Thẳng thắn mà nói, tôi không thỏa mãn với chính phủ về chánh sách tự do tín ngưỡng”.
(Xin mở dấu ngoặc để nói thêm là trong một hoàn cảnh, một điều kiện nhất định nào đó, nhà nước có thể để cho những cá nhân phát biểu ý nghĩ của mình, dĩ nhiên là trong một phạm vi riêng rẽ, có giới hạn –giới hạn về số người và về thành phần hiện diện-. Mục đích là để làm giảm tình trạng căng thẳng có thể dẫn tới những phản ứng giây chuyền gây nguy hiểm cho chế độ, và cũng có thể mang ẩn ý là tạo cơ hội để lộ ra những khuôn mặt chống đối, nhất là những khuôn mặt tiêu biểu, có ảnh hưởng trong hai tôn giáo lớn là Phật Giáo và Công giáo, hầu chuẩn bị biện pháp ứng phó sau này. Nhưng nếu những ý kiến phát biểu này lại được ghi lại rồi phổ biến rộng rãi trong dư luận như đức cha Điền đã làm sau đó thì đấy là điều cấm kỵ đối với đảng và nhà nước cộng sản. Cho nên người ta không ngạc nhiên là chỉ trong vòng 100 ngày sau khi văn bản ghi lại nội dung những lời phát biểu của đức cha trong cuộc họp do MTTQ Bình Trị Thiên triệu tập ngày 15-4-77 và trong dịp trao đổi ý kiến để đóng góp cho bản dự thảo “Đề cương báo cáo của đảng bộ Bình Trị Thiên” một tuần sau, được phát tán trong quần chúng thì Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố HCM đã gửi tới đức TGM Nguyễn Văn Bình một văn kiện dài với tiêu đề “Nhận Định Về Hai Bản Văn ghi lại Lời Phát Biểu của TGM Nguyễn Kim Điền”. Mục tiêu của văn kiện nhằm phản bác và mạt sát những ý kiến thẳng thắn của đức cha Điền hầu chặn đứng ảnh hưởng tai hại (dĩ nhiên là tai hại đối với đảng và nhà nước) trong dư luận đồng bào trong cũng như ngoài Công Giáo).
Trở lại với lời phát biểu của đức TGM Nguyễn Kim Điền tại MTTQ Bình Trị Thiên. Sau phần nhập đề với những ý nghĩ thẳng thắn kể trên, Đức Cha đã công khai nói lên những cảm nghĩ tiêu cực của ngài đối với hai vấn đề (1) quyền tự do tín ngưỡng và (2) quyền bình đẳng của người công dân.
Về điểm một, ngài nói:
“Sau ngày giải phóng, tôi được nghe chính phủ tuyên bố về chánh sách tự do tín ngưỡng, tôi rất sung sướng và phấn khởi... Nhưng hai năm đã qua, tôi không còn cảm thấy sung sướng nữa, vì thực ra tự do tôn giáo không có”.
Để dẫn chứng là quyền tự do tín ngưỡng đã bị xâm phạm, đức cha cho hay:
“Những buổi hành lễ đã bị hạn chế và các tu sĩ Thiên Chúa Giáo không được phép di chuyển để phục vụ nhân dân Thiên Chúa. Thí dụ, họ không được đến những vùng kinh tế mới để làm lễ. Nhiều nhà thờ đã bị chiếm và những nhà thờ khác không được phép làm lễ...”
Qua vấn đề thứ hai là quyền bình đẳng của người công dân, vị chủ chăn TGP Huế nói:
“Suốt trong hai năm qua, xin quý vị cho tôi được phát biểu ý kiến một cách ngay thẳng: người Công giáo chúng tôi không thấy thoả mãn một tí nào. Họ làm gì, họ ở đâu cũng cảm thấy bị chèn ép, bị lấn lướt. Tại nhà trường, sinh viên, học sinh đã phải nghe những lời phỉ báng Công giáo, giáo sư đã nhục mạ Công giáo... Đối với những công nhân, viên chức, giáo sư, cán bộ xã hội Công giáo, mặc dầu họ là những công dân tốt, họ cũng không được phép tiếp tục những công việc của họ, chỉ vì họ là người Thiên Chúa Giáo. Nếu là một người Công giáo thì bị từ chối công việc. Khi muốn biết lý do tại sao như vậy, họ sẽ được nói riêng là nếu họ bỏ đạo Thiên Chúa hoặc đừng đi nhà thờ nữa, họ sẽ không còn gặp khó khăn! [12]”
Chẵn một tuần sau, nhân buổi họp để thu góp ý kiến cho bản dự thảo “Đề Cương báo cáo của Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên” ngày 22-4-77, khi được yêu cầu phát biểu, đức cha Nguyễn Kim Điền đã nhân cơ hội này khai triển thêm những suy tư của ngài về vấn đề tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng[13]. Theo đức cha thì
“nếu có tự do tín ngưỡng thì năng xuất của đồng bào Công Giáo sẽ lên cao lắm. Thực thỉ có chính sách tự do tín ngưỡng bằng văn bản đó (có 5 sắc lệnh và thông tư về tôn giáo). Nhưng trong thực tế vẫn có những khẩu lệnh đi ngược lại với chính sách”.
Sau khi nhắc lại lịch sử 2000 năm Giáo Hội Công Giáo với những cuộc bách hại kinh hoàng từ thời đế quốc La Mã qua những triều Minh Mạng, Tự Đức ở xứ ta để minh chứng không có sức mạnh nào có thể triệt hạ được niềm tin Kitô giáo, Ngài nói:
“Đạo ở trong lòng, cho dù bề ngoài không còn di tích gì nữa nhưng còn trong lòng, không ai động đến được. Có thể giết xác nhưng không thể giết được lòng. Quan niệm của nguời Công giáo là như vậy.
“Hôm qua có môt vị phát biểu đã nghe Hồ Chủ Tịch thường căn dặn cán bộ trí thức rằng: ‘Lao động trí óc mà không lao động chân tay, hoặc lao động chân tay mà không lao động trí óc thì là một người bán thân bất toại’. Câu nói đó rất chí lý và sáng suốt. Thì cũng vậy, con người chỉ thoải mái về vật chất mà không thoải mái về tín ngưỡng thì cũng là con người bán thân bất toại vậy. Nhưng không phải tự họ muốn mà là bị ép buộc bán thân bất toại. Như thế ích gì cho tổ quốc?
Nhấn mạnh vế yếu tính đạo Công giáo là đạo không hệ tại ở giàu sang vật chất mà là một đạo nghèo, đức cha Nguyễn Kim Điền nói:
“Có những người nghĩ là Công giáo tồn tại nhờ dựa trên kinh tế, trên thế lực. Không phải vậy mà ngược lại. Đấng lập đạo Công Giáo nói: ‘Con chồn có hang, con chim có tổ. Ta không có chỗ gối đầu’. Và người còn chủ trương một điều mà trên đời không mấy ai chấp nhận là ‘Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó’. Thật vậy, khi nào vinh sang, có nhiều của cải là lúc Công giáo yếu nhất, ngược lại Công Giáo càng nghèo khó, túng thiếu bao nhiêu thì càng mạnh bấy nhiêu”.
Kết thúc phần phát biểu, vì hiểu rõ ý đồ của đảng và nhà nước sẽ tìm mọi thủ đoạn để chiếm dụng những nơi thờ phượng, nên người lãnh đạo giáo dân TGP Huế minh xác:
“Về nhà thờ thì dù lớn nhỏ, xấu tốt thì cũng đã dâng cho Thiên Chúa rồi, không thể xâm phạm được, cũng như không thể xâm phạm lăng của Hồ Chủ Tịch vậy”.
Áp dụng ngón đòn ‘gậy ông đập lưng ông’, trước phản ứng của đảng và nhà nước cộng sản xuyên qua việc gửi tới đức cha Nguyễn Văn Bình, TGM Sàigon vào đầu tháng 8-77 “Bản Nhận Định Về Hai Bản Văn Ghi Lại Lời Phát Biểu Của TGM Nguyễn Kim Điền”, ngày 27-10-77, ngài công khai gửi tới Ủy Ban MTTQ Bình Trị Thiên một văn thư với lý do biểu kiến là để đáp lại những lời cáo buộc trong bản nhận định, nhưng dụng ý chính là đề xác định thêm một lần nữa trước công luận quan điểm của ngài đối với tệ trạng tự do tín ngưỡng và quyền bình đẳng của người công dân không được bảo đảm.
Thay vì hai bản văn ghi lại lời phát biểu ngày 14 và 22-4 chỉ được phổ biến ‘chui’, trong văn thư ngày 27-10 đức cha Nguyễn Kim Điền đã đề nghị nhà cầm quyền công khai hóa bức thư giải thích này cho giáo dân toàn giáo phận, cho đồng bào ngoài CG, không những tại địa phương Huế mà trên toàn lãnh thổ Việt Nam, kể cả những cơ quan truyền thông ngoại quốc từng nói tới nội dung hai bản văn phát biểu hồi tháng 4-77 của ngài. (Và dĩ nhiên lời đề nghị này của đức cha chẳng bao giờ được nhà nước nghe theo).
Trong suốt năm 1978, bằng những phương tiện thông tin tuyên truyền trong tay, nhân danh việc thống nhất chương trình giáo dục của đảng và nhà nước, giới hữu quyền liên hệ tại Huế, tại Sài Gòn và khắp các địa phương, liên tiếp đưa tin là sẽ có những biện pháp mới nhắm vào các cơ sở đào tạo những tu sinh thuộc mọi tôn giáo. Ngày 16-3-1979, Ủy Ban Nhân Dân Bình Trị Thiên chính thức công bố Quyết định số 284-QĐ-/NC nói là để “giúp Giáo Hội Thiên Chúa tổ chức lại các trường tôn giáo theo đúng tinh thần Nghị Quyết 297/CP của Hội Đồng Chính Phủ”. Bản sao Nghị định đã được thông báo cho tòa Tổng Giám Mục Huế. Trong điều 2, Nghị định ghi rõ như sau:
“Trường phải nhằm đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo tốt, đủ trình độ và tư cách phục vụ đồng bào có đạo ngày nay là những người chủ tập thể của đất nước đang xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Sau khi được tổ chức lại đúng theo tinh thần Nghị Quyết 297/CP, và được Ủy Ban Nhân Dân tỉnh chấp thuận, trường sẽ được coi tương đương như một trường đại học chuyên nghiệp, do hệ đại học chuyên nghiệp quản lý, có chiếu cố tính chất nhà trường là một trường tôn giáo”
Điều 3, Nghị định nhấn mạnh:
“Chậm nhất đến ngày 15-4-1979 mọi phương án mới về tổ chức và nội dung giảng dạy của nhà trường và về quy hoạch đào tạo v.v...phải được xây dựng xong trình Ủy Ban Nhân Dân tỉnh xét để đến tháng 6-1979 trường mới sẽ chính thức thay thế các trường cũ”.
Đọc kỹ những điều trên đây, với suy luận bình thường ai cũng nhận ra những lắt léo, cạm bẫy hàm chứa trong đó. Ngoài ẩn ý mặc nhiên chiếm dụng hệ thống chủng viện của Giáo Hội ở địa phương, đảng và nhà nước muốn trực tiếp thọc sâu bàn tay can thiệp vào vấn đề nhân sự cũng như việc thiết lập học trình cho các chủng viện, điều mà những năm sau này ai cũng biết[14]
Sau khi nhận được Nghị Định kể trên, ngày 17-5-1979, đức TGM Nguyễn Kim Điền đã gửi tới Ủy Ban Nhân Dân Bình Trị Thiên một văn thư phúc đáp.
Tiếp theo phần viện dẫn những đòi buộc theo Giáo lý Thánh kinh (Ơn Thiên Triệu làm linh mục hoàn toàn thuộc quyền Thiên Chúa và Hội Thánh), theo Giáo luật (GL các số 1358-1371 quy định việc thiết lập hệ thống tiểu và đại chủng viện), và Giáo lý Công đồng Vaticanô II (quyền đào tạo chủng sinh, vấn đề truyền chức, thuyên chuyển linh mục của Hội Thánh), vị lãnh đạo tinh thần TGP Huế nhấn mạnh:
“Những nguyên tắc và quy luật trên là kinh nghiệm ngàn đời của Hội Thánh nói chung, và của Giáo phận Huế từ mấy trăm năm qua, nói riêng. Vậy, nếu phải tổ chức các chủng viện Công giáo theo Quyết Định của Ủy Ban số 284-QĐ/NC thì các chủng viện ấy sẽ đi ngược lại những điều trên”.
Cùng với Quyết Định số 284-QĐ/NC ngày 16-3-79 đề ra chính sách tổng quát nhằm xâm nhập hệ thống giáo dục tại các chủng viện Công Giáo Huế, ngày 13-12-1979, Ủy Ban Nhân Dân Bình Trị Thiên tiến thêm một bước bằng cách công bố Quyết Định 2342-QĐ/UB trắng trợn cướp đoạt tiểu chủng viện Hoan Thiện mà dưới mắt đảng và nhà nước cộng sản, cơ sở đào tạo chủng sinh này của TGP Huế chỉ là một ‘trường học tư thục’ mà thôi.
Tham chiếu chỉ thị “số 221 của Ban bí thư Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam về công tác cải tạo nền giáo dục của Mỹ Ngụy nói chung và việc cải tạo trường tư nói riêng”, Ủy Ban Nhân Dân Bình Trị Thiên quyết định:
“Điều 1: Nay công lập hóa trường Trung học Tư thục Hoan Thiện ở số 11 Đống Đa thuộc thành phố Huế để sử dụng vào mục đích giáo dục”.
Trong văn thư phúc đáp Ủy Ban Nhân Dân Bình Trị Thiên và bản sao gửi Mặt Trận Tổ Quốc[15] đơn vị tỉnh, đức cha Nguyễn Kim Điền đã nhân danh người cầm đầu TGP Huế xác định:
“Tiểu chủng viện Hoan Thiện ở số 11 Đống Đa Huế, tự bản chất là một chủng viện Công giáo tức là nơi thường trú của các tu sinh để tu học hầu trở thành linh mục, điều mà mọi người xưa nay luôn luôn công nhận”.
Theo lời thuật lại của linh mục Phan Văn Lợi thì ngay từ năm 1977, đức TGM Huế đã có một hành vi tự quyết liên quan tới việc khai giảng đại chủng viện tại TGP năm ấy mặc dầu không được phép, khiến nhà cầm quyền cộng sản phải bối rối[16] .
Điều cần biết là ngay tại Sài Gòn, trong thời gian ấy, đức TGM Nguyễn Văn Bình cũng được tống đạt những văn thư tương tự của Ủy Ban Nhân Dân thành phố HCM. Có điều cách phản ứng của ngài không giống như cách phản ứng của người cầm đầu TGP Huế.
Giai đoạn quyết liệt: đối đầu với con cái lạc đường.
Trước tháng 4 năm 1975, do sự thúc đẩy của đảng và nhà nước, một nhóm nhỏ linh mục ở miền bắc đã cho ra đời một tổ chức có cái tên khá dài là “Ủy Ban Liên Lạc Toàn Quốc Những Người CGVN Yêu Tổ Quốc, Yêu Hòa Bình” (UBLLTQ/NNCGVN/YTQ/YHB). Sau 30-4-1975, tổ chức này tìm hết cách để xâm nhập sinh hoạt của tập thể Công Giáo ở miền nam vĩ tuyến 17 nhưng không thành công bao nhiêu. Một phần vì thiếu sự hỗ trợ tích cực của đảng và nhà nước trong giai đoạn đầu còn đang phải đối phó với những khó khăn nội tại. Phần khác vì gặp phải thái độ lãnh đạm của tuyệt đại đa số quần chúng giáo dân miền nam.
Đầu thập niên 80, đã có những dấu hiệu cho thấy nhóm giáo sĩ được giáo dân gọi mỉa mai là nhóm ‘linh mục quốc doanh’ mà người chủ chốt là Nguyễn Thế Vịnh, bắt đầu có những nỗ lực nhằm bành trướng hoạt động và ảnh hưởng của Ủy Ban trên toàn lãnh thổ. Hạ bán niên 1983, linh mục Nguyễn Thế Vịnh với tư cách Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc được giao phó kiêm nhiệm vai trò Chủ Tịch “Ban Trù Bị Đại Hội Toàn Quốc Những Người CGVN” được dự tính tổ chức vào tháng 11 năm ấy.
Được tin trên, ngày 19-10-1983, đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền đã gửi cho linh mục Nguyễn Thế Vịnh một lá thư. Với tâm tình của một chủ chăn luôn trung thành với những giáo huấn của Hội Thánh, ngài thiết tha kêu gọi linh mục Vịnh hãy cẩn trọng xét lại tư cách và việc làm của Ủy Ban. Đức cha nêu lên ba điểm căn bản để yêu cầu hủy bỏ ý định triệu tập đại hội nhằm “mở rộng và đổi mới” hoạt động của Ủy Ban với mục đích được thông báo rộng rãi là để “phù hợp và đáp ứng tình hình và nhiệm vụ cách mạng của dất nước ta trong giai đoạn hiện tại”.
Trong hai điểm đầu, đức cha nhắc lại đặc tính Duy Nhất – Thánh Thiện – Tông Truyền của Giáo Hội Công Giáo để nhấn mạnh tới khía cạnh không thuận tình lý về sự có mặt của một tổ chức mang danh Giáo Hội, nhưng lại nằm ngoài Hội Đồng Giám Mục, cơ cấu nền tảng của Giáo Hội Việt Nam vốn có căn bản pháp lý từ lâu và ngay đến chế độ đương thời cũng không dám minh nhiên phủ nhận. Ngài viết:
“...theo tinh thần Công Đồng Chung Vaticanô II và Giáo luật 1983 thì Hội Đồng Giám Mục mỗi quốc gia có nhiệm vụ hướng dẫn mọi sinh hoạt Công giáo trong quốc gia ấy. Do đó, trong HĐGMVN có các Ủy Ban đặc trách về Phụng tự, về Linh Mục, Tu Sĩ, Chủng Sinh và về Giáo Dân, nghĩa là sinh hoạt của toàn bộ Dân Chúa ở Việt Nam. Vậy phải chăng là thừa và còn dẫm chân lên nhau, nếu Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo không đứng vào trong tổ chức chính thức của Hội Thánh Công Giáo Việt Nam, mà lại thành lập thêm một Ủy Ban riêng rẽ?”
Sang điểm thứ ba, đức cha Điền viết:
“Ai cũng biết Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo ở Trung Quốc đã biến thành giáo hội tự trị, tách lìa khỏi Giáo Hội tông truyền Rôma. Ai cũng biết lực lượng bành trướng từ phương Bắc đã và đang tìm cách phá hoại đất nước chúng ta. Vậy, nếu không cảnh giác, người Công Giáo chúng ta có thể làm công cụ cho họ phá hoại Hội Thánh Công Giáo, điều mà nhà nước ta không muốn, Hội Thánh không muốn và chính chúng ta cũng không ai muốn”.
Bằng văn thư công khai nhắc lại sự kiện trên đây, hiển nhiên đức cha Điền đã không ngần ngại tỏ bày mối ưu tư là những vận động gọi là đổi mới và mở rộng của nhóm LMQD có thể dẫn tới hậu quả tai hại là biến Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thành một Giáo Hội tự trị, xa lìa tính cách tông truyền và thông hiệp với Giáo Hội hoàn vũ, điều đã từng xảy ra cho Giáo Hội Trung Quốc.
Cuối thư, đức cha đề nghị Ủy Ban nên thông qua mọi hoạt động cũng như mọi chương trình, dự tính với Hội Đồng Giám Mục, để “Nếu xét thấy thật có nhu cầu cấp bách, thì HĐGM sẽ xin họp bất thường ngay để cứu xét”.
Ngoài linh mục Nguyễn Thế Vịnh, bản sao lá thư cũng được người cầm đầu tổng Giáo phận Huế gửi tới đức Hồng Y Chủ Tịch HĐGMVN, các đức TGM và GM của từng giáo phận trên toàn quốc ‘để tường’.
Và như chúng ta đã biết, bất chấp lời kêu gọi khẩn thiết của đức cha Nguyễn Kim Điền, cái gọi là “Đại Hội Toàn Quốc Những Người Công Giáo Việt Nam” do UBLLTQ/NNCGVN/ YTQ/YHB dự trù với sự thúc đẩy trong hậu trường của đảng và nhà nước đã được triệu tập vào tháng 11-1983. Sau đại hội, danh xưng mới của Ủy Ban Liên lạc được đổi thành UB/ ĐKCG/ YNVN[17] (một thời gian sau, vì một lý do nào đó, từ ‘Yêu Nước’ được cắt bỏ). Cũng từ đấy tổ chức này đã trở thành một tập hợp được bản tin Tin Nhà[18] mệnh danh là ‘Nhóm trung gian gây nhiễu’ đã tuân theo chỉ thị của đảng và nhà nước tạo ra nhiều khó khăn cho Giáo Hội Việt Nam.
Cũng từ sau đại hội kể trên, một bầu không khí hoang mang, lo sợ bao trùm trên tập thể giáo sĩ và giáo dân miền nam. Với sự hỗ trợ, thúc đẩy tận tình của đảng và nhà nước qua Mặt Trận Tổ Quốc -cơ quan đỡ đầu của UBĐKCGYN-, nhóm linh mục quốc doanh trong nam gồm những khuôn mặt tiêu biểu như ‘tứ nhân bang’[19] Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, Vương Đình Bích, cộng thêm Thiện Cẩm, bắt đầu len lỏi vào từng giáo phận để chiêu dụ giáo sĩ giáo dân thành lập các Ủy Ban địa phương mà mục tiêu không úp mở là gây ảnh hưởng nhằm chi phối mọi sinh hoạt trong các giáo phận theo đường lối, chủ trương của nhà nước. Tờ Công Giáo và Dân Tộc[20] đương nhiên trở thành cơ quan thông tin, tuyên truyền, quảng bá cho chủ trương này. Trong tình huống ấy, các giám mục cai quản các giáo phận đã phải tự chọn cho mình một thái độ ứng xử dựa theo tiếng nói lương tâm của mỗi vị
Riêng tại tổng Giáo phận Huế, bằng văn thư và bằng những lời huấn dụ nghiêm khắc, đức cha Nguyễn Kim Điền đã công khai cấm các linh mục thuộc quyền ngài tham gia UBĐK. Hành động quyết liệt này của người lãnh đạo tinh thần TGP Huế đã trở thành một thách thức nghiêm trọng đối với đảng và nhà nước CSVN lúc ấy.
Nếu hiểu được rằng thực chất UBĐKCGYN chỉ là một bộ phận của MT Tổ Quốc, một con cờ do chế độ đẻ ra nhằm mục đích khống chế Giáo Hội Công Giáo, người ta sẽ thấy được mối âu lo của đảng và nhà nước đối với phản ứng của đức cha Điền. Vấn đề có chiêu dụ được một số giáo sĩ và giáo dân Huế gia nhập Ủy Ban hay không, không phải là vấn đề quan trọng. Điều quan trọng mang tính chất chiến lược ở đây khiến chế độ phải âu lo là sự lây lan, ảnh hưởng từ thái độ dứt khoát, bất khoan nhượng của đức TGM Nguyễn Kim Điền qua các giáo phận khác, nhất là với TGP Sài Gòn. Do đó, bằng mọi cách, với mọi thủ đoạn, đảng và nhà nước phải ra tay. Và phương lược họ chọn là đánh thẳng vào người cầm đầu TGP Huế. Cấp bách là để mong dập tắt mồi lửa đối kháng nhen nhúm nơi một nhân vật thuộc hàng giáo phẩm Công Giáo cấp cao. Thứ đến để dằn mặt và cũng để đo lường phản ứng của những vị khác trong Giáo Hội.
Ngày 05-4-1984, đức cha Điền nhận được giấy ‘mời làm việc’ của Sở Công An Bình trị Thiên. Và những buổi ‘làm việc’ như vậy kéo dài suốt trong 120 ngày liên tiếp và chỉ tạm kết thúc vào ngày 15-10 năm ấy.
Từ Thư Chung ngày 17-10-84 đến Di Chúc ngày 08-11-85
Hai ngày sau khi kết thúc chuỗi thời gian dài ‘làm việc’, nhằm ngày 17-10-1984, với tư cách chủ chăn, đức TGM Nguyễn Kim Điền đã gửi một Thư Chung[21] tới toàn thể linh mục đoàn, các tu sĩ nam nữ và giáo dân trong tổng giáo phận, trước hết là để cám ơn mọi người đã kiên trì cầu nguyện cho ngài “được vững tâm trong nhiệm vụ ‘làm chứng’”, và thứ đến là để tường trình cho cộng đoàn Dân Chúa rõ chi tiết nội dung các buổi ‘làm việc’ của ngài với sở công an Bình trị Thiên trong 120 ngày vừa qua.
Những gì gói ghém trong Thư Chung đã hé mở cho người ngoại cuộc thấy được một số vấn đề hàm ngụ trong đó. Trước tiên nó cho thấy bản chất tay sai chế độ của cái gọi là “Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nươc Việt Nam” điều mà cho đến ngày nay, vì một căn nguyên nào đó, vẫn còn có một thiểu số lên tiếng biện hộ cho tổ chức này. Đọc lại những lời lẽ của viên công an thẩm vấn đức cha Điền: “UBĐKCGYNVN được pháp luật cho phép và bảo trợ... nếu chống là chống lại pháp luật và chính sách của nhà nước...” chúng ta còn có cách hiểu nào khác hơn về tính chất nô bộc, tiếp tay chế độ làm hại Giáo Hội của Ủy Ban, mà cụ thể chỉ là một nhóm nhỏ dăm, bảy giáo sĩ có chức có quyền trong đó?
Bằng cái nhìn thực tế dưới con mắt người đời, dường như tất cả mọi nỗ lực bệnh đỡ lập trường, quan điểm Giáo Hội của đức cha Nguyễn Kim Điền đều đã bị thất bại. Điều này cũng có nghĩa là đảng và nhà nước CSVN đã thắng thế trong mưu toan triệt hạ lần hồi ảnh hưởng vốn có từ bao đời nay của Giáo Hội Công Giáo. Nguyên lý gói ghém trong câu tục ngữ của người bình dân Việt Nam “Một Cánh Én đơn lẻ không làm nổi Mùa Xuân” đã không có luật trừ cho ai. Kể từ đấy, mọi sinh hoạt trong đạo, từ vấn đề tuyển sinh, đào tạo, phong chức, dạy giáo lý cho tới việc in ấn, phổ biến sách báo Công Giáo, cũng như việc thuyên chuyển, đi lại của các linh mục, tu sĩ đều bị giới hạn. Rồi từ giới hạn tiến sang giai đoạn cấm đoán gắt gao. Hệ thống tiểu và đại chủng viện một phần bị công lập hóa, nói khác đi là bị chiếm dụng, phần còn lại bị cưỡng chế phải thay đổi học trình theo quan điểm nhà nước[22]. Ủy Ban Đoàn kết Công Giáo Yêu Nước tuy trên thực tế chưa bám rễ được vào những sinh hoạt của TGP, nhưng bằng những thủ đoạn vừa hăm dọa, vừa mua chuộc, hủ hóa, nhà cầm quyền cộng sản đã cấy được vào hàng ngũ giáo sĩ một số tay chân, tạo ra những nghi kỵ, chia rẽ trong nội bộ, giữa giám mục với nhau, giữa giám mục với linh mục[23] v.v...
Tuy vậy, với cái nhìn xuyên suốt qua cặp mắt tâm linh, tự thân quan điểm, lập trường và thái độ quyết liệt đối đầu với chế độ bằng niềm tin son sắt của ngưởi cầm đầu TGP Huế, đã mang một giá trị không ai có thể phủ nhận. Nó tương tự như sự chọn lựa bị người đời coi là thiếu khôn ngoan của các tiền nhân tử đạo, khi sẵn sàng chấp nhận phân thây hơn là phải quá khóa. Nói theo thánh Phaolô thì đấy là sự điên rồ của niềm tin Thập Giá. Và như thế, không thể lấy sự thành bại, mất còn để phân định giá trị hơn thua.
Lúc ấy, và cả ngay bây giờ –thời điểm sau 30 năm Giáo Hội Công Giáo bị áp đặt dưới chế độ cộng sản-, vẫn còn đó không ít người nghĩ rằng: nếu các vị chủ chăn cùng có chung một tấm lòng, một tiếng nói, một lập trường để có được những phản ứng, những hành vi quyết liệt bảo vệ đức tin như đức cha Nguyễn Kim Điền, thì hẳn rằng tình hình đã đổi khác. Đổi khác như thế nào chỉ có Thiên Chúa mới có câu trả lời đích đáng. Dù tin tưởng nơi sự an bài của Đấng trên cao, dù luôn tín thác vào sức mạnh và ơn soi dẫn, thánh hóa, biến đổi của Chúa Thánh Thần, chúng ta vẫn không thể không tiếc xót và cảm thương mỗi khi nghĩ tới những thao thức, trăn trở trong suốt 13 năm trường của vị chủ chăn tổng Giáo phận Huế.
Trước những áp lực càng ngày càng nhiều khiến cho mọi sinh hoạt của tổng giáo phận mỗi lúc mỗi thêm co rút lại, nhìn về Sài Gòn và các giáo phận khác để càng nhận ra sự cô đơn của mình, đã có lúc đức TGM Nguyễn Kim Điền không khỏi cảm thấy tuyệt vọng. Trong tình huống ấy, vào thời điểm cuối năm 1985, vị chủ chăn TGP Huế đã hình dung ra trước mắt thảm cảnh lao tù đang chờ đợi ngài. Trong tâm thư gửi các linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân thuộc quyền ngày 19-10-1985, sau khi nhắc lại lời phát biểu của ngài tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới năm 1971[24], đức cha Điền viết:
“Hạnh phúc thay! Hôm nay, chính tôi được Chúa gọi để chịu tù ngục, chịu chết vì bênh vực nhân quyền, công lý và hòa bình!”
Cần phải trở về với cảnh ngộ cay nghiệt mà người dân Việt Nam trên cả ba miền đất nước, trong đó có tập thể tín hữu Công Giáo, phải cắn răng gánh chịu, nhất là trường hợp đức cha Điền phải đương đầu với những ngón đòn hiểm độc trong cô đơn suốt thời khoảng từ 1977 đến 1985, chúng ta mới cảm thông được tâm trạng của ngài như thế nào khi viết câu trên đây trong lá thư gửi đoàn chiên mà ngài có trách nhiệm coi sóc. Nó mang âm hưởng những lời tuyên xưng đức tin của các tiền nhân tử đạo ngày xưa. Nhớ lại phản ứng quyết liệt cùng những lời lẽ cương trực của mình trước những đợt thẩm vấn của công an thành phố Huế, trong đó khi bị cáo buộc: căn cứ vào giáo luật để chống lại UBĐK, một tổ chức do đảng và nhà nước bảo trợ là chống lại chính đảng và nhà nước, ngài đã ghi lại như sau:
“...nếu luật pháp đi ngược với ý Trời, chà đạp các quyền của con người, trong đó quyền tối thượng là tự do tín ngưỡng, thì như trong biên bản ‘làm việc’ với công an Bình trị Thiên ngày 15-10-1984, tôi đã khẳng định: Như các Thánh Tông Đồ xưa và các thánh Tử Đạo trải qua các đời, tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn tuân luật pháp của con người”.
Ý thức trước những gì sẽ xảy ra, ngài viết:
“Dĩ nhiên, hậu quả sẽ là tù ngục và chết chóc. Hậu quả đó chủ chăn của anh chị em hôm nay sẵn sàng và vui lòng đón nhận như phần thưởng Chúa ban sau 25 năm giám mục, mà 22 năm được phục vụ Giáo phận Huế. Khi tôi bị bắt rồi, thì xin anh chị em đừng ai tin lời khai nào, dù có kèm theo chữ ký mà người ta kể là chính tôi. Giờ đây chỉ còn một việc là tôi tha thiết xin anh chị em cám ơn Chúa cho tôi, đồng thời tăng thêm và tiếp tục cầu nguyện cho tôi được tuyệt đối trung thành với Chúa và Hội Thánh cho đến hơi thở cuối cùng”.
Chẵn 20 ngày sau, ngày 08-11-1985, vị chủ chăn TGP Huế công bố một Di Chúc[25] gói ghém trọn vẹn nỗi lòng của một mục tử nhân lành luôn trung thành với Thiên Chúa và Hội Thánh. Nội dung bản di chúc nói lên thật nhiều điều. Trước hết, nó bộc hiện tâm tình thiết tha với sứ mạng làm chứng cho niềm tin, cho sự thật của ngài. Trước ngưỡng cửa của thảm cảnh lao tù, chết chóc, con chim đầu đàn của TGP Huế vẫn một lòng khuyến khích linh mục đoàn dưới quyền ngài hãy can đảm chu toàn bổn phận chủ chăn, luôn can đảm và trung thành với Giáo Hội trong mọi cảnh ngộ khó khăn, nguy hiểm trước mặt.
Thứ đến, nó hé mở cho người đọc thấy đời sống đơn sơ, đạm bạc của một vị giám mục xuất thân từ dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu. Khi sống ngài không thu tích một chút gì cho riêng mình. Và khi chuẩn bị cho cái chết, ngài vẫn một niềm tín thác vào sự an bài của Thiên Chúa.
Cảm nhận của đức TGM Nguyễn Kim Điền là có thể ngài sẽ bị đảng và nhà nước tống ngục, bị hành hạ và có thể lãnh án chết bất cứ lúc nào khơi nguồn từ những kinh nghiệm bản thân trong 120 ngày ‘làm việc’[26] với công an, bị hăm dọa, đe noi bằng những lời lẽ dành cho kẻ tội đồ. Trên thực tế, chế độ đã không công khai bắt bớ ngài vì sợ ‘bứt giây’ có thể ‘động rừng’. Nhưng không phải vì thế mà họ buông tha cho một người đã cả gan dám một mình đương đầu với chế độ. Thay vì tống ngục có thể tạo nên những phản ứng của tập thể giáo dân Huế vốn không phải là những người dễ dàng khuất phục, nhất là khi thấy vị chủ chăn gương mẫu của họ lâm nạn, guồng máy công an nhà nước bắt đấu xiết chặt thêm mạng lưới dò xét, rình rập chung quanh khuôn viên tòa TGM Huế, khiến cho đức cha Điền bị đẩy vào thảm trạng ở tù ngay trong chính nơi cư trú của mình.
Vụ lục soát, vây bắt Sơ Bề Trên Tu Hội Mến Thánh Giá Thừa Sai Trương Thị Lý và Sơ Trương Thị Nông ngày 17-10-1985 là tín hiệu cuối khiến vị chủ chăn TGP Huế nghĩ rằng mình cũng sẽ không thoát khỏi bàn tay tàn độc của kẻ dữ, và do đó ngài viết Di Chúc kể trên. Hai Sơ Lý và Nông bị kết tội một cách mơ hồ là làm gián điệp (!), chỉ vì mang trong mình một số thư tín của đức cha Điền. Linh mục Trần Văn Quý, thư ký tòa TGM cũng bị gọi đi ‘làm việc’ nhiều lần. Sau khi biết rõ căn nguyên, ngày 03-7-1986, đức cha Điền đã gửi tới nhà cầm quyền văn thư số 7/86-TTGMH nhận tất cả trách nhiệm, đồng thời nhấn mạnh là cả hai Sơ thuộc Tu Hội Mến Thánh Giá và cha Trần Văn Quý đều vô tội. Văn thư kết luận:
“Tôi sử dụng quyền làm người của tôi khi tôi viết thư, đưa bản tin. Tôi thi hành nhiệm vụ tôn giáo giám mục của tôi, khi tôi gửi thăm Đức Giáo Hoàng và trao cho ngài một số tin tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm của tôi. Nếu việc đem tin này đưa đến hậu quả bị quy trách pháp lý do chính quyền, do tòa án nhân dân nước Công Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam của tôi, thì tôi xin được coi: đây là một bắt bớ tôn giáo, một vi phạm nhân quyền và tôi rất lấy làm vinh dự, nhận lãnh tất cả các biện pháp xử lý vì tôn giáo, vì nhân quyền”.
Cho nên sự ra đi đột ngột của đức TGM Nguyễn Kim Điền ở bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn ngày 08-6-88 (và những nghi vấn chung quanh sự ra đi ấy), chỉ là một chuyện gần như tất nhiên. Ngót 20 tháng trước, chính nạn nhân là đức cha Điền đã tiên liệu về cái hồi kết cục bi thảm này. Có khác chăng là nó đã đến trễ hơn sự tiên liệu của ngài.
VÀI NHẬN ĐỊNH TRƯỚC KHI KẾT THÚC
Cơn hồng thủy 30-4-1975 chẵn ba mươi năm trước, nếu đã để lại những vết hằn ô nhục trên khuôn diện quê hương dân tộc, khó có thể bôi xóa trong sớm chiều, thì với GHCGVN nó cũng tạo nên những cơn sóng ngầm gây chấn động tới tận cốt lõi lối sống và cách thể hiện niềm tin nơi ngót tám triệu tín hữu trong nước, bắt đầu từ hàng giáo sĩ, giáo phẩm. Không phải chờ đến khi xuất hiện chủ nghĩa vô thần cộng sản, tôn giáo, nói chung và GHCG, nói riêng mới phải đương đầu với những thủ đoạn ngăn cấm, bách hại. Dưới thời phong kiến, những tín hữu của Chúa Giêsu cũng đã trải qua nhiều cuộc cấm cách thô bạo với những vụ săn đuổi, tàn sát đẫm máu. Hoàn cảnh đau thương của con cái Chúa trong những thế kỷ đầu của GH hoàn vũ và các triều đại Minh Mạng, Tự Đức trên đất nước ta là những bằng chứng hiển nhiên.
Nhưng nếu đem so sánh thì tính cách thâm hiểm, tàn độc mà cộng sản áp dụng để khống chế người Công Giáo ngày nay vượt xa ngày trước rất nhiều. Riêng chế độ cộng sản Việt Nam, nhờ học được những bài học từ Liên Sô, Bắc Kinh và các đồng minh Đông Âu[27], những thủ đoạn mà những người cầm đầu Bắc Bộ Phủ nhằm vào tập thể Công Giáo đã đạt tới mức thượng thừa. Họ không giết chóc, bắt bớ bừa bãi. Điều này không có nghĩa là họ khá hơn thời Văn Thân. Giản dị là vì họ thừa hiểu những biện pháp gây đổ máu hàng loạt không những không diệt được niềm tin của người tín hữu Công Giáo mà còn là cái cớ làm cho niềm tin ấy càng trở nên kiên vững khó trị hơn.
Với sách lược ‘mền nắn, rắn buông’, tùy từng trường hợp, từng đối tượng khi thì áp dụng những thủ đoạn hù dọa, khủng bố tinh thần bằng những buổi ‘làm việc’ mà thực chất chỉ là những cuộc thẩm vấn mang tính đe noi, khi thì mơn trớn, mua chuộc, kể cả hủ hóa bằng tiền tài, vật chất cộng thêm những kiểu hứa hẹn ‘xin–cho’… sau ba mươi năm, mọi lực đề kháng trong GH dường như đều bị cộng sản triệt tiêu dần dần. Những ai không vì những thủ đoạn trên mà đánh mất mình thì trước sau sẽ bị trù giập, bị nghiền nát dưới sức ép của đảng và nhà nước. Đấy là trường hợp đức cha Nguyễn Kim Điền cùng đông đảo giáo sĩ như các linh mục Vinh, Vàng, Hiệu, Lý, Lợi, Giải v.v…
Ngày nay, sau 30 năm chìm nổi dưới chế độ độc tài toàn trị cộng sản, trên danh nghĩa GHCGVN vẫn còn tồn tại. Ở một khía cạnh nào đó, và với một cách nhìn dựa trên những tiêu chuẩn đời thường, diện mạo GH lại còn được coi là sáng sủa bề thế hơn ba thập niên trước. Những ngôi thánh đường tân lập đồ sộ hơn. Những cuộc rước xách, lễ lạc nặng phần trình diễn tưng bừng vui nhộn hơn, trong khi hàng giáo sĩ, giáo phẩm tấp nập đi ra nước ngoài như đi chợ.
Nhưng trên thực tế, điều gì đã xảy ra cho Giáo Hội?
Trước hết, tình trạng tha hóa trong hàng ngũ linh mục như nhận định của Nguyễn Văn Chất trong Tờ Trình III không những không giảm mà còn có dấu hiệu gia tăng. Gần đây dư luận những người về thăm quê hương thường nói tới một tệ trạng mới là chuyện chạy chọt, đút lót để được nhà nước bật đèn xanh cho phép chịu chức linh mục! Và chuyện gì sẽ đến sau đó khi người ta phải dùng tới sức mạnh của đồng tiền để mua bán chức thánh?
Điều tác giả Tờ trình III nhận định về chương trình giảng dạy trong chủng viện và trách nhiệm Ngôn Sứ của các Đấng Bậc trong GH trước những tệ trạng xã hội ngày một gia tăng tuồng như vẫn còn là một câu hỏi nhức nhối trong lương tâm những người tín hữu nặng lòng với tiền đồ Hội thánh và Quê Hương. Và như thế, phải chăng những bài học về tấm gương cao cả của cố TGM Nguyễn Kim Điền cùng những khuyến cáo do người tín hữu giáo dân Nguyễn Văn Chất đặt ra nhiều năm trước vẫn còn mang giá trị thời sự?
31- 1975-1988: giai đoạn
Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi 18-07-2005
(trích “Giáo phận Huế Giáo phận Huế - 30 năm đấu tranh cho tự do tôn giáo”
Những ngày cuối tháng 3-1975 tại Huế thật là căng thẳng. Đất Thần kinh hiền hòa lên cơn hoảng loạn, dòng Hương giang phẳng lặng cũng dậy sóng. Thiên hạ hớt hải nhào vào Đà Nẵng và xa hơn nữa, qua đường Quốc lộ I hay qua cảng biển Thuận An. Trong số người chạy loạn đó có hầu hết linh mục và tu sĩ Tổng Giáo phận Huế. Nhưng vị chủ chăn, Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền thì sống chết ở lại nhiệm sở, cùng với một nhúm nhỏ cộng sự viên, trong đó có cha bí thư Tòa giám mục Hồ Văn Quý, cha quản lý Nhà chung Trần Thắng Trung, cha quản xứ chánh tòa Nguyễn Kim Bính, cha giáo sư Tiểu chủng viện Nguyễn Hữu Giải, cha bề trên dòng Tên Ngô Văn Vững, cha bề trên dòng Chúa Cứu Thế Nguyễn Đình Lành... Có cả các linh mục Thừa sai Paris và một linh mục tu hội Xuân Bích người Pháp. Cha Nguyễn Văn Lý, khi ấy đang phục vụ trong Hội Thừa sai VN tại Gò Vấp, Sài Gòn, đã tình nguyện về lại giáo phận cũ. Vượt một đoạn đường chỉ hơn 100 km giữa Đà Nẵng và Huế, ngài phải mất đến 6 ngày đêm với rất nhiều phương tiện từ ghe thuyền, tàu thủy, xe hơi, xe đạp đến đi bộ, bơi biển.... Cha về đến nơi chiều 25-3 thì sáng 26-3, cờ Cộng sản Bắc Việt được treo trên kỳ đài Huế. Vài hôm sau thì đến phiên Đà Nẵng. Đại đa số linh mục Huế chạy nạn còn kẹt lại tại thành phố này. Đức TGM liền bảo cha bí thư vào mời các vị ra, nhắn rằng: “Bây giờ ở đâu cũng như nhau cả. Mời quý Cha về lại Giáo phận, mỗi vị kiếm một giáo xứ để ở mà cai quản cho đến mãn đời!” (sic). Các linh mục lục tục trở về, kẻ trước người sau. Trong số đó đặc biệt có cha Nguyễn Phùng Tuệ: đang du học tại Rôma môn tu đức, ngài đã vội vã bay về VN cho kịp trước lúc Sài gòn thất thủ (30-4) và đầu tháng 5 thì ra Huế. Sau này, ngài phải khốn khổ nhiều vì câu hỏi của công an: “Vatican vội sai ông về VN với ý đồ gì, nhiệm vụ gì?”
Ngày 7-9-1975, cha Têphanô Nguyễn Như Thể, bề trên Tiểu chủng viện Hoan Thiện, được tấn phong Tổng Giám mục phó với quyền kế vị.
Một trong những việc đầu tiên của hai Đức TGM là xếp đặt lại nhân sự: cha Hồ Văn Quý làm giám đốc Đại chủng viện, cha Nguyễn Hữu Giải làm giám đốc Tiểu chủng viện, cha Nguyễn Văn Lý làm thư ký tòa TGM, cha Nguyễn Phùng Tuệ làm linh hướng cho các dòng nữ kiêm giáo sư Tiểu chủng viện. Bốn vị này cũng đồng thời là cố vấn thân tín của Đức Cha chính, vì có tinh thần kiên nghị độc lập. Các ngài bị CS liệt ngay vào sổ đen “cứng đầu” qua cụm từ “Tuệ Quý Lý Giải”!
Phần Đức Cha chính, ngài luôn luôn tỏ ra thiện chí trước chính quyền mới, chế độ mới: «Ngày 09-04-1975, dịp lễ ra mắt của Ban Chấp Hành Ủy Ban Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Thành phố Huế, tôi có phát biểu: “Đồng bào công giáo nguyện tích cực góp phần với tất cả đồng bào ruột thịt, để cùng với Ủy Ban Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng xây dựng một xã hội đầy tình thương, tự do, dân chủ, thịnh vượng và hòa bình, trong đó chúng tôi được chu toàn bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa”» (Thư giải thích ngày 27-10-1977 của Đức TGM về hai bài phát biểu tháng 4-1977). Hành động cụ thể là ngài đã giao các cơ sở giáo dục của giáo phận trong thành phố (như các trường trung học đệ nhị cấp Thiên Hựu, Bình Linh, Jeanne d’Arc, Mai Khôi, Tín Đức...) và trong hai tỉnh Thừa Thiên- Quảng Trị cho Nhà nước mượn để tiếp tục làm cơ sở giáo dục: “Giáo Hội Công Giáo chúng tôi tại Thừa Thiên Huế sẽ nhường tất cả các cơ sở, trường ốc thuộc quyền sở hữu của chúng tôi trong thành phố và tỉnh nhà, để Nhà nước sử dụng cho việc giáo dục văn hóa... Sẵn sàng để Nhà nước sử dụng, bao lâu Nhà nước còn cần, các cơ sở và phương tiện giáo dục của tư thục Công giáo trong Giáo phận Huế vào việc giáo dục các học sinh ngay từ năm học 1975-1976 này” (Trích Thư ĐTGM gởi các linh mục quản xứ, các bề trên dòng và các hội đồng giáo xứ ngày 30-10-1975). Tức là tạm giao cho Nhà nước quyền sử dụng chứ không bao giờ giao quyền sở hữu, như lời xác nhận của Đức TGM Nguyễn Như Thể sau này: “Cố TGM Nguyễn Kim Điền không hiến một cơ sở giáo dục nào trong Giáo phận Huế cho Chánh Quyền Cách Mạng Tỉnh Thừa Thiên - Huế. Nhưng chỉ trao quyền sử dụng tùy theo hoàn cảnh của mỗi địa phương và mỗi cơ sở” (Giấy xác nhận ngày 24-04-1995).
Một hành động thiện chí khác: «Năm 1976, tôi đã phát động tư tưởng “Vui Sống” trong giới đồng bào công giáo Giáo phận Huế bằng những bài Giáo lý của tập “Tôi Vui Sống”, giúp đem niềm tin lồng vào cuộc sống hôm nay để góp phần xây dựng một Đất Nước giàu đẹp, vui tươi, hạnh phúc» (Thư giải thích ngày 27-10-1977 của Đức TGM). Tập “Tôi Vui Sống” này, ban hành ngày 01-5-1976, được in ronéo và phát khắp giáo phận, đặc biệt các giáo xứ nhà quê và các cụm giáo dân vùng kinh tế mới. Nội dung chủ yếu là chỉ dẫn cách cầu nguyện và cử hành bí tích trong hoàn cảnh thiếu vắng linh mục.
Thế nhưng, chính quyền CS võ đoán cho rằng “Tôi Vui Sống” ẩn chứa một chiến lược đấu tranh nên đã ra lệnh cho cán bộ ở vùng sâu, vùng xa tịch thu tất cả và bắt đầu hành hạ Đức TGM. Họ đã có ác cảm với ngài từ bài “Cảm nghĩ” của ngài ngày 28-02-76 “về vụ Vinh Sơn xảy ra ngày 12-02-1976 tại Tp HCM”, bài cảm nghĩ mà họ cho là thiếu tích cực! Ác cảm này càng gia tăng sau hai bài Phát biểu nổi tiếng tại trụ sở Mặt Trận Tổ Quốc Huế, một vào ngày 15-04-1977 (dịp Nhà nước thông báo vụ bắt giữ 6 vị sư Phật giáo VNTN, hệ phái Ấn Quang) và một vào ngày 22-4-1977 (dịp tọa đàm về Dự thảo “Đề cương báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ CSVN tỉnh Bình Trị Thiên”). Qua hai bài Phát biểu này, Đức TGM đã thẳng thắn đòi hỏi tự do tôn giáo và bình đẳng trong quyền công dân: “Thú thật, sau ngày giải phóng, khi nghe Nhà nước có Chính sách Tự do tín ngưỡng, là tôi hết sức mầng, hết sức phấn khởi, như những lời phát biểu đầu tiên của tôi. Nhưng 2 năm qua rồi, tôi cảm thấy không thoải mái, vì chưa có tự do tín ngưỡng thực sự. Các lễ nghi bị hạn chế, các linh mục không được đi lại phục vụ đồng bào công giáo, như ở vùng kinh tế mới. Một vài nhà thờ bị cấm lễ lạc hay bị chiếm cứ” (Bài Phát biểu ngày 15-04-77). Đồng thời ngài tố cáo tình trạng “Đảng và Nhà nước có chủ trương chính sách tự do tín ngưỡng bằng sắc lệnh, bằng văn bản. Nhưng trong thực tế, vẫn có những khẩu lệnh đi ngược với chính sách” (Bài Phát biểu ngày 22-4-77).
Hai bài này đã gây rúng động không những tại hội nghị mà còn cả quốc nội và quốc tế sau khi chúng được phổ biến khắp toàn cầu. CS trả thù trước hết bằng việc triệu tập, xét hỏi và giam giữ cha Nguyễn Văn Lý, Thư ký Tòa TGM và cha Hồ Văn Quý, Giám đốc ĐCV, từ ngày 07 rồi 08-09-1977 về tội gọi là “phổ biến tài liệu phản động” (tức hai bài Phát biểu nói trên). Song song đó, Mặt trận tổ quốc Tp HCM viết một bức thư gởi Đức TGM Nguyễn Văn Bình để phê bình nhận định (dĩ nhiên với thành kiến thù hằn và luận điệu xuyên tạc) về hai bài ấy. Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bình Trị Thiên (tên gọi đương thời) thì tổ chức cái gọi là “những hội nghị để nhận định, phê phán về nội dung và việc phổ biến hai bài Phát biểu”. Cách thức tổ chức những buổi hội nghị này (phần lớn cho giáo dân) cũng đầy dẫy những trò ma giáo, cưỡng ép: như sáng mai họp tối nay mời, chỉ cho những ai “tiến bộ” được góp ý, và trưa cho ăn thật ngon để chiều đồng thuận đông đảo (thời ấy cuộc sống rất kham khổ!). Nhiều giáo dân đã can đảm nói lên sự thật và dĩ nhiên sau đó gặp lắm khó khăn. Một số tỏ ra khiếp hãi, phát biểu theo ý Nhà nước, kết án chủ chăn, nhưng sau đó đã tìm gặp ngài để tạ tội. Phần Đức TGM thì đã đáp trả bằng một Thư giải thích rất hùng hồn và thẳng thắn (đề ngày 27-10-1977). Nhờ lá thư này, cũng như nhờ việc Việt Nam vừa nộp đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc, nên chiều 24-12-77, hai cha Hồ Văn Quý và Nguyễn Văn Lý được thả tù, mặc dầu trước đó, các tòa án nhân dân do CS dàn dựng đã kết án nhị vị mỗi người 20 năm tù giam! Tuy nhiên, CS buộc Đức TGM Huế không được giữ hai cha tại nhiệm sở cũ mà phải bổ nhiệm đi hai giáo xứ nhỏ vùng quê. Đầu tháng 7-1978, cha Quý đi Bố Liêu, Quảng Trị, còn cha Lý đi Đốc Sơ, gần Tp Huế. Bản thân Đức Cha, sau ba đợt phong chức linh mục (2 vị năm 1975, 4 vị năm 1976, 1 vị năm 1978) thì từ đó đến khi qua đời, chẳng còn được “phép” phong chức linh mục cho ai nữa.
Đang khi ấy, ngoài xã hội, giáo dân nhiều phen khốn đốn vì chính sách “lao động thủy lợi” (7 ngày một tuần) và “điều hòa dân số” (cưỡng ép phá thai hay triệt sản). Nhiều người đã chứng tỏ đức tin bất khuất của mình đồng thời vẫn chu toàn bổn phận công dân, điển hình như vụ thôn Trí Bưu, xã Hải Trí, huyện Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị, dịp Chúa nhật Phục sinh 10-04-1977. Lúc đó, xã Hải Trí phải làm thủy lợi chính trong thị xã. Mỗi thôn được chia phần của mình và sẽ phát động lao tác vào sáng sớm Chúa nhật. Ngày thứ 7, thôn Trí Bưu (hầu hết công giáo, dưới quyền cha quản xứ Tôma Lê Văn Cầu 1975-1985) đã đệ đơn xin xã xét lại cho đồng bào có đạo cử hành nghi lễ đã, sau đó sẽ đi làm, nếu không kịp thì xin làm đêm. Nhưng xã không cho, buộc phải tuân lệnh. Có người nêu trường hợp hôm Giáng sinh 1976, thôn Trí Bưu cũng đã bỏ làm thủy lợi vì phải đi lễ để đề nghị xã xét lại. Nhưng xã vẫn nhất định ra oai giữ lập trường. Thế rồi vận dụng quyền nhân dân làm chủ, thôn Trí Bưu không đi làm sớm đúng giờ phát động sáng hôm đó, mà đi lễ hết. Nhưng sau lễ, họ huy động toàn thôn ra làm thủy lợi, thì thay vì 5 ngày, họ làm trong 2 ngày rưỡi là xong. Nhiều giáo dân ở Thừa Thiên Huế đi lao động nghĩa vụ tại công trường thủy lợi Nam Sông Hương cùng thời gian đó cũng nhất quyết nghỉ ngày Chúa nhật. Cán bộ công trường dọa dẫm cũng bằng thừa.
Tại giáo xứ Ngô Xá, giáo hạt Quảng Trị, có một giáo dân kiên cường bênh vực luân lý Giáo Hội. Nguyên là huynh trưởng Hướng đạo, bị bắt ra Bắc tết Mậu Thân, sau 75 được thả về, anh rất có uy tín với dân (giáo xứ này lúc ấy không có linh mục). Anh phản đối chuyện ép giáo dân đặt vòng xoắn hay triệt sản và kéo lôi được mọi người theo mình. Bị Nhà nước kết tội gây rối, cắt phần ruộng, dọa bỏ tù, anh vẫn lập trường kiên định. Về sau, sống không nổi với cán bộ địa phương, anh đành phải đem gia đình vào Nam. Tại thành phố Huế, có một nhóm 5 cô y tá công giáo đang hành nghề trong bệnh viện Trung ương Huế. Họ rất giỏi giang và nhiệt tình. Bất thần cả 5 cô bị giao nhiệm vụ đặt vòng xoắn và giúp phá thai. Thế là họ cương quyết phản đối, xin đổi việc khác, không thì bỏ nghề. Cuối cùng, lãnh đạo bệnh viện đành phải chấp thuận.
Phần Đại chủng viện Huế, tuy chưa được Nhà nước chính thức “cho phép” mở lại, vẫn quy tụ 45 chủng sinh gốc Huế, vốn đã học ở đây từ trước 1975. Từ đó đến đầu năm 1978, các chủng sinh lần lượt bị công an gọi đi “làm việc” (thẩm vấn), để dò hỏi tình hình ĐCV và dò xét tư tưởng lập trường từng người. Lần làm việc nào cũng có biên bản, với lời buộc cam kết “khai rõ mọi sự thật và chấp hành mọi luật pháp”, và lời dặn “về không được tiết lộ cho ai, vì là bí mật quốc gia”!?! Theo nhắc nhở của Bề trên, chủng sinh nào cũng viết cuối biên bản: “Tôi xin khai đúng những gì lương tâm mình cho phép và chấp hành mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong những điều không nghịch với đức tin của tôi!” Công an đập bàn túm cổ áo nhưng cũng đành chịu. Và vừa về đến nhà là kể tất tần tật cho Bề trên! Đầu năm 1978, chính quyền CS tỉnh Thừa Thiên muốn dựa vào nghị quyết 297/CP (một văn bản về tôn giáo lúc ấy) để loại bỏ một số đại chủng sinh khỏi Đại chủng viện mà họ cho là “có sạn trong đầu”, “vô phương cải tạo”. Họ liền thông báo cho hai Đức TGM ý định này và mời hai vị tới làm việc, để cùng Nhà nước xem xét chủng sinh nào có bản thân hoặc gia đình “không tốt” mà loại trừ khỏi ĐCV. Vì không chấp nhận nguyên tắc “giáo quyền và chính quyền cùng xét duyệt tư cách chủng sinh”, hai vị chủ chăn đã nhất quyết không đi bàn bạc. Thấy thế, CS đã đơn phương hành động, ngang nhiên trục xuất 2/5 số chủng sinh (tức 18/45) vào tháng 5/1978. Số bị trục xuất này phần nhiều là lớp lớn, đã đào tạo xong hoặc gần xong, có đầu óc “bướng bỉnh”. Sau đó CS còn lếu láo bắn tiếng: nếu như hai giám mục cùng bàn thảo với chính quyền thì con số bị loại đã ít hơn. Khi ấy các chủng sinh, tuy bị Nhà nước trục xuất cách thô bạo độc đoán, vẫn an tâm vui lòng vì chủ chăn của mình đã can đảm đấu tranh bảo vệ quyền độc lập và quyền tự điều hành của Giáo hội, không chủ trương đối thoại theo kiểu mặc cả đổi chác nguyên tắc của Giáo hội với những quyền lợi trần thế do Cộng sản ban cho.
Tiểu chủng viện (TCV) Hoan Thiện, ngay đầu tháng 5-1975, đã sinh hoạt lại bình thường sau gần 2 tháng tạm nghỉ vì chính biến (với 3 linh mục điều hành và 114 tiểu chủng sinh). Đây là một cơ cấu mà chính sách tôn giáo CS không muốn có, một cơ sở mà chính quyền CS thèm chiếm đoạt. Ngoài ra, thành phần lãnh đạo ở đây cũng là một cái gai mà Nhà nước muốn nhổ đi và thành phần chủng sinh (đang theo học tại trường Quốc Học và gây được nhiều ảnh hưởng tốt) cũng là một ung nhọt mà Nhà nước muốn cắt bỏ. Ý đồ này ngày càng rõ nét qua nhiều sự kiện. Từ việc áp lực mượn nhà, mưu chụp mũ “ổ phản động”, đến việc thương thảo chia đôi TCV. Nhưng mọi toan tính phá hoại đều đụng phải thái độ phản kháng cương quyết của Đức TGM và ban điều hành, đặc biệt là cha giám đốc Nguyễn Hữu Giải. Cuối cùng, Nhà nước phải sử dụng luật rừng qua văn thư số 2342 QĐ/UB tháng 12-1979 để cưỡng chiếm, đuổi 114 chủng sinh về gia đình, xóa sổ sự hiện hữu của một cơ chế có từ 239 năm trên 3 tỉnh thuộc Giáo phận Huế (1740-1979)! Văn thư đó lấy cớ TCV trước đây là một trường trung học, thành thử phải giao cho Nhà nước quản lý!?! Phần cha Giám đốc, do thái độ “cứng đầu, phản động” trong nhiều chuyện nhưng chủ yếu là trong vụ TCV (nhất quyết không ký giấy trao nhà), sẽ được Nhà nước Cộng sản “tặng” cho gần năm năm rưỡi tù lao (11-1983 đến 2-1989). Và dịp Giáng sinh năm 1979, Đức TGM đã truyền lệnh cho mọi nhà thờ trong Giáo phận không được trang hoàng bên ngoài, hầu tỏ dấu phản đối chính quyền đàn áp và để tang cho TCV.
Tưởng cũng nên nói thêm về tấm gương tranh đấu của con cái cha Giải. Các tiểu chủng sinh lúc ấy (còn lại lớp 10,11,12) phải đi học trường Nhà nước (Quốc Học). Các chú bị làm khó dễ đủ điều, mặc dầu bao giờ cũng tỏ ra là những học sinh gương mẫu. Lần nọ, một nhà báo đến trường và đặt cho mọi học sinh một câu hỏi (trả lời trên giấy): “Em yêu sách nào và ghét sách nào nhất?”. Các chủng sinh nhất loạt trả lời: “Yêu sách Thánh Kinh và ghét sách Bão Biển, Đất Mặn” (là hai sách chống đạo của Nhà Nước, tác giả Chu Văn). Bị ông hiệu trưởng hăm dọa, các tiểu chủng sinh về trình lại với Lm Giám đốc. Cha Giải liền thân hành ra tận trường Quốc Học, cho ông hiệu trưởng một bài học nên thân về thái độ kỳ thị tôn giáo của ông.
Lúc bấy giờ, Nhà nước rất ghét chuyện giáo hữu hành hương kính Đức Mẹ La Vang (đặc biệt ngày 15-8 mỗi năm). Họ ngăn chận xe khách dọc đường, đuổi tất cả những ai đi La Vang xuống, nên việc hành hương kính Đức Mẹ rất khó khăn. Dịp 15-08-1981, cha Nguyễn Văn Lý hướng dẫn giáo dân Đốc Sơ của ngài hành hương La Vang thì bị chận lại khi ra khỏi An Lỗ (cách La Vang 40 km về phía nam) cùng với một số nữ tu Mến Thánh Giá và một số khá đông giáo dân. Nhờ sáng kiến kêu gọi mọi người đứùng hướng về La Vang nguyện kinh để “hành hương tại chỗ” (lời các cán bộ CS thuyết phục giáo dân tấùt cả các giáo xứ không nên đi La Vang nữa, chỉ nên ở nhà để lao động sản xuất) mà cha đã có thể khai thông tuyến đường. Vụ việc này được lặp lại thêm 3 lần nữa trước khi đến La Vang. Một hình thức tranh đấu bất bạo động! Một tháng sau, CS bắt giữ rồi kết án 5 chủng sinh giáo xứ Phủ Cam (bị trục xuất năm 1978 và 1979) từ 2 đến 4 năm tù (tổng cộng 13 năm rưỡi) và đuổi 5 chủng sinh khác (cũng gốc Phủ Cam, còn ở ĐCV) về nhà vì “tội” diễn lại vụ việc “hành hương tại chỗ” trong một vở kịch vui dài 10 phút mang tên “Dâng con cho Mẹ”. Chính quyền gán cho nhóm chủng sinh tội danh “tuyên truyền phản cách mạng”. Vụ việc này cũng là một trong những cớ kết án cha Lý về sau.
Một linh mục cũng phải khổ nhiều vì Mẹ La Vang là cha Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang. Vốn là quản xứ Diên Sanh, ngài trông coi thêm Linh địa từ năm 1975 đến 1996. Vì nghi kỵ đối với pháo đài của niềm tin này và đối với các cuộc biểu dương đức tin hàng năm hoặc mỗi ba năm (đại hội), CS tìm cách làm cho La Vang khó đến và ở mãi trong cảnh hoang tàn từ cuộc chiến năm 1972. Bất chấp hăm dọa, phá phách, làm khó dễ, bắt đăng ký, cha Gioang luôn luôn cố gắng tổ chức các cuộc hành hương và đại hội, sửa sang và xây thêm một vài cơ sở nhỏ (phòng ở, giếng nước, nhà vệ sinh, hàng rào bảo vệ...). Ngài chỉ thông báo chứ không xin phép tổ chức đại hội hành hương, vì đó là sinh hoạt định kỳ... từ 1901! Xây dựng cơ sở dù có xin phép cũng không cho, nên bao giờ cha cũng chuẩn bị sẵn nhân công vật liệu và chỉ nội một đêm là hoàn tất. Sáng hôm sau chính quyền tới buộc đình chỉ thì sự đã rồi!!! Đúng là chiến sĩ mưu trí và dũng cảm của Mẹ!
Chính quyền CS lúc ấy cũng không muốn cho thiếu nhi Công giáo đi học giáo lý ngày Chúa nhật tại nhà thờ nên đã gây khó khăn bằng cách buộc đăng ký tên tuổi những ai dạy và những ai học (từng lần một). Mọi linh mục giáo phận đều bất tuân lệnh này. Riêng cha Lý ngoài việc dạy giáo lý không đăng ký, còn bắt loa trong nhà xứ, mở cho giáo dân nghe các đài phát thanh công giáo Vatican và Manila. Do đó, cuối năm 1982, CS ra lệnh cho cha phải trở về chung sống với mẹ ở Quảng Biên, Đồng Nai (Quyết định 79/UBND BTT). Cha ghi vào Quyết định: “Không thể chấp hành!” Bởi vậy, từ đầu tháng 01 đến ngày 18-5-1983, giáo dân Đốc Sơ ngày đêm phải túc trực trong nhà xứ, không cho công an bắt chủ chăn. Trong thời gian này, cha Lý gửi nhiều văn thư đi các nơi tố cáo CS đã vi phạm quyền tự do tôn giáo của người dân, trong đó có Lời Tuyên bố 7 điểm, đặc biệt yêu cầu CS phải tôn trọng quyền tự do đi hành hương La Vang của mọi người dân bất phân tín ngưỡng và quyền bổ nhiệm, thuyên chuyển linh mục của Đức TGM Huế... Cha còn dùng loa phóng thanh, đọc lớn tiếng Tuyên bố 7 điểm nầy cho dân trong vùng cùng nghe. CS bèn áp lực lên Đức TGM Nguyễn Kim Điền, buộc ngài ra lệnh cho cha Lý chấp hành Quyết định (bất cần xét xử trước) của họ. Đức TGM đã trả lời rằng: “Linh mục Lý có đủ quyền và ý thức chấp hành luật pháp Nhà nước theo tự do của Lm ấy. Nếu Lm Lý sai phạm thế nào thì Nhà nước cứ căn cứ trên pháp luật chính đáng mà thi hành. Còn tôi, làm sao tôi lại tự chặt tay chặt chân tôi được”. CS hết sức hậm hực và chuẩn bị trả thù!
Lúc 6 giờ ngày 18-5-1983, một lực lượng hùng hậu khoảng 200 công an đã xông vào nhà xứ Đốc Sơ bắt cha Lý đem đi biệt giam. Ngày 13-12-1983, CS mở phiên tòa xét xử cha. Họ đã âm mưu đưa ra nhiều chứng nhân giả để tố cáo cha chuyện nầy chuyện nọ hòng buộc tội. Nhưng cha Lý vẫn hiên ngang lên án những âm mưu bất chính của đảng và Nhà nước Cộng Sản nhằm tiêu diệt tôn giáo. Trước tòa án nầy, cha Lý lần đầu tiên tuyên bố công khai lại câu nói rất chính xác của Đức TGM trước đó đã nói với Uỷ ban Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên: “Nghị quyết 297 (về Tôn giáo) của Nhà nước VN là chiếc thòng lọng thắt cổ các Tôn giáo ở VN”. Tòa tuyên án 10 năm tù và 3 năm quản chế. Cha Lý đã trải qua các trại tù Thanh Cẩm (Thanh Hóa) và Ba Sao (Nam Hà).
Không những đương đầu với CS, Đức TGM còn đương đầu với tay sai của nó. Ngày 19- 10-1983, Đức Cha gởi cho Lm Nguyễn Thế Vịnh (theo Việt Minh từ 1945), nguyên chủ tịch Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu nước, một bức thư nói lên lập trường phải “hiệp nhất” với Tòa thánh và cảnh giác về âm mưu của CS muốn lập một Giáo hội ly khai. Ngài phản đối các hoạt động của Ủy ban đã xâm phạm, khống chế quyền của các Giám mục như tuyển chọn, phong chức và thuyên chuyển linh mục thuộc phạm vi từng giáo phận. Dịp này, ngài cũng tuyên bố: “Bất cứ linh mục, tu sĩ hay giáo dân Huế nào tham gia Ủy ban phá đạo này đều bị phạt vạ”. Và thực tế, ngài đã cất chức của linh mục tổng đại diện đương thời vì vị này đã tự ý đi Hà Nội tham dự buổi họp của UBĐKCG. Ngày 23-11-1983, ngài treo chén một linh mục khác vì đã nhiều năm hoạt động cho CS. Mãi đến 26-1-87, vị này mới được tha.
Trong thời gian đó, Đức TGM Phó Têphanô Nguyễn Như Thể bị công an mời đi “làm việc” (từ tháng 10-1983 đến tháng 3-1984; trong các nội dung làm việc có Tu hội Hy Vọng). Nhiều linh mục và giáo dân thuộc Tu hội này lúc ấy cũng cùng chung số phận.
Đây là một Tu hội bị Nhà nước nghi ngờ và thù ghét vì hai lý do: một là đã do chính Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận sáng lập lúc còn là Giám mục Nha Trang (vào năm 1972, tuy sau 1975 đã sáp nhập vào Tu hội Thánh Tâm Chúa Giêsu quốc tế); thứ hai đây là một tu hội đời, không tu phục, không tu sở, hoạt động âm thầm giữa xã hội, Nhà nước chẳng tài nào kiểm soát nổi. Cha Nguyễn Hữu Giải, lúc đó là quản xứ Lương Văn và bề trên Tu hội, có lẽ là vị linh mục phải “làm việc” nhiều nhất trong toàn Giáo phận, xét theo số lần bị mời và số ngày bị thẩm vấn. Từ tháng 11-1983, hằng ngày cha phải sáng đi chiều về tới đồn công an huyện Hương Phú (bây giờ là huyện Hương Thủy) và đến ngày 19-3-1984 thì bị bắt luôn. Tại trại giam từ tháng 3-1984 đến tháng 6-1986, ngài bị lấy khẩu cung liên tục ngày 2 buổi sáng chiều, chỉ nghỉ được Chúa nhật và ngày Tết! Nếu tính từ ngày bắt đầu bị mời “làm việc”, làm việc liên tục, cho đến khi “rời khám” thì cha đã nếm 5 năm rưỡi lao tù CS. Cha Tống Thanh Trọng, quản xứ Linh Thủy, thì mỗi ngày phải vượt qua phá Tam Giang, rồi đạp xe đạp tới trụ sở huyện ở Cây số 17, làm việc liên tiếp trong 21 ngày về Tu hội Hy Vọng. Thế nhưng dù dùng đủ trò lường gạt và dọa dẫm, công an cũng chẳng khuất phục được các vị hay khai thác được điều gì!
Ngày 23-11-1983 (tức trong thời gian ĐC Thể đi “làm việc”), như một tin sét đánh, Tòa Thánh gởi điện báo tin ngài xin từ chức. ĐC Điền từ nay một mình lèo lái con thuyền giáo phận.
Ngày 11-4-1984, Đức Cha gởi thư cho ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội CS, phản đối việc Tòa án Bình Trị Thiên đã vi phạm điều 70 và 71 của Hiến Pháp CSVN trong phiên tòa xử cha Lý ngày 13-12-1983. Đó là đã quy cho 2 TGM tội bao che, xúi giục cha Lý chống lại quyết định 79 của UBND, đã xách mé gọi 2 ngài là “đầu rắn cần phải đập” đang khi hai ngài không hề được triệu tập đến phiên tòa để được nghe thấy bằng chứng, được đối chất với bị can, được phát biểu trước quan tòa. Đúng là kiểu tòa án luật rừng CS!
Trước đó vài hôm, 5-4-84, Đức TGM bị công an Bình Trị Thiên “mời” đi “làm việc” suốt 120 ngày, cho đến 15-10-84, chủ yếu về “Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước”; đồng thời Nhà nước hạ lệnh quản chế, cấm ngài ra khỏi chu vi thành phố Huế. Mỗi khi đi làm việc về, ngài đều “họp báo”, nghĩa kể hết tần tật mọi chuyện cho các linh mục có mặt tại Nhà Chung, đang khi công an thì căn dặn đây là “bí mật quốc gia” không được tiết lộ!(?) Nhờ thế mà ngài giải tỏa tâm trí, thoát căng thẳng, được sự góp ý của anh em. Phần các linh mục thì cũng học hỏi nhiều kinh nghiệm và thêm hiệp nhất gắn bó với chủ chăn của mình.
Trong buổi thẩm vấn cuối cùng, ngài đã bị dồn vào mấy câu hỏi tổng kết thái độ của mình đối với UBĐKCG. Đáp lại câu hỏi “Căn cứ vào đâu mà chống đối tổ chức UBĐKCG?”, ngài đáp: “Căn cứ vào Tuyên cáo của Thánh bộ Giáo sĩ ngày 8-3-1982” (cấm Giáo sĩ không được thành lập và tham gia các hiệp hội có tính cách nghiệp đoàn chính trị) (“Tuyên cáo của Thánh bộ Giáo sĩ, và kể cả Giáo Luật mới cũng chưa được Nhà nước kiểm duyệt, huống chi là đi ngược với chính sách Nhà nước, nên đem thi hành là vi phạm...” (“Tôi phải tuân giữ luật Giáo Hội tôi, nên tôi không thể làm cách khác” (“UBĐKCGYN được luật pháp cho phép và bảo trợ... nếu chống là chống lại pháp luật và chính sách của Nhà nước” ( “Tôi xác định khi luật pháp thế trần nghịch với luật Thiên Chúa và Hội Thánh, thì cũng như các Thánh Tông Đồ xưa và các Thánh Tử Đạo của mọi thế hệ: Tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta” (x. Thư gởi Giáo phận Huế ngày 17-10-1984).
Vì Đứ c TGM không còn có thể đi thăm viếng và ban bí tích cho các cộng đoàn, các giáo xứ, nên giáo dân kéo nhau đến Tòa Giám mục chịu phép Thêm sức, dù bị công an hăm dọa. Trong thời gian quản chế tại gia này, Mặt trận Tổ quốc lại chơi đểu mời 6 cha Hạt trưởng đi du lịch Hà Nội (1985). Các vị đã trả lời đại ý: Chúng tôi được biết Đức TGM năm nay cũng như nhiều năm qua đã không được phép tham dự cuộc họp thường niên của Hội đồng Giám mục VN. Đó là sinh hoạt hệ trọng bậc nhất của Giáo Hội Việt Nam, thế mà chúng tôi lại đi tham quan giải trí đó đây: thật là chuyện mâu thuẫn và vô lý. Vì vậy chúng tôi xin kiếu! Đạo diễn chính của vụ “chối từ” này là cha Hồ Văn Quý, quản xứ Bố Liêu kiêm phó bề trên tu hội Hy Vọng. Cộng tác tích cực với ngài có cha Nguyễn Văn Hoàng, lúc ấy làm quản xứ Phú Hậu (Đại Phong). Cha Hoàng cũng là người duy nhất giữ được ruộng đất của Nhà Chung tại Bãi Dâu (4 mẫu). Bị đưa ra tòa về chuyện không giao nộp ruộng này, ngài đã cãi bay thắng lý nhờ trước năm 75 có theo học luật khoa (đang khi mọi ruộng Nhà Chung khắp Thừa Thiên Quảng Trị hàng trăm mẫu đều bị sung công). Ngài cũng giữ được một máy quay ronéo để làm việc, đang khi mọi máy ronéo của tư nhân đều bị cấm dùng, thậm chí máy ronéo của ĐCV dùng in giáo trình và tài liệu tôn giáo cũng bị CS ngang nhiên tịch thu.
Tại Quảng Trị lúc ấy, cha Tôma Lê Văn Cầu, quản xứ Trí Bưu (75-85), cũng nổi tiếng là một người đấu tranh bênh vực giáo dân bị cán bộ địa phương bóc lột và chèn ép (x. chuyện làm việc ngày Chúa nhật kể trên). Tuy sống bằng nghề nông, giáo dân Trí Bưu luôn đói khổ vì sưu cao thuế nặng. Đầu năm 82, cha Cầu đành phải vào giáo xứ Quảng Thuận (thuộc tỉnh Ninh Thuận, nơi có đông đồng hương Trí Bưu) xin khoai sắn lúa gạo ra giúp dân. Để trả thù ngài, chính quyền Bình Trị Thiên đã mật báo với chính quyền Ninh Thuận bắt giam ngài mấy tháng trời, lấy cớ làm việc cứu trợ không xin phép! Ra lại Trí Bưu, ngài còn bị quản chế 3 năm nữa!
Chung số phận với cha Cầu trong thời gian này tại Huế là hai nữ tu dòng Mến Thánh Giá. Đó là chị Trương Thị Nông bị bắt ngày 3-8-1985 trên đường đi Sài gòn và chị Trương Thị Lý bị bắt ngày 17-10-1985 đang khi làm Tổng phụ trách dòng MTG. Cả hai dính vào cái gọi là “Vụ gián điệp tầy đình Trương Thị Lý với tài liệu quả tang phạm pháp”! Vụ này được CS đem phổ biến, học tập, bình luận với nhiều giải thích mập mờ, phóng đại, tại các phường trong thành phố, nơi một số các cơ quan trường học và tại một số xã huyện trong tỉnh. Tiếp đến, cha Trần Văn Quý, thư ký tòa TGM, bị gọi đi “làm việc” từ 23-11 tới 23-12-1985. Đến tháng thứ 9 sau vụï bắt giữ, vào ngày 26 và 27-6-1986, cha Tổng Đại diện Lê Văn Mẫn và một ít Linh mục coi sóc các giáo xứ lớn ở thành phố Huế được gọi đến sở công an BTT để được nghe và được đọc một phần các tài liệu liên quan đến vụ án, đồng thời bị áp lực phải nói lên ý nghĩ, phán đoán của mình về các tài liệu đó. Thực chất đây chỉ là việc chị Lý, với tư cách Bề trên Tu hội, đã sai một người thuộc quyền đi Sài gòn đưa thư của Tu hội cho các chị em kèm theo một số thư riêng và văn bản của Tòa Giám Mục Huế.
Trước tình thế của bản thân cũng như của Giáo phận, ngày 19-10-1985, hai hôm sau khi chị Lý bị bắt, Đức TGM đã gởi cho toàn thể đoàn chiên một bức thư, trong đó ngài nhắc lại lời phát biểu thời danh của mình tại tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới 19-10- 1971: “Đã có những Giám mục chịu chết vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh. Nhưng ngày nay có Giám mục nào dám chịu chết để bênh vực quyền lợi của con người không?”. Và ngài thêm như nói tiên tri: “Hạnh phúc thay! hôm nay chính tôi được Chúa gọi để chịu tù ngục, chịu chết vì bênh vực nhân quyền, chân lý và công bình”. Kết thúc lá thư, ngài cảnh báo: “Khi tôi bị bắt rồi, thì xin Anh Chị Em đừng ai tin lời khai nào, dù có kèm chữ ký mà người ta kể là của chính tôi”.
Ngày 8-11-1985, cảm thấy cái chết có thể đến với mình bất cứ lúc nào nên Đức TGM đã viết di chúc ngắn, trong đó ngài đặc biệt nhắn nhủ các Linh mục Giáo phận “hãy can đảm tỏ ra trung thành với Hội Thánh trong mọi hoàn cảnh, sống đoàn kết trong linh mục đoàn và sống trọn vẹn bổn phận chủ chăn nhân hiền”.
Ngày 03-07-1986, Đức TGM đã gởi cho Chủ tịch UBND và Viện trưởng viện Kiểm sát Nhân dân Bình Trị Thiên một lá thư với lời lẽ hùng hồn khẳng khái nhắc lại vụ “gián điệp Trương Thị Lý”. Trong thư đó, ngài khẳng định rằng với tư cách một người con của Hội Thánh Công giáo, ngài có quyền gởi cho Mẹ Hội Thánh những tin tức của mình, của các anh em mình gần xa; với tư cách Giám mục, ngài có nhiệm vụ phải cho Đức Thánh Cha biết về tình hình tôn giáo trong Giáo phận và Giáo tỉnh ngài phụ trách. Ngài cũng gián tiếp tố cáo rằng chính quyền đã vi phạm các điều 67-71 của Hiến pháp về các quyền công dân cũng như vi phạm điều 19 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Kết luận, ngài nói: “Nếu việc đưa tin này đem đến hậu quả bị qui-trách-pháp-lý do Chính quyền, do Tòa án Nhân dân nước Cộng hòa XHCNVN của tôi, thì tôi xin được coi đây là một bắt bớ tôn giáo, một vi phạm nhân quyền, và tôi rất lấy làm vinh dự nhận lãnh tất cả các biện pháp xử lý vì tôn giáo, vì nhân quyền”.
Để trả thù, chính quyền đày cha thư ký Trần Văn Quý về giáo xứ Nam Phổ để quản chế ba năm (từ 7-11-86). Cha Hồ Văn Quý, quản xứ Bố Liêu kiêm cố vấn cho Đức TGM, cũng bị quản chế tại nhiệm sở 3 năm kể từ 10-11-86. Ngày 11-4-1987, hai chị Lý và Nông được ra tù.
Ngày 25-3-1988, Đức TGM viết một bức thư gởi cho ông Nguyễn Văn Linh, sau khi ông được bầu làm Tổng Bí Thư đảng CSVN và tuyên bố chính sách “đổi mới”... Nội dung bức thư đòi xóa bỏ lệnh quản chế ngài, phục hồi quyền công dân cho ngài, để ngài tự do đi lại hầu thi hành nhiệm vụ Tổng Giám Mục đối với giáo dân và thăm viếng các Giáo phận khác thuộc Tổng Giáo phận Huế.
Ngày 14-5-88, Đức TGM xin vào Sài gòn điều trị tại bệnh viện Nguyễn Trãi, sao cho tạm ổn định để có thể đi Rôma hầu chữa tiếp và báo cáo về Đức TGM Phó mà Ngài định đặt, về Đức GM Phụ tá Giacôbê Lê Văn Mẫn mà Ngài đã “bí mật” tấn phong, về Giáo phận Huế và về Giáo Hội VN. Sau đó, ngài xin chuyển qua bệnh viện Chợ Rẫy. Tại đây, ngài đã qua đời trưa ngày 8-6-1988 sau những cơn đau khủng khiếp và sự thoái biến nhanh chóng quái dị của nhiều bộ phận bên trong lẫn bên ngoài, dấu hiệu của một vụ đầu độc. Hai câu nói cuối cùng của ngài trên đời là với cô y tá cho ngài uống thuốc độc: “Không những tôi tha lỗi cho cô mà thôi, tôi còn tha thứ cho cả cấp trên sai cô làm, tôi tha thứ hết!” và với nữ tu cô em ruột săn sóc: “Chén đắng Chúa trao anh đã uống xong. Xin trọn theo ý Chúa!”. Về nhà Cha, ngài ở lại trong lịch sử và trong lòng người với 2 danh hiệu vinh quang: “Tổng giám mục dũng cảm” (Đức Gioan-Phaolô 2 tặng) và “Kẻ thù của chế độ” (chính quyền CS đặt), cũng như qua tinh thần bất diệt gọi là “tinh thần Philipphê”!
32- Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền
Người Tiểu đệ khó nghèo (1921-1988)
Thi Chương, 13-11-2005
Đức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền là một trong những người VN đầu tiên tu Dòng Tiểu Ðệ (1955) và cũng là người đầu tiên trong Dòng được chọn làm giám mục (1960). Khẩu hiệu Giám mục Ngài chọn là “Mọi sự cho mọi người” (Omnia omnibus). Trong khi lý tưởng của Dòng Tiểu đệ (noi gương Chân phước Linh mục Charles de Foucauld) là sống và phục vụ người nghèo theo tinh thần : “Hiện diện với Chúa và hiện diện với nhân loại”. Một vinh dự cho Việt Nam và cho Dòng Tiểu đệ.
Cả đời và nhất là sau 1975, ĐTGM Nguyễn Kim Điền đã làm tròn nhiệm vụ người chủ chăn, như lời phát biểu của ngài trong thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới ở Roma (1971) và còn ghi lại trong bức tâm thư gửi cho linh mục tu sỹ và giáo dân Huế : Đã có những giám mục chịu chết vì bênh vực quyền lợi Hội Thánh. Nhưng ngày nay có giám mục nào dám chịu chết để bênh vực quyền lợi con người không ? (Thư mục vụ 19-10-1985). Hơn nữa, cũng trong thư này, Ngài còn xác định quyết tâm : “Như các Tông Đồ ngày xưa và các Thánh Tử Đạo trải qua các đời, tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn luật pháp của con người.” Đáng thán phục con người quả cảm cao thượng, nên gương sáng cho thế hệ hôm nay.
TRÊN ÐƯỜNG THEO CHÚA
Phần đầu cuộc đời theo thời gian từ đi tu tới làm linh mục, ĐC Nguyễn Kim Điền được ghi nhận là người đạo đức, khiêm tốn, xuất sắc. Phần sau, từ khi chọn vào Dòng Tiểu đệ đến làm Giám mục, ĐC càng nổi bật hơn nữa như một người rất mực chân tu và cương nghị trong chức vụ tông đồ. Hai điểm sáng trong đời tu của ngài là say mê Thánh Thể và sống khó nghèo. Chầu Thánh Thể là cử chỉ thân tình với Chúa, là lẽ sống, sức mạnh và là lý tưởng cuộc sống. Con đường chứng nhân Tin Mừng giữa người nghèo, ước nguyện trở thành anh em của mọi người trong cái tầm thường bình dị của cuộc sống là để chia sẻ thông cảm với những người bị bỏ quên.
Đức Cha Philipphê Nguyễn Kim Điền sinh ngày 21-3-1921, tại Long Đức, Trà Vinh. Cụ thân sinh là viên chức trong Hội đồng giáo xứ. Năm 1928, gia đình chuyển về sinh sống ở Gia Định. Năm 1985, tại Gia Định, bà cố ngài qua đời, nhưng ĐC không được về dự đám táng. Năm 1930, chú Philipphê Điền nhập chủng viện Sài Gòn. Thụ phong linh mục ngày 21-9-1947. Sau đó, được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện Sài Gòn. Đến năm 1949, Cha làm Giám đốc chủng viện.
Năm 1955, với hoài bão chia sẻ với người nghèo, Cha Điền xin gia nhập Dòng Tiểu Đệ (do Cha René Voillaume lập, sống theo tinh thần Cha Charles de Foucauld). Chủng viện Sài Gòn hết sức bỡ ngỡ và kính phục về quyết định tu dòng của cha giám đốc. Cha được gởi sang làm tập sinh bên sa mạc Sahara, Phi Châu, nơi mà Cha Charles de Foucault đã sống tu rất khổ hạnh và qua đời. Sau thời gian tu luyện ở El-Abiodh (Sahara) và Saint Maximin, ngày 12-11-1956, Cha Điền chính thức nhận “Áo Dòng Tiểu Đệ Phúc Âm”. Trong nhật ký, Cha ghi : “Tôi tạ lỗi cùng hết thảy, vì đã đặt mọi người trước sự đã rồi: nhận áo dòng với Paul và đồng tuyên khấn tại hang toại đạo thánh nữ Domitille, trước mặt ĐC de Provenchère, Cha Voillaume, Chị Madeleine, Chị Jeanne và 10 Chị Tiểu Muội khác. Thú thật, nghi lễ này và niềm phúc lạc kia đã vượt ngoài sự ước đoán của tôi. Tôi chỉ biết vâng theo”.
Năm 1957 Cha Điền trở về VN, sống ẩn dật chung với anh em, lúc ở Bàn Cờ, đạp xe ba bánh, quanh khu chợ Cầu Muối, hay làm khu khuân vác ở bến tàu. Có thời gian cha lên Kata giúp đồng bào thượng ở Di Linh. Thời gian ở Sài Gòn, tiếng thơm và lòng đạo đức của vị Linh mục khó nghèo này được nhiều người biết, nên cha được mời giảng phòng cho nhiều dòng tu, chủng viện, ngay cho cả tuần tĩnh tâm của các linh mục Sài Gòn.
Từ 1959-1960 : về Bình Thủy, Cần Thơ, cha dựng một căn nhà lá, lãnh trách nhiệm hướng dẫn anh em mới nhập dòng. Trong Nhật ký tháng 2-1957, ngài viết về những ngày đầu ở Cần Thơ như sau: “Hôm ấy là ngày 7-2, một xe nhỏ đưa bốn anh em Minh, Tân, Tạo và tôi từ Sài Gòn về Cần Thơ và bỏ chúng tôi trước căn nhà trống, không vách cửa, cất vội trên thửa đất Nhà chung. Với vài mảnh ván mang từ Bảo Lộc về, chúng tôi dựng tạm một bàn thờ để dâng thánh lễ. Qua ngày sau, chúng tôi thuê đất trồng trọt, sửa soạn lại nhà cửa. Sau một tuần nhà huynh đệ được hoàn thành”. Từ đây, người Tiểu đệ Phúc Âm Nguyễn Kim Điền rao giảng bằng đời sống giữa đồng bào nghèo với nghề đạp xích lô và xe ba bánh.
Giữa lúc các Tiểu đệ vui trong nếp sống đơn sơ khó nghèo, thì một hôm, anh em đang kéo lưới bắt cá ven sông, Cha Điền nhận được điện thư chọn ngài làm Giám mục. Đó là ngày 24-11-1960, đánh dấu GHVN đã trưởng thành, Tòa Thánh thiết lập 3 giáo tỉnh tại VN : Hà Nội, Huế và Sài Gòn. ĐGH Gioan 23 đã chọn và đặt cử Cha Philipphê Điền làm Giám Mục Cần Thơ, thay ĐC Nguyễn Văn Bình lên làm TGM Sài Gòn. Ngày 22-1-1961, ĐC thụ phong giám mục tại nhà thờ chính tòa Sài Gòn. Và nhận chức cai quản giáo phận Cần Thơ từ ngày 3-4-1961. Bút ký ngày 8-12-1960, việc được chọn làm giám mục, ngài cho là tin buồn và viết : “Hôm nay tôi báo cho anh chị em biết một tin buồn : tôi được chọn làm Giám mục Cần Thơ, thế ĐC Bình trở thành TGM Sài Gòn, vì HĐGM được thiết lập tại VN... Một Tiểu Đệ được chọn làm giám mục! Chân thành mà nói, tôi khổ tâm và không thể hiểu nổi. Đại diện Giáo quyền nói rằng tôi không thể khước từ. Tôi xin chấp nhận sứ mệnh này như lời mời đón nhận Thánh Giá... Anh em thân mến, hãy cầu nguyện hơn bao giờ hết cho tôi lúc này. Mong anh chị em hiểu rằng tôi mãi mãi là một Tiểu đệ của anh chị em. Lại thêm một lần đơn độc.”
TRÁCH NHIỆM, BỔN PHẬN VÀ THỬ THÁCH
Từ 11-1963, sau cuộc đảo chính, Đức TGM Martino Ngô Đình Thục phải sống lưu vong. Ngày 30-9-1964 Tòa thánh đặt cử ĐC Nguyễn Kim Điền làm Giám quản Giáo phận Huế. Và ngày 11-3-1968, Ngài được bổ nhiệm làm TGM Huế. Tình hình chiến tranh ngày càng ác liệt. Huế trải qua ba lần khói lửa điêu tàn: Tết Mậu Thân (1968) và Mùa hè đỏ lửa (1972) và Biến cố 1975. Đức Cha luôn tại chỗ, và đứng ra tổ chức cứu trợ đồng bào không phân biệt tôn giáo.
Sau 1975, cộng sản đã gán ghép và coi “người công giáo là công dân hạng hai”. Đặc biệt về mặt tư tưởng, trước chính sách đàn áp tôn giáo của chính quyền, ĐTGM đã lên tiếng bênh vực :
. Quyền tự do tín ngưỡng. Trong hai thư 15-4-1977 và 24-4-1977, ghi lại những lời tuyên bố trong hai buổi tham khảo ý kiến và trong di chúc gởi Tổng Giáo phận Huế, 19-10-1985.
. Quyền tự do đào tạo linh mục. Các thư ngày 17-5-1979 và ngày 15-12-1979.
. Quyền tự do đi lại. Thư 10-1981 (hành hương La Vang) và thư ngày 25-3-1988 (đi Roma ad limina).
. Quyền tự do tư tưởng và thông tin. Thư ngày 3-7-1986 về buổi làm việc với công an nhà nước về vụ bề trên Dòng MTG Thừa Sai Trương Thị Lý.
. Nguy cơ của Giáo Hội. Thư ngày 19-10-1983 gửi Lm Nguyễn Thế Vịnh, và thư gửi cho tổng Giáo phận Huế
. Nhân quyền, quyền được hiến pháp nhà nước bảo vệ. Thư gửi chủ tịch Quốc hội, ngày 11-4-1986.
NHỮNG GÌ XẢY RA SAU 1975 ?
1.Trung tâm hành hương La Vang, cái gai của chính quyền.
Từ 8-1981, công an bắt đầu cấm hành hương La Vang. Tháng 4-1981, ĐC viết thư cho giáo dân, cổ võ lòng sùng kính ĐM và tổ chức hành hương La Vang vào tháng 5 và tháng 8. Sau các cuộc hành hương này, ĐC bị công an hạch tội 4 lần và gán ghép tội : không xin phép còn chống lại, không thi hành Nghị quyết tôn giáo 297 của nhà nước. Sau đó, được biết tháng 10-1981, nhà nước không cho phép ĐC qua Roma tham dự đại hội do Bộ Truyền Giáo tổ chức (13-10-1981), vì lý do “không tích cực với cách mạng”.
Từ đây, công an tìm cách ngăn chận không cho ai đến La Vang kính viếng hay cầu kinh. Điển hình ba trường hợp sau :
- Ngày 13-8-1981, một số Nữ tu Mến Thánh Giá và một số giáo dân Đốc Sơ, Huế (do cha Nguyễn Văn Lý hướng dẫn) ra hành hương La Vang bị công an chận lại tại Mỹ Chánh, bắt trở về. Nhờ đấu tranh bằng cách quỳ bên đường cầu nguyện, họ đã được cho đi tiếp ra La Vang
- Ngày 21-09-1981, mười chủng sinh Phủ Cam diễn lại biến cố tại Mỹ Chánh ngày 13-08 trong một cuộc họp mặt phụ huynh chủng sinh, đã bị bắt sau đó một tháng và bị kết án tù từ 2 đến 4 năm.
- Ngày 12 và 14-8-1982, công an chận giáo dân họ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp do một cha Dòng Chúa Cứu Thế hướng dẫn.
2. Cộng sản âm mưu lập “Giáo hội tự trị”.
Từ 10 đến 14-11-1984, “Đại hội Các người Công Giáo yêu nước” đã họp tại Hà Nội, với 299 đại biểu toàn quốc. Hà Nội có 25 người, Miền Nam có 38, Huế chỉ có Lm. Nguyễn Văn Bính. Bản điều lệ được toàn thể chấp nhận. Một ủy ban chỉ đạo gồm 75 người. ĐC đã ngăn cấm Cha Bính, nhưng cha này cứ đi, nên đã bị ngài treo chén.
Các Giám Mục VN rất dè dặt về việc thành lập Ủy ban này, “nhưng phần đông không dám ra mặt” (Actualité Religieuse dans le monde, No 21, Mars 1985). Đức TGM Philipphê Điền nghĩ rằng trong những vấn đề quan trọng, GH phải chối bỏ tất cả hợp tác có nguy hiểm cho GH trong tương lai. Nên ngài công khai lên tiếng chống đối việc thành lập ủy ban này. ĐC đã viết lá thư phản đối vụ này, gửi Lm Nguyễn Thế Vịnh, chủ tịch Ủy ban chuẩn bị đại hội này (19-10-1983).
3. Tiểu Chủng viện Hoan Thiện bị đóng cửa vào tháng 12-1979.
Từ 1977, nhiều quyết định của nhà nước gây khó khăn sự sống còn của các chủng viện : hạn chế đi lại, áp đặt hộ khẩu, ra công tác thủy lợi, đòi chứng minh “công dân tốt”. Chương trình và giáo sư do nhà nước kiểm soát... Ủy ban Nhân dân Bình Trị Thiên ban hành hai sắc lệnh : số 284/Qd/NC (ngày 16-3-1979) và số 2342/QD/UB (ngày 13-12-1979) : chủng viện Hoan Thiện bị hoán đổi thành trường của nhà nước. Mặc dầu phản đối, ngày 19-12-1979 chủng viện bị tịch thu.
4. Trường hợp hai nữ tu Trương Thị Lý và Trương Thị Nông.
Trên đường về Sài Gòn, ngày 17-10-1985, công an Bình trị Thiên đã lục soát túi và bắt một số thư trong túi của nữ tu Trương Thị Lý, bề trên dòng MTG Thừa Sai Huế và nữ tu Trương Thị Nông, cùng đi. Đồng thời công an đột nhập trụ sở Dòng ở 55 Trần Phú và 31 Đoàn Hữu Trưng, tịch thu sách vở và tư trang. Hai chị bị kết án tội “gián điệp”. Chị Lý bị giam 8 tháng, Chị Nông 10 tháng. ĐC Điền lên tiếng xác nhận hai nữ tu này có trách nhiệm chuyển thư của ngài. Những thư này hoàn toàn thông tin và thuần túy tôn giáo. Hai nữ tu này chỉ là người thừa lệnh. ĐC cho rằng đây là một bắt bớ tôn giáo, vi phạm nhân quyền và ngài rất làm vinh dự nhận lãnh tất cả biện pháp xử lý vì tôn giáo vì nhân quyền (Thư số 7/86 Tòa TGM Huế, 3-7-1986).
CHỨNG NHÂN ANH HÙNG CỦA CHÚA KITÔ (2Tm 2,3)
Trước thái độ cứng rắn này, công an đã làm khó dễ, dọa nạt, tìm cách hạn chế sinh hoạt mục vụ Giám mục của Ngài. Ngày 11-4-1984, ĐC viết thư gởi Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Quốc Hội cho biết ngài bị công an Bình Trị Thiên gọi đi làm việc trong 120 ngày, với sở công an từ 5-4-1988 đến 15-10-1984. Nội dung những ngày làm việc là ba cáo trạng : chống đối quyền hành nhà nước, có thái độ phản động và tỏ ra lòng tự kiêu quá đáng. ĐC bị quản thúc tại nhà, không có quyền đi lại trong Giáo phận. Trong thư gửi Giáo phận ngày 19-10-1985, ĐC viết : “Nếu luật pháp đi ngược với ý Trời, chà đạp các quyền của con người, trong đó quyền tối thượng là tự do tín ngưỡng, thì như trong biên bản làm với Công an Bình Trị Thiên ngày 15-10-1984, tôi đã khẳng định : “Như các thánh Tông Đồ ngày xưa và các thánh Tử Đạo trải qua các đời, tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn luật pháp con người.” Dĩ nhiên hậu quả sẽ là tù ngục và chết chóc... Giờ đây, chỉ còn một việc là tôi tha thiết xin anh chị em cám ơn Chúa với tôi, đồng thời tăng thêm và tiếp tục cầu cho tôi được tuyệt đối trung thành với Chúa và trung thành cho đến hơi thở cuối cùng…”
Ngày 3-7-1986, ngài viết thơ cho UB Nhân dân thành phố Huế về lý do thông tin cho Tòa Thánh và HĐGM Việt Nam : “Là con cái của GH và với cương vị TGM, tôi có quyền và bổn phận thông báo tin tức về sinh hoạt địa phận, tin tức anh em... cho Tòa Thánh. Đây là quyền làm người của tôi và cũng là thi hành bổn phận Giám mục của tôi. Nếu nhà nước cho việc này là phạm luật pháp nhà nước, thì tôi cho rằng tôi bị bách hại vì lý do tôn giáo và là nạn nhân của việc không tôn trọng nhân quyền”
Thư thứ ba gửi cho giáo phận viết 17-10-1984 sau 120 ngày “làm việc”, ĐC nói : “Tuy muôn lần bất xứng, nhưng tôi cũng xin mượn những lời thánh Phaolô đã nói với các niên trưởng Êphêsô để ngỏ lời cùng anh em (linh mục): “Tôi không biết được những gì sẽ xảy đến cho tôi, trừ ra là Thánh Thần… chứng thật cho tôi rằng: xiềng xích lao tù đang chờ tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi không quan tâm, miễn sao là tôi chạy cho xong quãng đường đời… và hoàn tất sứ vụ Đức Kitô ủy thác…” (Công vụ Tông đồ 20,23-24).
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
ĐC bị quản thúc tại Tòa Giám mục vì không chịu nhượng bộ đòi hỏi của chính quyền. Dĩ nhiên ngài đã chẳng được phục hồi quyền công dân. Tháng 5-1987, ĐC vẫn không được ra khỏi thành phố Huế. Lá thư cuối cùng ngày 25-3-1988, ngài viết cho tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, về những khó khăn mục vụ : “Với tư cách là TGM Huế, tôi có phận sự thăm viếng các Giám Mục thuộc giáo khu của tôi. Tôi có trách nhiệm vùng đất từ Lăng Cô đến Đồng Hới. Thế mà từ 1984, sau khi bị làm việc 120 ngày, tôi không được ra khỏi chu vi thành phố, để ban phép Thêm Sức và để thăm viếng con chiên theo bổn phận chính yếu của một Giám Mục. Từ tháng 5-1987, tôi tưởng được hồi phục mọi quyền công dân. Ngờ đâu trong thực tế, tôi vẫn không được ra khỏi thành phố Huế để hoàn tất bổn phận một Giám Mục. Làm sao tôi có thể thuyết phục được những người Công giáo dưới quyền tôi về chính sách tự do của chính phủ ?” Thư gửi đi. Không có trả lời. Và sau đó ĐC được Chúa gọi về trời thưởng công xứng đáng.
Tháng 7-1988, ĐTGM Nguyễn Kim Điền được phép vào Sài Gòn chữa bệnh, nhưng Ngài cảm thấy e ngại lo lắng, nên xin trú tại tòa giám mục Sài Gòn, có bác sỹ riêng. Trước khi qua đời một tuần, vì tình trạng sức khỏe yếu kém và sa sút trầm trọng, ĐTGM được đưa vào bệnh viện Nguyễn Trãi (4-6-1988), rồi chuyển qua Thống Nhất (7-6) và sau cùng vào Chợ Rẫy. ĐC qua đời tại bệnh viện Chợ Rẫy, thứ Tư 8-6-1988, lúc 12g20, vì bệnh tim. Trước đây, ĐC có bệnh thận, cao huyết áp và đau nhức cột sống. ĐC qua đời 10 ngày trước khi đại lễ phong Thánh cho 117 Anh Hùng Tử đạo Việt Nam được cử hành bên Roma (19-6-1988). ĐC hưởng thọ 67 tuổi, với 41 năm linh mục và 25 năm giám mục, trong đó 22 năm phục vụ Giáo phận Huế. Được biết ngày 6-6-1988, Bộ Truyền Giáo nhận được thư của ĐC Điền xin Tòa Thánh giúp nếu ngài được phép sang Âu châu chữa bệnh. Bộ Truyền Giáo trả lời thuận. Chưa kịp thì ĐC qua đời (8-6-1988). Trong thời gian ở bệnh viện và bên giường lúc qua đời, người em của ĐC là nữ tu Nguyễn Thị Thủy (Dì Sáu) dòng MTG Chợ Quán hầu như luôn có mặt. (Chú thích của Nhóm Lm NKĐ: Xin đọc chứng từ của Linh mục Lý dưới đây để biết chính xác hơn về cái chết của Đức TGM).
THÁNH LỄ AN TÁNG
Linh cữu của Đức TGM chuyển từ nhà thương Chợ Rẫy về quàn tại Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn. Ngay tại đây có thánh lễ đồng tế, vào lúc 5g chiều. Sáng thứ bảy, 11-6, quan tài ngài được rước ra nhà thờ chính tòa Sài Gòn để làm lễ. ĐTGM Nguyễn Văn Bình chủ lễ cùng với 8 Giám mục, một Đan Viện phụ và 300 linh mục đồng tế. Sau lễ, xe tang chở linh cữu về Huế. Trên đường về, nghỉ tại đèo Cù Mông. Về đến Lăng Cô, lúc 4g chiều 12-6. Hai bên đường giáo dân ứng trực đọc kinh kính viếng. Tới Đá Bạc, có đoàn xe đạp hộ tống và đến Phú Bài có đoàn xe Honda tiếp nối. Lúc 18g, xe tang tới An Cựu, một đoàn rước vĩ đại thắp đuốc lên và tiến về Tòa Tổng Giám mục. Các linh mục tu sỹ làm giờ canh thức. Sáng 13-6, Tổng Giáo phận phục tang. Các giáo xứ lần lượt đến kính viếng. Chiều 5g, di quan đến Nhà thờ Chính tòa Huế. Từ đây, mỗi giờ có một thánh lễ cho đến 24 giờ ngày 14-6. Giáo dân khắp nơi kéo về nhà thờ Phú Cam để dự lễ an táng vào 15-6. Thánh lễ bắt đầu 9 giờ. ĐTGM Nguyễn Văn Bình chủ lễ, cùng đồng tế có 8 Đức Cha và hơn 100 linh mục. Nhà thờ dẹp hết ghế để đại diện các giáo xứ có chỗ. Còn dân chúng đứng ngoài. Thánh lễ, điếu văn... chấm dứt lúc 11 giờ. Sau đó, quan tài rước qua bên cánh trái nhà thờ để chôn cất. Nhưng vì giáo dân quá sùng bái, mãi đến chiều tối mới hạ huyệt. Tang lễ thật nghiêm trang và cảm động, chưa bao giờ thấy ở Huế.
Viết lại đôi nét về ĐTGM Nguyễn Kim Điền trong những ngày chào mừng Cha Charles de Foucauld (Pháp, 1858-1916) được phong Chân Phước (13-11-2005), chúng tôi nhận thấy vị Chân phước và người con của ngài có nhiều điểm giống nhau : Khó nghèo và luôn tranh đấu cho công bằng xã hội. Với niềm hy vọng và lời cầu nguyện: “Kẻ gieo trong đau thương sẽ gặt hái trong vui mừng”. Bởi vì ĐC đã làm tròn sứ mệnh được trao phó : “Anh em sẽ nhận sức mạnh Thần Khí của Người ngự xuống trên anh em. Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giudê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,7-8).
Linh mục Paul Cheval, bạn dòng và cùng khấn một lượt với Ngài đã làm chứng : ĐTGM Philipphê Nguyễn Kim Điền đã hiến dâng cả mạng sống như là chủ chăn giám mục mà vẫn luôn là Tiểu đệ, để phục vụ cho chân lý và công bình trong những hoàn cảnh khó khăn của quê hương Việt Nam. Sau 1975, dư luận trong và ngoài nước đều biết đến tinh thần hy sinh bất khuất của ĐTGM Nguyễn Kim Điền. Như ngày 19-6-1985, phân khoa đại học Tubingen, bên Đức, đã trao tặng ĐTGM bằng tiến sỹ danh dự, vì Ngài đã chứng minh cuộc sống của mình qua nhiều thử thách gian lao trong sự nghiệp phụng vụ quê hương và Giáo Hội. Vì bị phao vu kết án là gián điệp cho ngoại bang, ĐC Điền phải vắng mặt trong buổi nhận bằng, nên ĐC Franz Josef Kuehnle, Giám mục phụ tá Giáo phận Stutgart Rottenburg, đại diện nhận thay (Báo Sự Thật, cơ quan ngôn luận Hội Công Giáo VN tại Đức Số 3, 1-1986, tr. 3).
Thi Chương
Tài liệu tham khảo
- Nguyệt san DCÂC, số 54. 11-1986, tr. 21-23. Thư của Đức TGM Nguyễn Kim Điền viết năm 1985 và 1986.
- Nguyệt san DCÂC, số 75. 10-1988, tr. 15. Lễ an táng Đức TGM Nguyễn Kim Điền
- Lm Hồng Phúc, Kính nhớ ĐC Nguyễn Kim Điền. DCÂC, số 76. 11-1988, tr. 25-27.
- Lm Paul Đào, Chứng nhân tử đạo : Tranh đấu cho tự do tôn giáo. DCÂC. Số 231, 1-2002. ttr. 28-31.
- Eglise d’Asie, số 49. 15-6-1988.
(Nguồn www.giaoxuvietnamparis.org)
33- Nhớ lại lúc được tin Cố TGM Nguyễn Kim Điền chết
Nguyễn An Quý, 08-06-2006
Ngày 9-6-1988, tức một ngày sau khi Đức Tổng giám Mục Nguyễn Kim Điền qua đời tại bệnh viện Chợ Rẫy Sài Gòn, Giáo phận Huế mới nhận được tin Ngài chết. Khoảng 4g chiều ngày 9-6, tôi đạp xe đạp trở về nhà sau khi đi thăm mộ mẹ tôi, nhân giỗ giáp năm ngày mẹ tôi mất. Khi tôi đạp xe đạp đến dốc trước nhà thờ Phủ Cam thì nghe tiếng chuông tử đổ hồi, tiếng chuông từ nhà thờ Chánh tòa Phủ Cam. Lên khỏi dốc thì gặp vài người quen. Thấy tôi, một bà già trong giáo xứ đã thốt lên lời buồn thảm : “Đức Cha Điền chết rồi”. Bà nói tiếp: “Chúa ôi, Ngài chết hôm qua.” Tôi lạnh người và tự hỏi sao lại thế nhỉ? Mới nghe cha Nguyễn Kim Bính nói Ngài được Nhà nước cho đi ngoại quốc để chữa bệnh kia mà. Đầu óc tôi quay cuồng trong nhiều ý nghĩ xem ra thật phức tạp về cái chết quá nhanh đến với vị Giám mục khả kính của Tổng Giáo phận Huế. Tôi nhớ lại nhiều chuyện về Ngài, về cuộc đấu tranh quyết liệt với bạo quyền để đòi quyền của Giáo Hội chưa thành. Hình dung lại chuỗi ngày gian lao trong đó Ngài đã can đảm và bình tĩnh suốt 120 ngày, khi đối đầu với công an thành phố Huế, qua những cuộc hỏi cung, thẩm vấn mà chúng gọi là “làm việc” với Ngài. Hình dung lại mẫu người hiền hậu khi đứng trên tòa giảng tại nhà thờ Chánh toà Phủ Cam trong dịp lễ Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh năm 1986. Hôm đó, Ngài đã nhắc lại một đoạn trong thư luân lưu gởi Dân Chúa Giáo phận Huế năm 1985: “Mai này khi tôi bị bắt, tôi xin anh chị em đừng tin một lời tuyên bố nào, dù lời tuyên bố đó có mang chữ ký của tôi đi nữa”. Khi nghe lời này, nhiều giáo dân đã khóc. Hình dung lại những lễ Giáng Sinh hằng năm, Ngài đến dâng Thánh lễ nửa đêm tại nhà thờ Phủ Cam. Tuy ngôi Thánh đường khá rộng lớn, nhưng giới trẻ không Công giáo đến tham dự Thánh Lễ đêm Giáng Sinh quá sức đông đảo, đến nỗi chen nhau mà đứng. Bởi vậy, hằng năm trong Thánh Lễ Giáng Sinh lúc nửa đêm, giáo xứ phải dành riêng gần một nửa phần nhà thờ, từ cửa chính vào, để cho các người ngoài công giáo đến tham dự. Toàn bộ gia trưởng và thanh niên trong giáo xứ phải đảm trách công việc trật tự khá vất vả.
Giới trẻ cũng như nhiều người tại Huế rất mộ mến và thán phục cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, vì Ngài đã can đảm lên tiếng đòi Tự do tôn giáo với chế độ cộng sản trong thời điểm mà chẳng ai dám hé môi, mở miệng nói lời nào động chạm đến “bác đảng”. Ngài có biệt tài diễn thuyết khá linh động, giọng nói dễ lôi cuốn người nghe. Bởi vậy, mỗi khi Ngài trình bày một bài giảng, dù chỉ thuộc phạm vi tôn giáo, người tham dự vẫn nghe một cách chăm chú, nghe không biết chán. Ngài thường trình bày câu chuyện với lời lẽ bình dân, giản dị, với giọng nói khi trầm khi bổng ăn khớp với từng câu văn, diễn tả sự việc thật linh động. Những bài giảng của Ngài không cầu kỳ, trình bày Lời Chúa theo Phúc Âm, đi vào thực tế của cuộc sống, phù hợp với hoàn cảnh xã hội, nên người nghe, kể cả những người ngoài công giáo, vẫn say sưa, chăm chú nghe Ngài nói. Ngài diễn thuyết theo lối xuất khẩu thành văn vì chẳng bao giờ người ta thấy Ngài đọc những bài được viết sẵn, cho nên lại càng dễ thu hút người nghe hơn.
Hồi chuông tử của Giáo đường Phủ Cam kéo dài khá lâu, tiếp đến là tiếng chuông từ nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ngân vang. Cả hai tiếng chuông đã tạo nên khung cảnh đau buồn cho mọi tín hữu quanh khu vực Toà Tổng Giám mục Huế trước sự ra đi của vị chủ chăn can trường. Tiếng chuông nghe não nuột làm sao, nhiều bà già đến nhà thờ để đọc kinh cầu nguyện cho Ngài, mọi người, mọi gia đình trong giáo xứ Phủ Cam đều ngưng mọi hoạt động trong giây lát để cầu nguyện và tưởng nhớ đến vị Tổng Giám mục.
Nhân ngày tưởng niệm của Ngài, tôi xin được ghi lại vài nét chấm phá về những ngày Tang Lễ của Ngài để cho thấy niềm kính trọng và lòng tiếc thương đối với Ngài, không những của giáo dân mà của cả những người thuộc các tôn giáo khác, tại thành phố Huế.
Ngày 12-6-1988, có tin xe chở Quan tài của Ngài sẽ về đến Huế trong ngày. Khoảng 3g chiều, thanh niên trong Giáo xứ Phủ Cam, những người có xe gắn máy đều đi vào tận Đà Nẵng để đón xe Quan tài của Ngài ra. Hơn 4g chiều, toàn thể giáo dân Phủ Cam, tập họp thành từng đoàn thể, để chuẩn bị đón Quan tài của Ngài về. Đoàn đón rước được xếp thành hàng, đứng dọc theo hai bên đường từ Toà Giám mục đến nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Đường dài gần 2 cây số, gồm những giáo dân trong thành phố từ các giáo xứ Phủ Cam, Gia Hội, Dòng Chúa Cứu Thế, Tây Linh, Bãi Dâu và các vùng phụ cận. Giáo xứ Phủ Cam phụ trách việc chôn cất Ngài, tôi được hân hạnh nằm trong Ban phụ trách đưa Quan tài của Ngài đến nơi an nghỉ cuối cùng. Chúng tôi đẩy xe tang của Giáo xứ đến đợi tại khu vực trước mặt nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, để đón linh cửu của Ngài. Xe được thiết kế khá đẹp. Gọi là xe cho có vẻ chút thôi, chứ nó không có máy nổ, di động được là nhờ sức mạnh của anh em phụ trách đưa quan tài đẩy đi. Xe do một chuyên viên là giáo dân trong giáo xứ, trước đây phục vụ trong ngành Quân cụ của QLVNCH, có sáng kiến đóng, để lo việc phục vụ tống táng cho giáo dân trong xứ đạo.
Gần 6g chiều, chiếc xe chở Quan tài của Đức Tổng Giám mục từ từ dừng lại trước nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Nhiều giáo dân đã khóc thật to: “Đức Tổng bỏ chúng con rồi! Sao Ngài đi nhanh thế? Hết rồi Đức Tổng ơi!”
Suốt chặng đường gian lao của Ngài trong những năm cuối đời, Ngài luôn muốn gần gũi với đàn chiên của mình lắm. Nhất là trong những dịp hành hương La Vang, Ngài muốn đến nơi đất Mẹ để tôn vinh Mẹ cũng như tìm gặp con chiên, nhưng Nhà nước cộng sản Việt Nam đã nhất quyết ngăn cản không cho Ngài đến La Vang trong những dịp này. Tôi còn nhớ có lần Ngài đã cải trang để đến La Vang vào dịp Lễ Đức Mẹ Lên Trời. Khi Ngài đến gần ngã ba La Vang Thượng, tức cách Thánh địa La Vang khoảng 3 cây số thì công an phát hiện, họ nhất quyết không cho Ngài tới đích.
Vì lòng yêu mến chủ chăn, Ban tổ chức Lễ Tang của Giáo phận đã muốn Ngài cùng rảo bước đoạn đường thân thương mà đàn chiên của Ngài đang đứng hai bên để chào đón Ngài, từ Dòng Chúa Cứu Thế đến toà Giám mục. Bởi vậy Ban tổ chức Lễ Tang đã cho di chuyển Quan tài từ xe hơi sang xe tang của Giáo xứ Chánh Toà, là nơi mà những ngày lễ trọng của Giáo hội hay của Giáo phận, Ngài đều đến dâng Thánh lễ suốt 24 năm qua, kể từ năm 1964. Di chuyển Quan tài của Ngài qua xe tang của Giáo xứ xong, trước hết chúng tôi đưa về Toà Tổng Giám mục Huế. Trên đoạn đường dài gần 2 cây số qua các đường Nguyễn Huệ, Nguyễn Trường Tộ, chúng tôi đẩy xe tang đi chậm rãi. Khi xe ngang qua đoạn nào thì mọi người đứng hai bên đường ở đó quỳ gối, bái, lạy Ngài y như giáo dân thường quỳ gối để hôn nhẫn Giám mục khi Ngài còn sống. Ai cũng chảy nước mắt cả, thật vô cùng cảm động trước cảnh mất đi một vị Chủ chăn khả kính, kiên cường. Quan tài của Ngài được quàn tại Toà Giám mục gần 20 tiếng đồng hồ để các tôn giáo bạn kính viếng, đến chiều ngày 14 thì di về nhà thờ Chánh Toà Phủ Cam để toàn thể Dân Chúa trong Giáo phận đến kính viếng cùng cử hành Thánh Lễ tạ ơn và cầu nguyện.
Không nghe động tĩnh gì từ phía Nhà nước cộng sản tại Huế trước số lượng người quá sức đông đảo, tham dự buổi đón rước Quan tài của vị chủ chăn trở về lại nơi Ngài coi sóc đàn chiên suốt 24 năm qua. Họ im lặng vì không đủ can đảm để cấm cản sự hiện diện của khối đông quần chúng, chỉ cho nhiều công an chìm bám sát để theo dõi tình hình.
Chiều ngày 13-6, vào khoảng 4g, giáo dân nhiều giáo xứ tập trung để đón cuộc di quan của Ngài từ toà Tổng Giám mục Huế đến Nhà thờ Chánh toà Phủ Cam. Linh cữu của Ngài được quàn tại nhà thờ Phủ Cam đến sáng ngày 15-06 mới cử hành Thánh lễ An táng. Trong suốt thời gian 2 đêm và 1 ngày nơi Thánh đường Phủ Cam, tất cả các giáo dân và linh mục của từng giáo xứ, các Dòng tu Nam Nữ thuộc Tổng Giáo phận Huế đều có mặt để dâng Thánh Lễ theo phiên của từng đơn vị. Thánh lễ tạ ơn và cầu nguyện cho vị chủ chăn liên tục suốt ngày đêm không khi nào ngừng cho đến giờ lễ An Táng.Tuy đã chia phiên cho từng giáo xứ, từng tu viện, nhưng Thánh Lễ nào giáo dân cũng tham dự quá sức đông đảo, đầy cả nhà thờ, có người phải đứng ở hành lang để cùng thông hiệp. Giáo dân những giáo xứ ở xa dựng lều trại trong khuôn viên Thánh đường, chờ phiên dâng lễ và đợi đến khi chôn cất Ngài. Cảm động nhất là nhóm Phật giáo Hướng Thiện, nhiều vị trong nhóm đã quỳ cả giờ trước Quan tài để nhìn khuôn mặt của Ngài với nỗi cảm xúc đầy nước mắt xót xa.
Tôi có người quen trong nhóm Phật giáo Hướng Thiện này nên mới biết tên gọi của nhóm. Sau này khi gặp lại, anh ta nói: “Nhóm của anh rất mộ mến và kính trọng Đức Cha Điền, nên khi nghe Ngài chết, mọi người trong nhóm đã khóc”. Được biết, Nhóm Hướng Thiện thường lui tới thăm viếng và chia sẻ những ưu tư về tự do tôn giáo với Ngài trong nhiều năm, nhất là trong thời gian Cố Tổng Giám Mục bị bạo quyền cộng sản Việt Nam không chế.
Xin được nói qua về Quan tài của Đức Tổng Giám Mục. Chiếc quan tài khá đặc biệt: ngang phần mặt của Ngài là một tấm kính trong suốt; trên mặt kính là nắp bằng gỗ di động để có thể đóng lại hay mở ra tùy ý. Trong nhiều giờ tại Thánh đường Phủ Cam, nắp hòm gỗ được mở ra để giáo dân kính viếng thấy được mặt của vị Chủ chăn suốt thời gian thân xác Ngài còn bên cạnh giáo dân trước khi vào lòng đất lạnh.
Thánh Lễ An Táng được cử hành vào sáng ngày 15-06 do Cố Hồng y Trịnh Văn Căn chủ sự cùng với nhiều Giám mục trong nước và toàn thể Linh mục đoàn thuộc Tổng Giáo phận Huế đồng tế. Thi hài của Ngài được chôn tại cánh trái Cung Thánh trong nhà thờ Chánh Toà Phủ Cam.
Khó mà quên được những ngày Tang Lễ của Cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, vừa long trọng khó tả do lòng mến mộ của mọi thành phần Dân Chúa toàn Giáo phận Huế cũng như của những ai quen biết Ngài, vừa đau buồn khôn nguôi vì thật sự không những Giáo phận Huế mà cả Giáo Hội Công giáo Việt Nam đã mất đi một vị Giám mục uy dũng, đúng như lời Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phao lô II đã nói về Ngài. Nhiều người thuộc các tôn giáo khác cũng kính trọng và mến mộ Ngài vì Ngài là chứng nhân của thời đại mà mọi tôn giáo đều bị bách hại. Ngài đã can đảm sống một cách hiên ngang trong sự hành hạ, sách nhiễu đủ mọi hình thức của Nhà nước cộng sản Việt Nam kể từ khi Ngài phát biểu trước Hội nghị do Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức tại Huế năm 1977 về quyền bình đẳng và tự do của con người, về việc người công giáo bị Nhà nước coi là công dân hạng 2. Nhà nước muốn bỏ tù Ngài lắm, nhưng lại không bắt giam được, vì thế cái chết của Ngài đã tạo nên nhiều nghi vấn trong lòng mọi giáo dân cũng như những ai thao thức muốn có tự do tôn giáo.
Nhớ ngày giỗ thứ mười tám của Cố Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền, tôi liên tưởng đến cuộc đấu tranh đòi Tự Do Dân Chủ cho toàn Dân Việt Nam của những nhà tranh đấu trong nước, đặc biệt của Nhóm linh mục Nguyễn Kim Điền nơi đất Thần kinh Huế, vốn đang chịu nhiều gian lao thử thách. Khi còn sống, Ngài đã ước mơ, thao thức về một Việt Nam tự do, thì nay nơi Thiên Quốc, Ngài hãy cầu xin Chúa đoái thương cho đất nước Việt Nam chúng con, sớm thoát khỏi ách thống trị độc tài của đảng cộng sản. Xin cho mọi người Dân trong nước không còn sợ hãi nữa, trái lại cùng nhau đứng lên đòi quyền sống, quyền tự do. Xin cho đồng bào hải ngoại sát cánh, hăng say yểm trợ cuộc đấu tranh tại Quốc nội để giải thể chế độ cộng sản tùy theo điều kiện khả năng của từng người.
Hoa Dân Chủ trong nước đang nở rộ, đồng bào hải ngoại đừng thờ ơ nữa, hãy tiếp sức với người trong nước để sớm giải thể chế độ cộng sản, có như thế mới mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho toàn Dân Việt Nam.
Nguyễn An Quý, 08-06-2006
34- Lòng dũng cảm của Đức Tổng Giám Mục Philipphê
Linh mục Augustinô Hồ Văn Quý, 6-2007
Năm 1981, trong chuyến viếng thăm “Ad limina” của các Giám mục Việt Nam, khi tiếp kiến các Giám mục, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã gọi Đức Cha Nguyễn Kim Điền là “vị Tổng Giám mục dũng cảm” (le vaillant Archevêque). Danh hiệu này đã làm chính quyền cộng sản Việt Nam càng quyết tâm triệt hạ cho kỳ được Đức Tổng Nguyễn Kim Điền.
Nhưng những người biết rõ Đức Tổng đều không lạ gì: tự bản chất ngài không có gì là “dũng cảm” hiểu theo nghĩa hiếu chiến bất bao dung; ngài luôn tránh đối đầu, bao giờ cũng chờ chực những dấu hiệu thiện chí nhỏ nhặt nhất của nhà cầm quyền để tỏ thái độ nhân nhượng. Đặc biệt ngài bị ám ảnh bởi nỗi sợ bị cô lập và lo không được ai ủng hộ lập trường của mình. Vì vậy tính “dũng cảm” của ngài chỉ có thể giải thích được nhờ hai sự kiện, mà chúng tôi sẽ triển khai trong bài viết này.
Thứ nhất là Đức Tổng Điền đã được dư luận hàng giáo sĩ Huế ủng hộ đến cùng. Chính Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, bằng những nhận xét có vẻ tình cờ, đã làm cho ngài tin tưởng rằng mình đi đúng đường lối. Một lần, ngài nghe kể về Đức Hồng y Wojtyla (sau là Giáo hoàng Gioan-Phaolô II) trả lời Đức Cha Nguyễn Văn Thuận vào khoảng năm 1974 về thái độ phải có với chính quyền cộng sản: “Cộng tác và đề kháng” (collaborer et résister). Đức Tổng Điền mừng rỡ kể lại cho mấy linh mục câu nói của Đức Thánh Cha. Chuyện tới tai công an, thế là trong buổi nói chuyện của Mặt trận Tổ quốc Bình Trị Thiên tại kỳ tĩnh tâm (2 tháng/lần) của linh mục Huế (1), ông Hoàn ủy viên Mặt trận tuyên bố thẳng thừng: “Làm gì có chuyện nghịch lý như vậy: collaborer et résister!” Chừng đó cũng đủ để Đức Tổng Điền nao núng lo sợ mình đã bị hố. Ngài nôn nóng chờ dịp gặp Đức Thánh Cha. Khi gặp được ngài hỏi ngay: có phải Đức Thánh Cha đã nói câu “collaborer et résister” đó không ? Đức Gioan-Phaolô II trả lời, dùng một kiểu nói mạnh hơn gấp bội: “Collaborer en résistant” (2).
Ngay từ những ngày đầu sau “Giải phóng 1975”, Đức Tổng Điền đã cố gắng bằng nhiều cách bày tỏ ý muốn nhân nhượng đó. Trong Thư chung đầu tiên cho đoàn chiên đang hồi hương sau cuộc sơ tán, ngài đã dùng câu khẩu hiệu “Tiến lên xã hội chủ nghĩa”, làm cho nhiều linh mục ở tận bên châu Âu lấy làm ngán ngẩm lo sợ cho tương lai Giáo hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Riêng tại Huế, khi có người thắc mắc, ngài đã trả lời cách thoải mái: đó là “politique de la main tendue” (chính sách bắt tay [với cộng sản], được đề xướng thời Đức Thánh Cha Phaolô VI với Quốc vụ khanh Villot rồi Casaroli, và cũng có tên là “chính sách với Đông Âu”-Ostpolitik) (3).
Hai hành động của Đức Tổng Điền hỗ trợ cho những ngôn từ kể trên. Một lần ngài triệu tập các linh mục cư trú trong thành phố Huế và thuyết cho các vị 10 phút về nghĩa vụ “bác ái” đối với cán bộ từ miền Bắc vào không có nhà ở. Ngài kết luận: phải nhượng cơ sở cho chính quyền, yêu cầu các cha bỏ phiếu góp ý. Kết quả: đa số cho ý kiến phủ quyết (một vị lớn tuổi còn ghi thêm vào phiếu: “không nhượng chi hết!”) Lý do quá dễ hiểu, nhiều vị đã nói toạc ra: nếu muốn “bác ái”, thì những người phải được quan tâm trước tiên là vợ con của “ngụy quân ngụy quyền” đã bị tước đoạt tài sản gia cư!...
Lần khác là vào năm 1977: cha quản xứ Xuân Long được chính quyền yêu cầu cho mượn khuôn viên (gồm nhà và đất) ngôi trường giáo xứ (4). Cơ sở giáo xứ thuộc quyền Giám mục, cha quản xứ bèn trình Đức Cha, thầm mong ngài không cho; nhưng cũng phải trình bày hết sự thật: họ muốn dùng ngôi trường đó làm xưởng dệt chiếu, xây dựng kinh tế và tạo công ăn việc làm cho dân chúng xã nhà. Đức Cha quá mừng mà chấp thuận: không thể tìm được lý do nhân đạo hơn thế! Để trấn an lương tâm, ngài dặn cha xứ phải ghi trong văn bản một điều kiện: khi tuyển chọn công nhân xưởng dệt chiếu, phải dành ưu tiên cho dân Công giáo trong vùng. Điều kiện đó được dễ dàng chấp nhận, bởi lẽ nuốt lời hứa đâu phải là chuyện khó; hơn nữa những người lãnh đạo chính quyền xã để ký văn bản đó biết sẽ còn tại chức cho đến khi nào? Kết quả: ngày nay, sau 30 năm “giải phóng” cả nước và thành phố Huế, ban lãnh đạo chính quyền xã đã thay đổi đến năm lần bảy lượt, mà xưởng dệt vẫn chưa sản xuất được một cọng chiếu nào!... Lại còn thừa thắng xông lên, chiếm luôn đám đất trồng cỏ tranh giữa ngôi trường và nhà thờ, vốn là nguồn thu nhập chủ yếu của giáo xứ!... làm nhà ở cho cán bộ (có cả cán bộ cao cấp ngành công an).
Lối hành xử lừa đảo lật lọng đó của chính quyền cộng sản chính là sự kiện thứ hai đưa đẩy Đức Cha Philipphê đến tính cách “dũng cảm” mà thực sự không có trong bản chất bẩm sinh của ngài.
Càng ngày ngài càng thấy rõ điều này: thật là ảo tưởng khi nghĩ rằng những cử chỉ hiền từ nhân ái có thể hoán cải được một số cá nhân cán bộ đảng viên. Cá thể chỉ là số không trước tập thể, tức cái gọi là “giai cấp vô sản”. Khi có chỉ thị của lãnh đạo đảng và nhà nước, không được từ một thủ đoạn tàn độc nào đối với những người của các tôn giáo mà trong riêng tư mình có thể có cảm tình hoặc khâm phục.
Một thời gian ngắn sau “Giải phóng 1975”, nhà nước cộng sản cho nổ “vụ Vinh Sơn” (12-02-1976 tại Sài gòn): “bọn đội lốt thầy tu” dùng nhà thờ Vinh Sơn làm ổ phản động, in bạc giả v.v... Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình được đưa đi xem xét phòng thánh nhà thờ Vinh Sơn: trong tủ đồ lễ có cả đồ lót của phụ nữ! Lúc ấy nhiều người hay chuyện ( trong số có Đức Tổng Điền ( đã thấy ngay màn dàn cảnh lố bịch đến buồn cười: những “cha cố” hủ hóa đó không kiếm được nơi nào khác ngoài tủ đồ lễ để cất áo xống đời thường hay sao?
Bài học đó đã giúp ích rất nhiều cho Đức Cha Philipphê. Hơn một năm sau (4-1977), nổ ra vụ “Hai bài phát biểu” của Đức Tổng. Đầu đuôi là thế này: Ủy ban Mặt trận thành phố Huế mời họp một số chức sắc Phật giáo và Công giáo; mục đích là phổ biến tin tức và hình ảnh về một vụ xấu xa của Phật giáo. Một ni cô Phật giáo đã tự thiêu để phản đối chính quyền; khi đem giảo nghiệm tử thi đã cháy đen thì phát hiện ra tu sĩ đó đang có thai: rõ ràng là để phi tang một vụ bê bối giữa giới ni sư, các thầy đã một công hai việc thiêu sát ni cô để xách động chống cộng! Đức Tổng Điền đứng lên phát biểu trước tiên. Ngài bắt đầu bằng câu: “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, ám chỉ đến vụ Vinh Sơn: mặc dầu không có kiến thức sâu rộng về động vật học, Đức Cha cũng đủ sáng suốt để biết rằng những hình ảnh như vậy có thể lấy được dễ dàng nơi các phòng hộ sinh và dịch vụ phá thai (có thưởng: kế hoạch hóa gia đình!) (5).
Vụ Vinh Sơn đã giúp ngài tránh được những lời phát biểu hàm hồ. Sau đó, một phái đoàn sư sãi đến xin yết kiến ngài tại tòa Giám mục: để tỏ lòng biết ơn và khâm phục sâu sắc, các vị đã quỳ mọp khấu đầu lạy ngài!
Tư thế của ngài đối với chính quyền cộng sản đã xấu hẳn đi từ đây. Nhưng ngài vẫn không từ bỏ ước mơ cải thiện tư thế đó bằng những cử chỉ thân thiện đến mềm yếu. Cơ hội đến với ngài (1985) khi chính quyền tỉnh tổ chức một chuyến tham quan thủ đô Hà Nội (chương trình dĩ nhiên bao gồm mục “vào lăng viếng Bác”) cho các thầy và các cha; họ yêu cầu ngài chỉ định một danh sách sáu linh mục tham gia đoàn (con số “sáu” không chút ngẫu nhiên: có 6 giáo hạt, tức 6 cha hạt trưởng). Ngài đã tỏ ra tích cực trong việc chỉ định, đến nỗi nhiều linh mục trong giáo phận đã coi đây là lệnh của Đấng Bản quyền mà theo giáo luật phải tuân phục.
Các linh mục được chỉ định đứng trước một sự lựa chọn khó khăn đến nhức nhối: nếu chấp hành lệnh Bề trên, thì sẽ mắc bẫy cộng sản, vì chắc chắn kịch bản “tham quan” đó giấu ẩn nhiều chiêu thức ma quái khó lường; nhưng nếu làm theo xác tín của mình (= đây không phải là trường hợp Giám mục có quyền ra lệnh) thì sẽ làm cho Đức Cha lo âu phiền muộn vì lập trường ngài đã chọn là: bằng mọi giá không trái ý chính quyền... như chính ngài đã nói khi được mách có khả năng các cha không chấp hành: “Như vậy là căng rồi đó, khổ quá!”
Ơn trên soi sáng, sáu vị linh mục sau khi hội ý với nhau đã nghĩ ra được một tuyệt chiêu: cùng ký tên vào một lá thư ngắn gởi Mặt trận. Đại ý: chúng tôi được biết Đức Tổng Giám mục năm nay cũng như nhiều năm qua đã không được phép tham dự cuộc họp thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Đó là sinh hoạt hệ trọng bậc nhất của Giáo hội Việt Nam, thế mà chúng tôi lại đi tham quan giải trí đó đây: thật là chuyện mâu thuẫn và vô lý. Vì vậy chúng tôi xin trả lời: chúng tôi xin kiếu!
Đức Cha nhẹ nhõm hả hê: các cha nhận trách nhiệm trong việc từ chối này, không phải để đối lập với Đức Cha, mà trái lại để ủng hộ Đức Cha! Ngài vội vã nhắn với những cha đang lo sợ đã làm Đức Cha giận: “Cám ơn lắm, không giận đâu!” (nguyên văn).
Từ nay Đức Tổng Nguyễn Kim Điền chỉ còn một hướng đi: dũng cảm thực sự và cụ thể.
Trong thời gian “120 ngày làm việc với công an (từ 5-4 đến 15-10-1984), ngài thường thổ lộ với người thân tín sau một ngày làm việc: tạ ơn Chúa đã cho qua một ngày vững vàng, cầu mong Chúa cho ngày mai cũng được như vậy. Thật là khiêm nhượng: không dám nói trước là mình sẽ vững vàng mãi mãi bao lâu còn phải ngồi trước cán bộ công an (6).
Khi ra đi mỗi sáng, ngài ôm sẵn một gói hành lý nhỏ vừa bằng chiếc mũ đựng những đồ dùng cá nhân cần thiết: biết đâu ngày hôm đó ngài sẽ bị bắt đem đi luôn ! Ngài chờ đón và chấp nhận tình huống này. Tâm trạng này thật là dũng cảm, vì những lý do mà ít người biết đến:
1) Ngài mang trong cơ thể cả trăm thứ bệnh đòi hỏi thuốc men đặc biệt và chế độ ăn uống riêng. Thử hỏi: vào tù làm gì kiếm được thuốc thang và thức ăn đặc biệt đó? Nhưng ngài đã chấp nhận ngay cả cái chết, vì Thiên Chúa, vì Giáo hội.
2) Ngài tin như đinh đóng cột vào huyền thoại “Cộng sản toàn năng”, có đủ thủ đoạn để khiến người ta khai thú bất cứ điều gì họ muốn. Có lần ngài cho biết về thuốc sự thật (sérum de vérité): “Tôi được biết, khi bị chích thuốc đó vào rồi, đương sự nằng nặc đòi khai báo, thậm chí van lạy để người ta nghe khai!”.
Thật ra kẻ cho ngài thông tin này đã đọc câu chuyện “khoa học giả tưởng” đó trong tập truyện tranh Tin tin & Milou mang tên “Vol 714 pour Sydney”. Nhưng Đức Cha đâu có biết đó là chuyện giả tưởng: đấy chính là công lớn của ngài, ngài thật xứng với danh hiệu “Tổng Giám mục dũng cảm”.
Lm. Augustinô Hồ Văn Quý
Nguyên bí thư tòa TGM Huế (1972-1975) và giám đốc Đại chủng viện Huế (1975-1977)
Chú thích:
(1) Nhiều linh mục Huế không ưa các buổi nói chuyện này, coi đó là dịp để công an ghi sổ về thái độ của từng cá nhân...
(2) Những ai từng làm thầy dạy môn Pháp văn đều biết kiểu nói như vậy có thể dịch được ba cách: “cộng tác trong khi đề kháng”, “vừa cộng tác vừa đề kháng”, và “cộng tác bằng cách đề kháng”. Kể cả cách hiểu thứ ba cũng có thể vận dụng được ở đây (có vẻ nghịch lý đó, nhưng phân tích kỹ, sẽ thấy hợp lý hoàn toàn!).
(3) Đức Hồng y Wyszynski đã có lần phê bình chính sách đó như sau: “Tối thiểu là yêu cầu đừng có đè nặng lên thập giá của chúng tôi!” Về vai trò của Đức Hồng y Wyszynski trong giai đoạn này, Đức Hồng y Wojtyla đã nói với Đức Cha Thuận trong lần gặp gỡ kể trên: “Đó là con người của Chúa quan phòng” (C’est l’homme providentiel).
(4) Xưa gọi là trường Sohier, ghi công Đức Cha Sohier (tên Việt là Bình, 1862-1876), người đã đặt tòa Giám mục tại Xuân Long (còn gọi là Kim Long). Nền của tòa Giám mục vẫn còn thấy được ở đó ngày nay.
(5) Bào thai các động vật có xương sống trong những tuần lễ đầu khó phân biệt nhau, trừ phi dưới con mắt chuyên gia: đây là một bằng chứng hỗ trợ cho thuyết tiến hóa. Thành ra nếu không có hình ảnh phôi thai người, cộng sản vẫn có thể dùng hình ảnh phôi thai chó, heo, bò... thuộc những tuần lễ đầu tiên mà đánh lừa được.
(6) Ngày xưa: Khôn ngoan ra trước cửa quan mới biết. Ngày nay: Có gan ra trước công an mới biết.
35- Trên cánh đồng vàng
Hoàng Chinh Nguyên
Hồi chuông khải niệm kính tiễn Đức Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền
“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo.
Lúc trở về, về reo hớn hở, vai gánh nặng lúa vàng”
(Tv 126,5-6)
Người vững nguyện theo đường Thánh Tử,
Giờ đây xóm đạo chốn mịt mùng,
Nhiều con chiên đến từ trông đợi,
Thấp thỏm trong lòng mong tiếc mong.
Tiếc Cha chuông báo buông hồi chậm
Nắng bừng ngày hạ bỗng sa mưa.
Cây nghiêng lều rủ theo vườn Chúa
Nền cũ đài cao bóng nhạt nhòa.
Nơi ấy, năm xưa con còn nhớ
Trầm ấm lời Cha sao thiết tha.
Đến nay con hiểu thì ôi hỡi
Cha đã đi rồi, dạ xót xa!
Sáng nay, khắp lối, xác phượng rơi
Thời gian ngừng lại chẳng buồn trôi.
Không gian chùng xuống bao thương tiếc
Mỗi mỗi quanh đây ngậm… ngậm ngùi.
Cắn chặt vành môi, môi sẫm tím,
Tay lần từng hạt chuỗi Mân Côi,
Nguyện cầu Cha sớm về trên ấy
Nước Chúa Thiên Đàng ắt hẳn vui.
Thánh đường nghiêm lễ hương trầm ngát
Chúa ngự tầng cao vẫn khôn lời,
Dang tay như vói chùm trĩu hạt
Chuông đổ liên hồi, sao đổi ngôi.
Hoàng Chinh Nguyên, 8-6-1988 - 8-6-2008
**********************************************************
Một Vài Kỷ Niệm Với
Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền
Trần Đông Phong
Vào khoảng đầu thập niên 1970, nhân một dịp ra thăm Huế, tôi được mời đến tham dự một buổi lễ địa phương tổ chức tại Toà Đại Biểu Chính Phủ bên bờ sông Hương. Sau buổi lễ, trong phần tiếp tân, ông Tỉnh Trưởng dẫn tôi đến trước mặt Đức Cha Nguyễn Kim Điền, Giám Mục Tổng Giáo Phận Huế và giới thiệu tôi với Ngài. Trước sự ngạc nhiên của ông Tỉnh Trưởng, Đức Tổng Giám Mục vồn vã nắm chặt lấy tay tôi và nói:
- Chào anh giáo sư. Đã hơn mười năm rồi mới được gặp lại anh!
Rồi ông quay sang ông Tỉnh Trưởng nói tiếp:
- Tôi quen với ông giáo sư này từ trước khi tôi làm Giám mục Địa phận Cần Thơ, cách đây mười mấy năm rồi. Hôm nay nhờ ông Tỉnh Trưởng mà tôi lại được gặp lại một người bạn cũ, tôi cám ơn ông Tỉnh nhiều lắm!
Đại Tá Lê Văn Thân cũng cười nói với Ngài:
- Thưa Đức Tổng, con quen biết ông này cũng lâu rồi, bây giờ nhờ Đức Tổng mới biết ông ấy ngày xưa làm giáo sư.
Sau một hồi hàn huyên, Đức Cha hỏi tôi chừng nào trở về Sài Gòn và sau khi tôi thưa rằng tôi còn ở lại Huế vài ba hôm nữa thì Ngài hỏi tôi:
- Ngài mai anh đến thăm tôi nhé! Tôi muốn gặp riêng anh để hỏi thăm chuyện cũ hồi ở Cần Thơ. À này, anh nhớ đến ăn cơm trưa với tôi nghe!
* * *
Hồi cuối thập niên 1950, tôi dạy học tại trường Trung Học Phan Thanh Giản, một trường công lập tại Tây Đô. Tiếng là thủ đô của miền Tây nhưng Cần Thơ chỉ là một thành phố nhỏ bên dòng sông Hậu Giang, không có nhiều môn giải trí cho nên bọn chúng tôi, một nhóm độc thân đa số là luật sư, bác sĩ, kỹ sư, công chức và giáo sư v.v. thường tụ họp với nhau ở quán Ngọc Lợi tại sân quần vợt sau giờ làm việc để đấu láo, ăn tục nói phét và nói chuyện trên trời dưới đất...
Chuyện trên trời dưới đất đối với chúng tôi hồi đó, ngoài những chuyện liên quan đến văn chương, lịch sử, kinh tế, xã hội và cả những chuyện về chính trị bên Tây, bên Tàu, bên Nga, bên Mỹ và dĩ nhiên là cũng còn có nhiều chuyện xảy ra ngay trong đất nước. Đa số chúng tôi đều là những người trẻ tuổi, chẳng biết sợ trời sợ đất gì cả cho nên chẳng cần phải giữ gìn lời ăn tiếng nói, ưa thích ai thì khen người đó mà không thích ai thì chỉ trích thẳng thừng chẳng nể nang gì, mỗi người một ý kiến và do đó mà những buổi gặp gỡ hàng ngày đều vô cùng thú vị, nhất là những lần nói chuyện về tình hình đất nước.
Có một buổi chiều, Luật sư Nguyễn Văn Anh đưa một người bạn của anh đến chơi và giới thiệu với chúng tôi:
- Đây là anh Điền, ở bên Tây mới về!
Khi được hỏi anh đang làm việc ở đâu thì anh Điền chỉ cho biết anh đang làm cho một chương trình xã hội và lao động. Anh nói với chúng tôi nửa đùa nửa thật:
- Sự thật thì tôi làm lao động nhưng mà nói như vậy thì chắc rằng các anh không tin đâu!
Dĩ nhiên là chúng tôi không thể nào tin được chuyện đó vì một người “ở bên Tây về” thì không thể nào lại đi làm công việc lao động ở cái xứ Việt Nam vừa mới giành được độc lập cách đấy chỉ có mới hơn ba năm. Về sau nhiều lần chúng tôi hỏi Luật sư Anh về nghề nghiệp của anh Điền thì anh chàng này chỉ nói quanh nói quất rằng anh Điền đang làm công việc có liên quan đến ngành lao động. Tuy vậy bọn chúng tôi cũng không thể nào tin rằng một người từng đi du học Pháp trở về, nhất là có vóc dáng và gương mặt trí thức như anh Điền mà lại làm nghề có liên quan đến giới lao động.
Sau lần đó, anh Điền trở lại tham dự vào những buổi chuyện phiếm của chúng tôi nhiều lần và được chúng tôi qúy mến vô cùng.
Anh Điền là người khôi ngô, cao ráo, đẹp trai, mũi cao, đôi mắt hiền hoà với nụ cười khả ái, tuy ăn mặc giàn dị và ít nói nhưng không giấu được nét thông minh với vầng trán rộng. Anh trạc trên ba mươi mấy tuổi, so với chúng tôi thì anh Điền lớn hơn chúng tôi khoảng trên mười mấy tuổi, cho nên chúng tôi coi anh như là một bậc đàn anh. Nếu chúng tôi ăn to nói lớn, ăn tục nói phét thì anh Điền là người điềm đạm và ăn nói năng từ tốn, chững chạc, nếu chúng tôi thường chỉ trích những người trong chính quyền thì anh Điền thường chỉ ngồi nghe chứ ít khi phát biểu ý kiến. Có nhiều khi chúng tôi yêu cầu anh phát biểu ý kiến thì anh viện cớ là ở ngoại quốc mới về Việt Nam cho nên anh muốn nghe để học hỏi thêm về chuyện quê hương đất nước chứ không dám có ý kiến.
Anh Điền thường né tránh như vậy mỗi khi chúng tôi nói chuyện về chính trị, tuy nhiên khi thảo luận về những vấn đề văn hoá và xã hội thì anh cũng đóng góp nhiều ý kiến, nhất là nói về những kinh nghiệm của anh ở Pháp và Bắc Phi. Khi nghe anh nói về Bắc Phi, chúng tôi vô cùng thích thú vì đó là một vùng đất mà chúng tôi chỉ nghe nói qua sách vở, qua những bài học về địa lý đơn sơ, về những con người mà chúng tôi không hề có cảm tình vì dưới thời thực dân Pháp, không có một người Việt Nam nào mà lại không sợ mấy ông Tây Ma-rốc, Sénégalais “rạch mặt” v.v… Anh kể cho chúng tôi nghe về sa mạc Sahara mà anh đã có nhiều dịp du hành vào vùng đó và nhất là nói về ý nghĩa của danh từ “ốc đảo” (oassis) mà chúng tôi chỉ nghe nói chứ không có một khái niệm nào.
Tôi còn nhớ anh Điền nói với chúng tôi: “Các anh không thể nào hiểu được “ốc đảo” nếu các anh chưa vào sa mạc Sahara, chưa chịu đựng qua cái nóng cháy người của ánh mặt trời và những cơn bão cát trong sa mạc, chưa chịu đựng qua cái khát kinh người sau một ngày ngất ngư trong sa mạc... Chỉ có sau những sự chịu đựng đó thì các anh mới hiểu được hai chữ “ốc đảo” vì ốc đảo là tất cả những cái gì con người mơ ước trong sa mạc, những cái gì trái ngược với những sự chịu đựng tột cùng đó của thể xác con người...”
Có lẽ tôi là một trong những người lấy làm thích thú nhất về ốc đảo do anh Điền mô tả cho nên khoảng hai mươi năm sau, trong thời gian làm việc tại Bắc Phi, tôi đã lần mò đi vào sa mạc Sahara tận vùng cực nam nước Tunisie và tôi đã biết ơn anh Điền, vì nhờ anh tôi đã lãnh hội được ý nghĩa của danh từ “ốc đảo” mà anh đã nói với chúng tôi ở Cần Thơ hồi trước.
Hồi cuối thập niên 1950, năm sáu năm sau Hiệp định Genève, đất nước đang được sống trong cảnh thanh bình thịnh trị và về chính trị thì người dân nói chung và giới trí thức nói riêng đều được hưởng một cuộc sống tự do và cởi mở rất nhiều so với thời đất nước còn bị người Pháp cai trị. Chúng tôi biết ơn nền Đệ Nhất Cộng Hoà, tuy nhiên không vì thế mà nhắm mắt ca ngợi chế độ vì chế độ này vẫn còn non trẻ và do đó vẫn còn có rất nhiều sai lầm cũng như là khuyết điểm. Những bậc lão thành thì dù có bất mãn họ cũng không nói ra một cách công khai, tuy nhiên là những người còn trẻ tuổi, mới ngoài đôi mươi, chúng tôi chẳng cần giữ gìn, chẳng cần ý tứ dè dặt gì cả, hễ nghe hay thấy “chuyện bất bình thì chẳng tha.” Chẳng tha đây là chẳng tha chỉ trích những sai lầm của chế độ, còn có ai nghe hay không thì chuyện đó đối với chúng tôi cũng chẳng có gì quan trọng. Chúng tôi chỉ trích từ “ông Cậu” tức là ông Ngô Đình Cẩn ở miền Trung, chỉ trích “bà Cố” tức là bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu ở Sài Gòn và đặc biệt là chỉ trích “Đức Cha” tức là Giám Mục Ngô Đình Thục, Giám mục địa phận Vĩnh Long, chỉ cách Cần Thơ có một dòng sông Hậu Giang.
Ông Cậu thì ở tận ngoài Huế nên chúng tôi ít nói về ông, tuy nhiên Bà Cố thì ngoài những chuyện đồn đại ở Sài Gòn liên quan đến bộ Luật Gia Đình, mà chúng tôi không chống đối, bà lại bị chúng tôi chỉ trích về việc ông Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống và Bà Đệ Nhất Phu Nhân lại không cho con cái đi học trường của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà mà tất cả đều đi học trường... Tây, và tệ hơn nữa, ông bà cùng con cái luôn luôn chỉ nói tiếng... Tây với nhau trong gia đình.
Riêng về Đức Cha thì tôi là người thường chỉ trích ông nhiều nhất vì chuyện ông chỉ là một vị giám mục mà gần như hầu hết các nhân vật cao cấp trong chính quyền hồi đó đều phải về Vĩnh Long “triều kiến” ông, còn đối với những cấp chỉ huy hành chánh cũng như là quân sự ở miền Tây thì khỏi nói, người ta đồn rằng nếu người nào làm điều gì ông không hài lòng thì thế nào cũng bị mất chức. Về chuyện này, tôi còn nhớ trong giới trí thức hồi đó, người ta đã sửa một câu vè nổi tiếng lại như sau: “Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế ...Vĩnh Long!”
Dạo ấy, ông có làm một cái lễ kỷ niệm gì đó, hình như là kỷ niệm mấy chục năm làm giám mục địa phận Vĩnh Long chứ chưa phải là lễ Ngân Khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong giám mục vào năm 1963. Cái việc làm lễ kỷ niệm đó chỉ là chuyện riêng của ông, gia đình của ông và giáo dân của ông, vậy mà Bộ Giáo Dục lại ra lệnh trừ một ngày lương của tất cả giáo sư, giáo viên và công chức trên toàn quốc để đóng góp vào ngân quỹ làm lễ này. Sở dĩ tôi bất mãn như vậy không phải là bị trừ đi một ngày lương mà vì vấn đề nguyên tắc: Đức Cha Ngô Đình Thục tuy là anh ruột của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhưng có ăn nhằm gì đến đám giáo sư và giáo viên trên toàn quốc mà ông Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Trần Hữu Thế, một đàn em thân tín của Đức Cha Thục, lại bắt chúng tôi phải góp tiền để làm lễ kỷ niệm cho ông Giám Mục? Ông lấy tư cách gì mà ra lệnh cho ông Bộ Trưởng Giáo Dục ký chỉ thị trừ một ngày lương của tất cả nhân viên trong bộ trên toàn quốc? Chuyện này ông Tổng Thống có biết hay không và nếu ông Tổng Thống có biết mà không ra lệnh ngưng việc đó hay khiển trách ông Bộ Trưởng thì đó là một sự vi phạm nghiêm trọng đến nguyên tắc “séparation de l’état et de l’église” (phân quyền giữa nhà nước và giáo hội), một nguyên tắc mà giới trí thức trẻ chúng tôi nhiệt thành ủng hộ.
Những lần như vậy thì anh Điền chỉ lẳng lặng ngồi nghe, không hề bày tỏ một ý kiến gì, tuy nhiên khi nhìn vào khuôn mặt anh, tôi thấy anh không giấu được nét đăm chiêu trong ánh mắt. Tuy không biết rõ anh làm nghề gì nhưng chúng tôi, và riêng tôi, bao giờ cũng bày tỏ sự kính mến đối với con người lớn tuổi đầy kinh nghiệm, hiểu nhiều biết rộng nhưng lại vô cùng khiêm tốn này và tất cả chúng tôi ai ai cũng đều dành cho anh Điền sự kính trọng và cảm tình vô cùng nồng hậu. Có nhiều khi năm ba ngày không thấy anh ghé đến chơi, chúng tôi hỏi Luật sư Anh thì anh chàng này cho biết rằng anh Điền ở tận trong Bình Thủy, cách thành phố Cần Thơ lối chừng chưa đến mười cây số, do đó chỉ khi nào anh Điền nhắn thì anh ấy mới vô Bình Thủy đón anh ra Cần Thơ chơi.
Đến khoảng cuối năm 1960 thì anh Điền gần như không đến gặp chúng tôi nữa và sau cuộc đảo chánh bất thành ngày 11 tháng 11 năm 1960 thì chúng tôi cũng trở nên dè dặt trong lời ăn tiếng nói hơn trước. Riêng tôi thì lại càng dè dặt hơn sau khi bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung “hỏi thăm sức khoẻ”, do đó những buổi nói chuyện trên trời dưới đất của bọn chúng tôi lại quay sang đề tài vô thưởng vô phạt, chẳng hạn như là nói về... chuyện chưởng.
Chúng tôi gần như quên anh Điền thì vào khoảng tháng 3 năm 1961, nhà trường chỉ thị cho một số giáo sư, trong đó có tôi, phải đến tham dự buổi thánh lễ do vị tân Giám Mục Địa phận Cần Thơ làm chủ tế lần đầu tiên sau khi được thụ phong tại Sài Gòn cách đó chừng hơn một tháng.
Tôi không phải là người theo Thiên Chúa giáo, lại không thích lễ ở nhà thờ vì hồi mới vào trung học, tôi sống nội trú trong một trường Thánh La Salle và ngày nào cũng phải dậy sớm để dự thánh lễ từ năm giờ sáng. Do đó khi đến dự lễ tại nhà thờ chánh toà Cần Thơ thì tôi tìm cách đứng sau tận cùng nhà thờ, thỉnh thoảng lại còn lén ra ngoài hút thuốc lá, do đó cũng không để ý gì nhiều đến vị tân giám mục. Tuy nhiên khi vị chủ tế đưa thánh giá lên và nghe tiếng chuông leng keng thì tôi thật mừng vì biết rằng buổi lễ sắp kết thúc. Từ cuối nhà thờ, tôi nhìn lên phía bàn thờ và ngạc nhiên khi thấy vị tân giám mục trông có vài nét quen thuộc. Tuy nhiên sau buổi lễ, tôi ra về nhưng cũng không còn để ý gì đến chuyện đó nữa vì tôi không hề quen biết với một vị linh mục hay giám mục nào trong vùng Hậu Giang này cả.
Ít lâu sau đó, một vài người trong đó có tôi nhận được thư mời của Giám Mục Nguyễn Kim Điền đến dự một bữa cơm thân mật tại Toà Giám Mục. Tôi rất ngạc nhiên vì tôi không hề quen biết với ông tân giám mục này, khi tôi hỏi Luật sư Anh thì hắn ta chỉ cười cười nói với tôi rằng: “Thì lát nữa toa gặp ông ấy rồi sẽ biết!” Tuy hắn nói như vậy nhưng tôi bỗng chợt nghĩ ra: “Không lẽ ông tân giám mục lại là... anh Điền?”
Khi Giám Mục Nguyễn Kim Điền ra tiếp đón chúng tôi thì tôi chưng hửng, vừa ngạc nhiên vừa thích thú vì đúng như sự tiên đoán của tôi, Đức Giám Mục chính là... anh Điền!
Ngay lúc đó, dù rằng có sự quen biết nhưng giữa vị tân giám mục và chúng tôi thì đã có một khoảng cách thật xa vì đối với chúng tôi thì ông không còn là anh Điền khi xưa nữa mà đã trở thành người lãnh đạo tinh thần của một tôn giáo lớn tại miền Tây. Tuy nhiên, khi gặp lại chúng tôi, Đức Cha Điền tiếp đãi chúng tôi vô cùng cởi mở và thân thiện, từ cử chỉ đến lời ăn tiếng nói, ông vẫn đối xử với chúng tôi như xưa.
Tôi vô cùng cảm động và nói với ông:
- Thưa Đức Cha, con xin thành thật xin lỗi là trong thời gian qua, chúng con không hề được biết Đức Cha là linh mục cho nên đôi khi đã có nhiều điều thất lễ đối với Đức Cha. Kính xin Đức Cha niệm tình tha thứ cho tất cả chúng con.”
Đức Cha cười lớn rồi nói với chúng tôi:
- Thưa các anh, đáng lý ra thì tôi phải mời các anh đến nói chuyện ở quán Ngọc Lợi như chúng ta vẫn thường nói chuyện trước kia, tuy nhiên chuyện đó bây giờ không thích hợp với địa vị giám mục của tôi và tôi lấy làm tiếc là đã không được cùng các anh ngồi nói chuyện trong khung cảnh thân mật hơn đó.
Hôm nay tôi mời các anh đến đây, trước hết là xin ngỏ lời cám ơn các anh đã dành cho tôi thật nhiều cảm tình trước đây và nhất là cám ơn các anh đã cho tôi biết được nhiều chuyện ở ngoài đời mà với cuộc sống của một người linh mục phục vụ trong giới người lao động nghèo khó thì tôi khó mà biết được. Chính vì lẽ đó mà tôi đã căn dặn anh Luật sư Anh nhiều lần là không bao giờ cho các anh biết tôi là linh mục, vì nếu các anh biết tôi là linh mục thì các anh sẽ trở nên dè dặt với tôi và những buổi nói chuyện của chúng ta sẽ mất đi phần hứng thú rất nhiều.
Thú thật với các anh là từ ngày ở ngoại quốc trở về Việt Nam, chưa bao giờ tôi được sống những giờ phút đầy thú vị, cả về phương diện tinh thần lẫn dân tộc vì tôi được sống giữa những người Việt Nam, được nghe thảo luận về những vấn đề của Việt Nam và nhất là được biết những người Việt Nam có lòng yêu quê hương, yêu đất nước, yêu đồng bào và yêu xã hội... của giới trẻ như các anh. Tôi rất vui mừng vì các anh cũng có cùng chí hướng như tôi, vì các anh cũng muốn cải thiện đời sống của người dân, các anh cũng muốn nâng cao dân trí, cũng muốn sửa đổi những sai lầm, những khuyết điểm trong xã hội để xây dựng một cuộc sống tươi đẹp hơn cho người dân Miền Nam nói chung và vùng Hậu Giang nói riêng.
Thú thật với các anh là cũng chính vì chí hướng đó mà tôi đã xin tình nguyện gia nhập Dòng Tiểu Đệ, một dòng “hèn mọn”với lý tưởng phục vụ cho dân lao động, đã sang phục vụ tại Phi Châu và khi về Việt Nam, tôi cũng đã làm những công việc lao động để phục vụ cho người dân nghèo từ Sài Gòn và sau này về Cần Thơ và được gặp các anh... Tôi xin cám ơn các anh rất nhiều...
Trong buổi gặp gỡ đó, Đức Cha Điền cho chúng tôi biết một vài chi tiết về cuộc đời của Ngài: vào chủng viện năm 1930, thụ phong linh mục năm 1947, sau đó làm giáo sư tại chủng viện Sài Gòn và trở thành giám đốc chủng viện vào năm 1949. Năm 1955, Đức Cha xin tình nguyện gia nhập Dòng Tiểu Đệ tức là dòng Little Brothers of Jesus hay là dòng Foucauld vì theo tinh thần Linh mục Charles de Foucauld.
Tử Tước Vicomte Charles Eugène de Foucauld (1858-1916) là con nhà thế gia vọng tộc, tốt nghiệp trường Võ bị Saint-Cyr của Pháp vào năm 1876 rồi phục vụ trong quân đội Pháp tại Algérie. Khi còn trẻ ông sống một cuộc đời ăn chơi phóng đãng, nhưng đến năm 1882 thì ông rời khỏi quân đội sang khảo cứu tại nước Maroc (Morocco). Năm 1890, ông vào tu theo dòng Trappist (một dòng tu theo khổ hạnh) nhưng 7 năm sau thì bỏ dòng tu này, sang Algérie sống như một nhà ẩn sĩ tại vùng Tamanrasset thuộc miền Nam nước Algérie, trong vùng sa mạc Sahara. Ông được thụ phong linh mục vào năm 1901, lúc bấy giờ đã 43 tuổi. Charles de Foucauld xem tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chủng tộc và giai cấp đều là anh em (brothers), chị em (sisters). Foucauld đưa ra những tư tưởng căn bản để thành lập một dòng tu mới nhằm mục đích phục vụ cho người nghèo khổ, tuy nhiên ước vọng này của ông bất thành vì vào năm 1916 thì ông lại bị người Ả Rập Hồi giáo giết chết.
Tư tưởng của ông về sau được Louis Massignon thu thập lại và in thành cuốn sách “Directory” và đến năm 1933 thì một dòng tu mới dựa vào đường lối và tư tưởng của Linh mục Foucauld được 5 vị chủng sinh thành lập tại Giáo đường Thánh Tâm (Sacré-Coeur) ở Montmartre, Paris. Dòng tu mới này mang tên là Little Brothers of Jesus (Tiểu Đệ) dành cho phái nam và Little Sisters of Jesus (Tiểu Muội) dành cho phái nữ, tuy nhiên nhiều người đã gọi là Dòng Foucauld. Ba quy luật căn bản của dòng tu này là sự nghèo khổ (poverty), sự thanh khiết (chastity) và sự vâng lời (obedience) mà tất cả mọi người gia nhập dòng này đều phải tuyệt đối tuân phục.
Gần một thế kỷ sau khi ông bị người Ả Rập giết chết, Linh mục Charles de Foucauld đã được Toà Thánh Vatican xem như là một vị tử đạo và ông đã được Đức Giáo Hoàng Benedict XVI phong chân phước vào ngày 13 tháng 11 năm 2005.
L.m. Charles de Foucauld (Nguồn: answer.com)
Đức Cha Nguyễn Kim Điền đã là một linh mục từ năm 1947 nhưng đến năm 1955 thì ông lại xin gia nhập vào Dòng Tiểu Đệ. Ông đã sang tu học tại Bắc Phi, sống tập thể cùng với các tu sĩ dòng Tiểu Đệ ở El-Abiodh và Saint Maximin ở Algérie và phục vụ cho những người nghèo khổ trong vùng sa mạc Sahara ở phía nam nước Algérie. Tháng 11 năm 1956, ông đã nhận áo dòng Tiểu Đệ trước mặt Đức Cha De Provenchère, Linh mục Voillaume và một số các Soeurs dòng Tiểu Muội.
Đến năm 1957, ông trở về Việt Nam phục vụ cho người nghèo với nghề lao động chân tay như đạp xích lô, thợ mộc, thợ hồ v.v… tại Sài Gòn, Lâm Đồng và cuối cùng về Cần Thơ sống tại Bình Thủy. Cuối tháng 11 năm 1960, ông được Toà Thánh Vatican bổ nhiệm làm Giám Mục Địa Phận Cần Thơ dù rằng ông đã cố gắng từ chối vinh dự này, chỉ muốn được ở lại làm một người “Tiểu Đệ” mà thôi. Trong bút ký ghi ngày 8 tháng 12 năm 1960, Linh mục Nguyễn Kim Điền viết như sau: “Chân thành mà nói, tôi khổ tâm mà không thể hiểu nổi. Đại diện Toà Thánh nói rằng tôi không có thể khước từ. Tôi xin chấp nhận sứ mệnh này như lời mời đón nhận Thánh Giá...”
Giám mục Phi-lip-phê Nguyễn Kim Điền là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Dòng Tiểu Đệ và ông cũng là vị linh mục đầu tiên của dòng này trên toàn thế giới đã được thụ phong giám mục và sau đó là tổng giám mục.
Sau lần đó, lâu lâu Đức Cha lại cho mời tôi đến Toà Giám mục nói chuyện. Có lần tôi hỏi Ngài:
- Thưa Đức Cha, tại sao đang là một vị linh mục, làm giáo sư và giám đốc một đại chủng viện lớn ở Sài Gòn mà Đức Cha lại bỏ tất cả để tình nguyện gia nhập một dòng tu khổ hạnh tương đối là mới mẻ, ở mãi tận bên Phi Châu và Việt Nam rất ít người biết đến?
Ngài nhìn tôi mỉm cười rồi trả lời:
- Tôi có hoài bão được phục vụ cho Thiên Chúa nhưng mà cũng có tâm nguyện được phục vụ cho những người nghèo khổ và được chia xẻ với họ những sự khốn khó trên đời. Khi đọc được những tư tưởng của Cha de Foucauld thì tôi nhận chân ra rằng đây là con đường mà Thiên Chúa đã chọn cho tôi, do đó mà tôi đã tình nguyện sang Phi Châu để gia nhập dòng Tiểu Đệ. Tôi muốn phục vụ cho người nghèo khổ...
Rồi Đức Cha hỏi lại tôi:
- Anh không phải là người miền Nam, tại sao anh lại về dạy học ở tận xứ Cần Thơ này?
Tôi trả lời:
- Thưa Đức Cha, do một sự tình cờ mà vào mùa Xuân năm 1953, con theo một người bạn về thăm Tây Đô và do đó mà rất có cảm tình với miền Tây. Khi đi dạy học, con nghĩ rằng trước đó, cả miền Tây tức là toàn miền Hậu Giang chỉ có mỗi một trường trung học mà thôi và như vậy thì những người trẻ tuổi ở vùng này cần đến giáo sư nhiều hơn là những nơi khác.
Con nghĩ rằng sau mười năm chiến tranh, người nông dân có nhu cầu phải cho con cái của họ có được một nền học vấn mà họ chưa hề được hưởng, con nghĩ rằng một trong những con đường giúp cho người dân thoát được cảnh nghèo đói là học vấn, có học thì mới được mở mang trí tuệ để tìm cho cá nhân của họ và giúp cho đồng bào của họ có được một cuộc sống tốt đẹp hơn về vật chất, về kinh tế, về xã hội cũng như là tinh thần... Do đó mà con đã chọn nơi này với ý nguyện giúp cho những người trẻ tuổi xuất thân từ những gia đình nông dân chân lấm tay bùn...
Đức Cha nhìn tôi rồi nói với một giọng đầy cảm tình:
- Tôi cũng nhận thấy điều đó qua những lời phát biểu của anh trong thời gian được gần gũi các anh và do đó mà tôi rất có cảm tình với anh. Tôi thấy rằng dù không cùng đi theo một con đường nhưng chúng ta đều cũng có cùng chung một mục đích, đó là phục vụ cho những người nghèo khổ, phục vụ cho những người thiếu học vấn, phục vụ cho những ngưòi kém may mắn...
Lần sau cùng tôi được gặp Đức Cha là lần tôi đến thăm để từ biệt Ngài trước khi lên đường nhập ngũ. Lúc đó vào khoảng năm 1963, vụ Phật giáo vừa bùng nổ tại miền Trung và đang lan ra tại Sài Gòn, tuy nhiên tại miền Tây thì vẫn còn yên tĩnh. Đức Cha hỏi ý kiến tôi về vụ này thì tôi thưa rằng tôn giáo là một lãnh vực mà chính quyền bất cứ tại quốc gia nào cũng đều không nên xâm phạm đến vì trong lãnh vực tôn giáo, chính quyền bao giời cũng sẽ gặp nhiều điều bất lợi hơn là có lợi.
Đức Cha hỏi tôi:
- Anh có nghĩ rằng trong cương vị một giám mục cai quản địa phận Cần Thơ, tôi đã có hành động nào chống lại hoặc làm mất cảm tình với bên Phật giáo hay không?
Tôi trả lời:
- Thưa Đức Cha, với người khác thì con không rõ, tuy nhiên đối với con, một người đã từng từ bỏ chức vụ giám đốc chủng viện tại Sài Gòn để tình nguyện sang Phi Châu xin gia nhập vào Dòng Tiểu Đệ như Đức Cha thì không thể nào lại có tư tưởng kỳ thị tôn giáo cả.
Hơn nữa trong mấy năm nay, Đức Cha chỉ biết đóng vai trò của một vị chủ chiên tại miền Hậu Giang, Đức Cha tránh không hề giao thiệp với chính quyền từ trung ương đến địa phương, Đức Cha luôn luôn hoà đồng với các tôn giáo khác do đó đã chiếm được cảm tình của mọi người, mọi tôn giáo ở vùng này. Miền Tây là địa bàn của Phật Giáo Hoà Hảo nhưng con không nghe họ chỉ trích gì về Đức Cha, trái lại là đằng khác.
Đức Cha nhìn tôi mỉm cười, ông không nói gì tuy nhiên tôi cũng nhìn thấy trên gương mặt của ông thoáng hiện vẻ ưu tư. Khi tôi xin kiếu từ, Đức Cha ân cần dặn dò tôi:
- Sau này khi nào có dịp thì anh phải nhớ đến thăm tôi nghe!
Tôi vào quân đội rồi sau cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, Đức Cha cũng rời Cần Thơ ra Huế nhận chức Giám Quản Tổng Giáo Phận Huế thay cho Tổng Giám mục Ngô Đình Thục. Huế thuộc Vùng I Chiến Thuật nhưng trong suốt thời gian tại ngũ, tôi chưa hề có dịp được phục vụ tại Vùng I, do đó chưa từng có dịp gặp lại Đức Cha Điền cho đến ngày hôm đó.
* * *
Ngày hôm sau, y như lời hẹn, tôi đến Toà Tổng Giám Mục Huế thăm Đức Cha Nguyễn Kim Điền. Ngài đón tiếp tôi với một sự chân tình, với sự thân mật mà Ngài đã dành cho tôi như trên mười năm về trước. Ngài trách tôi đã không tìm đến thăm Ngài thì tôi viện cớ rằng tôi ít có dịp ra miền Trung, vả lại mỗi lần ra Huế, tôi chỉ ở lại có vài ngày và không dám đến thăm vì sợ làm phiền Đức Cha. Ông nhìn tôi rồi nghiêm mặt nói:
- Này ông giáo sư! Đối với ông thì bao giờ tôi cũng là Anh Điền ở Cần Thơ như ngày xưa. Đừng có bao giờ nghĩ như vậy vì bao giờ tôi cũng nhớ đến Cần Thơ, bao giờ tôi cũng nhớ đến các anh, bao giờ tôi cũng muốn gặp lại các anh...
Đức Cha hỏi tôi về cuộc đời của tôi trong quân đội thì tôi thưa với Ngài rằng tôi được giải ngũ vào năm 1967 rồi lại bị tái ngũ sau Tết Mậu Thân và hiện giờ đang phục vụ tại một cơ quan ở Sài Gòn. Ông hỏi thăm tôi về Cần Thơ, về những người bạn cũ của tôi thì tôi thưa rằng từ ngày đi lính tôi cũng ít có dịp trở về Tây Đô và cũng ít có dịp gặp lại những người bạn cũ, chỉ nghe nói mà thôi. Ông hỏi về những người ông còn nhớ như Luật sư Nguyễn Văn Anh thì tôi cho biết Luật sư Anh lúc đó đang làm đại sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Thụy Sĩ, ông hỏi về anh Đàm Quang Đôn thì tôi cho biết anh Đôn đắc cử vào Quốc Hội Lập Hiến và hiện đang hành nghề luật sư ở Cần Thơ, ông hỏi về Bác sĩ Ngô Văn Hiếu thì tôi cho biết Bác Sĩ Hiếu cũng đã đắc cử vào Quốc Hội...
Đột nhiên Đức Cha hỏi tôi:
- Hôm qua sau khi anh đi rồi thì tôi gặp Ôn Thích Mật Nguyện và được Ôn cho biết anh là Phật tử và là đệ tử của một vị cao tăng ở Huế. Vậy mà lâu nay anh không hề cho tôi biết anh là Phật tử cả.
Tôi thưa với Đức Cha:
- Thưa Đức Tổng, mẹ con là một Phật tử vì khi còn trẻ, bà tình nguyện đến hầu hạ săn sóc cho Cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự, kế cạnh chùa Từ Đàm, do đó bà có dịp được quen biết với nhiều vị tăng ni lui tới viếng thăm, đàm luận với Cụ Phan. Sau này mẹ con xin quy y và cả gia đình đã được một vị hoà thượng bạn của Cụ Phan đỡ đầu. Tuy cả gia đình theo đạo Phật nhưng riêng con thì chỉ là loại non-pratiquant mà thôi. Vì con trưởng thành tại miền Nam cho nên có quan niệm rất cởi mở, bạn bè của con có người theo Công Giáo, có người theo Phật Giáo, có người theo Tin Lành, có người theo Cao Đài và cũng có người theo Hoà Hảo v.v..., tuy nhiên chúng con không bao giời phê bình hay thảo luận về bất cứ một tôn giáo nào.
Rồi Đức Cha quay sang chuyện khác:
- À, hôm qua Ôn Mật Nguyện cũng còn cho tôi biết chính anh là người đã khuyên Đại Tá S. không nên ra làm tỉnh trưởng Thưà Thiên. Tôi nghe nói ông S. là người rất tốt, ngoài này cả hai bên Phật giáo và Công giáo đều rất có cảm tình, nhất là phía bên Công giáo, tại sao anh lại khuyên ông ta như vậy?
Tôi cười khổ, phân trần:
- Thưa Đức Tổng, chuyện ông Đại Tá S. từ chối không nhận ra Huế làm tỉnh trưởng là quyết định của ông ấy chứ con có trách nhiệm gì đâu? Sự thật thì khi nghe tin sẽ được chỉ định làm tỉnh trưởng, ông ấy có hỏi ý kiến con và con đã phân tách những yếu tố lợi và hại để ông ấy quyết định: tuy ông là người Công giáo nhưng ông nội của ông là Phật tử, lại là bạn rất thân với Hoà Thượng Thích Đôn Hậu, do đó mà bên Phật giáo rất có cảm tình với ông; người ông thay thế là Đại Tá Lê Văn Thân, một sĩ quan theo Thiên Chúa giáo và là người miền Bắc nhưng lại vô cùng khôn khéo cho nên rất được lòng bên Phật giáo và giới sinh viên trẻ; vợ của Đại Tá S. lại có liên hệ họ hàng rất gần với gia đình cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nhất là yếu tố khi Đại Tá S. từ Hoa Kỳ trở về Việt Nam vào cuối tháng 10 năm 1963, ông ra Huế thăm gia đình đúng vào lúc cuộc đảo chánh xẩy ra, chính ông là người đã đưa ông Ngô Đình Cẩn từ Phủ Cam đến Dòng Chúa Cứu Thế để tỵ nạn...
Sau khi đưa ra những yếu tố đó, con có nói với Đại Tá S. rằng khi bình yên vô sự thì chẳng có sao, nhưng khi có một vài sự trục trặc nào đó, liệu sinh viên Huế có để yên cho Đại Tá S. về liên hệ của ông với gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm hay không? Liệu ông có tránh khỏi việc bị lên án là “Cần Lao ác ôn” hay không? Ngoài ra, Huế là địa bàn hoạt động của nhiều đảng phái chính trị, liệu ông có đủ khả năng và kinh nghiệm để làm vừa lòng tất cả các đảng phái đó hay không?
Về phương diện binh nghiệp, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tốt nghiệp khoá 1 trường Sĩ Quan Huế, Đại Tá S. tốt nghiệp khoá 2; khi Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu làm Chỉ Huy Trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt thì Thiếu Tá S. làm Chỉ Huy Phó; khi sang Hoa Kỳ thay thế cho Trung Tá Cao Văn Viên làm Tùy Viên Quân Lực thì ông S. cũng đã mang cấp bậc Trung Tá, bây giờ ông Cao Văn Viên làm Đại Tướng còn ông S. thì chỉ mới có Đại Tá, như vậy thì đi giữ chức vụ tỉnh trưởng có lợi gì hay không cho cuộc đời binh nghiệp, nhất là ông biết rất rõ rằng ông sẽ không bao giờ được cử vào chức vụ tư lệnh sư đoàn để lên tướng?
Thưa Đức Tổng, sự thật thì con chỉ có đưa ra những yếu tố như vậy và từ chối không đi làm tỉnh trưởng là quyết định của Đại Tá S. Cách đây hai hôm, con có được Ôn Thích Mật Nguyện kêu lên chùa để hỏi về chuyện này và bị Ôn la cho một trận. Ôn nói rằng con là người Phật giáo mà lại đi “hại” Phật giáo vì đã khuyên Đại Tá S. không nên đi làm tỉnh trưởng Huế. Con cũng đã giải thích mọi sự như vậy cho Ôn nghe và sau đó thì Ôn đã thông cảm rồi.
Bây giờ Đức Tổng lại hỏi thì con cũng xin trình bày như vậy, quyết định từ chối không đi làm tỉnh trưởng hoàn toàn là do Đại Tá S. quyết định.
Đức Cha suy nghĩ một hồi rồi nói với tôi:
- Thật ra thì ở ngoài này ai nấy cũng đều rầt mừng khi nghe tin Đại Tá S. được đề cử thay thế Đại tá Thân làm tỉnh trưởng vì ông S. là người nổi tiếng là đạo đức và trong sạch, do đó khi nghe tin ông từ chối thì ai cũng thất vọng cả. Bây giờ nghe anh nói thì tôi mới biết có những nguyên nhân bên trong như vậy và tôi cũng thông cảm với ông Đại tá S. vì quyết định như vậy thật là sáng suốt.
(Sau khi từ chối không nhận chức tỉnh trưởng Thừa Thiên, Đại Tá S. được bổ nhiệm làm Tùy Viên Quân Sự tại London và hiện nay đang làm Thầy Sáu tức là Phó Tế tại London, Anh Quốc.)
Sau một hồi chuyện vãn, bỗng Đức Cha quay sang hỏi tôi về một vấn đề khác:
- Anh ở Sài Gòn chắc là biết nhiều về tình hình chính trị. Ở đây rất gần giới tuyến, điều người dân ở đây lo ngại nhất là liệu Cộng sản có xua quân tấn công vào miền Nam qua vỹ tuyến 17 hay không?
Tôi thưa với Ngài rằng hiện nay cả bốn phe Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hoà, Cộng sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng miền Nam đang tham gia hoà đàm tại Paris. Cộng sản nắm được một lợi điểm chiến lược, đó là ai cũng biết Hoa Kỳ đã quyết định rút quân từ năm 1969 và quân số Hoa Kỳ tại miền Nam càng ngày càng giảm, họ đang giao hết gánh nặng chiến tranh cho Việt Nam qua chương trình Việt Nam hoá chiến tranh. Chỉ trong vòng hai năm, Nixon đã rút từ trên nửa triệu quân xuống còn có khoảng 150,000 và như vậy thì Cộng sản Bắc Việt đã thấy rõ là Hoa Kỳ đang thay đổi chính sách, từ đương đầu trực tiếp trên chiến trường với Cộng sản, họ đã để cho VNCH thay thế vai trò đó và họ chỉ còn chú trọng đến giải pháp thương thuyết tại Paris mà thôi, điều đó có nghĩa là rất có thể các lực lượng Hoa Kỳ sẽ không can thiệp nếu Cộng sản mở các cuộc tấn công tại miền Nam.
Nếu Cộng sản tin tưởng vào sự tính toán đó thì rất có thể họ sẽ mở một cuộc tấn công đại quy mô qua vỹ tuyến thứ 17 và trong trường hợp đó, nếu không có sự can thiệp của Hoa Kỳ thì lực lượng Việt Nam Cộng Hoà tại vùng giới tuyến khó mà đương đầu nổi với sự tấn công của Cộng sản.
Đức Cha Điền hỏi tôi rằng nếu giả thử Cộng sản chiếm được Huế thì họ sẽ đối xử với người Công giáo, với những người lãnh đạo Công giáo như thế nào? Tôi trả lời rằng đối với Cộng sản thì tất cả mọi tổ chức tôn giáo tại miền Nam, bất cứ là Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài hay Hoà hảo, tất cả đều bị họ xem như là những thành phần thù nghịch và phản động, họ sẽ tìm mọi biện pháp để kiểm soát rất gắt gao. Bản chất của chủ nghĩa Cộng sản là không chấp nhận tín ngưỡng cho nên họ sẽ tìm cách tiêu diệt mọi tín ngưỡng và nếu chưa làm được thì họ để cho những tổ chức ngoại vi như là Mặt Trận Tổ Quốc cũng như là đưa cán bộ vào để nắm quyền kiểm soát những tín ngưỡng này và đồng thời họ cũng sẽ tìm cách thanh toán những nhà lãnh đạo tôn giáo có uy tín.
Riêng đối với Thiên Chúa giáo La Mã thì Cộng sản đã có nhiều kinh nghiệm tại các nước Đông Âu sau Đệ Nhị Thế chiến: lúc ban đầu, họ đàn áp Thiên Chúa giáo, nhất là các vị lãnh đạo, nhưng sau một thời gian thì họ không đối đầu với cá nhân các vị giám mục và linh mục nữa mà nói chuyện trực tiếp với Vatican. Tôi nêu ra với Đức Cha trường hợp hai vị hồng y: Hồng Y Stephan Wyszynski, Tổng Giám Mục Varsovie, Ba Lan bị Cộng sản bắt giam từ năm 1953 đến năm 1956 và Hồng Y Joseph Mindszenty, Tổng Giám Mục Giáo Hội Hung Gia Lợi (Archbishop of Esztergom) đã bị Cộng sản bắt giam vào năm 1948 và bị đưa ra toà về những tội như phản quốc, âm mưu chống nhà nước Hung Gia Lợi. Trong phiên toà này, Hồng Y Mindszenty đã tuyên bố hoàn toàn phủ nhận tội trạng và yêu cầu giáo dân không nên tin vào những lời khai trong bản cáo trạng vì những lời khai này đã bị công an mật vụ Cộng sản ép buộc phải ký trong những cuộc tra tấn dã man. Sau cuộc Cách mạng tháng 10 năm 1956, nghe theo lời khuyên của Thủ Tướng Imre Nagy, trước khi ông bị mật vụ Liên Xô xử tử, Đức Hồng Y Mindszenty xin vào tỵ nạn trong toà đại sứ Hoa Kỳ ở Budapest trong 15 năm trời. (Đến năm 1971, Đức Hồng Y mới được chính phủ Cộng sản Hung cho phép sang sống tại Vienna, thủ đô nước Áo.)
Đó là chính sách của Cộng sản đối với Giáo Hội Công Giáo thời Stalin và sau này thì có phần cởi mở hơn, tuy nhiên không rõ những người Cộng sản Việt Nam sẽ theo chiều hướng nào.
Đức Cha ngạc nhiên hỏi tôi: “Sao anh không phải là người Công Giáo mà lại biết nhiều như vậy về hai vị hồng y này?” Tôi thưa với Đức Cha rằng tôi đang làm công việc về nghiên cứu cho nên mới được biết một vài chuyện ở bên Đông Âu như vậy.
Đức Cha Điền lặng lẽ nhìn tôi rồi nói bằng một giọng kiên quyết:
- Là người được Đức Thánh Cha trao cho nhiệm vụ Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Huế, trong trường hợp Cộng sản chiếm được thành phố này thì tôi sẽ ở lại với giáo dân vì tôi là “người chủ chăn” của họ. Một trong ba châm ngôn của Dòng Tiểu Đệ là Vâng Lời và tôi sẽ vâng theo những lời dạy của Toà Thánh, đó là phải sống bên cạnh giáo dân để hướng dẫn giáo dân trong những cơn nguy biến.
Trong bữa cơm trưa thân mật sau hơn mười năm cách biệt, Đức Cha đã dành cho tôi sự ưu ái và cảm tình như thưở nào ở Cần Thơ và khi từ biệt, Ngài bắt tôi phải cho Ngài địa chỉ cùng số điện thoại để Ngài liên lạc mỗi khi vào Sài Gòn. Ngài cũng bắt tôi phải hứa là khi nào có dịp ra Huế thì phải đến thăm Ngài.
Vào khoảng năm 1974, một hôm tôi nhận được điện thoại của Ngài mời tôi ngày hôm sau đến gặp Ngài ở Toà Tổng Giám Mục Sài Gòn trên đường Phan Đình Phùng. Sau khi chào hỏi, thấy tôi cứ nhìn Ngài chăm chú, Đức Cha bèn hỏi tôi:
- Tôi có gì lạ mà anh cứ nhìn chăm chú như vậy?
Tôi thưa với Ngài:
- Thưa Đức Tổng, con muốn xem Đức Tổng “đỏ” cỡ nào?
Ngài cười lớn hỏi lại tôi:
- À! Vậy là anh cũng có nghe mấy ông nhà báo ở bên Rôma gọi tôi là vị “Giám mục Đỏ” phải không?
Năm đó Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền sang La Mã tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới và khi được một số ký giả ngoại quốc hỏi rằng “Có dư luận nói rằng Cộng sản Bắc Việt sẽ chiếm trọn miền Nam, Ngài nghĩ sao về Cộng sản Việt Nam?” thì Ngài trả lời rằng: “Là giám mục Công giáo, tôi không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản, nhưng người Cộng sản Việt Nam cũng là người anh em của tôi.” Vì trả lời như vậy cho nên có một số ký giả ở Rô-ma đã gọi Ngài là “Vị Tổng Giám mục Đỏ.”
Tôi không nhớ báo chí Sài Gòn có đăng tin đó hay không nhưng tôi có được đọc tin đó do hãng thông tấn Reuters đăng trên télétype (viễn ấn) cho nên được biết chuyện này.
Đức Cha Điền hỏi tôi:
- Anh nghĩ sao khi tôi nói rằng “...người Cộng sản Việt Nam cũng là anh em của tôi”?
Tôi trả lời:
- Thưa Đức Tổng, người dân miền Nam chúng ta tuy chống lại Cộng sản nhưng chúng ta vẫn xem những người miền Bắc, kể cả những người Cộng sản, đều là người Việt Nam, tức là đều là anh em với nhau cả. Đức Tổng nói như vậy thì chẳng có gì là không đúng.
Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ người Cộng sản miền Bắc có xem người miền Nam chúng ta, nhất là những người Công giáo miền Nam, là anh em của họ hay không? Vào năm 1946, gần một năm sau khi Cộng sản Việt Minh giết nhà cách mạng Tạ Thu Thâu tại Quảng Ngãi, khi bị những người trí thức Pháp và Việt Nam chất vấn tại Paris về việc Tạ Thu Thâu bị thủ tiêu thì ông Hồ Chí Minh đã trả lời như thế này: “Tạ Thu Thâu là một người yêu nước, tôi đã khóc về cái chết của ông ta. Tuy nhiên, tất cả những ai không đi theo đường lối do chúng tôi đã hoạch định thì chúng tôi cần phải tiêu diệt.”
Vậy thì đối với người Cộng sản, họ không có anh em với những người không đứng chung một hàng ngũ với họ, do đó khi Đức Tổng nói rằng “là giám mục Công giáo, tôi không chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản” tức là không theo đường lối của họ thì làm sao mà họ lại xem Đức Tổng và những tín đồ Công giáo là anh em của họ được?
Đức Cha Điền suy nghĩ một hồi rồi nói với tôi:
- Anh còn nhớ cách đây mấy năm tôi có nói với anh rằng nếu Việt Cộng chiếm thành phố Huế thì tôi sẽ ở lại với giáo dân vì sứ mạng của tôi là bảo vệ cho giáo dân, là chia xẻ mọi nỗi đau thương khổ hận của họ. Toà Thánh đã ra lệnh cho các linh mục và giám mục là phải luôn luôn làm nhiệm vụ chăn dắt con chiên dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì tôi luôn luôn vâng lệnh của Toà Thánh, tôi sẽ ở lại với giáo dân, dù họ có xem tôi không phải là anh em thì tôi vẫn sẽ ở lại để thi hành nhiệm vụ và trách nhiệm do giáo hội giao phó.
À, nhân tiện tôi cũng cám ơn anh đã đề cập đến hai vị Hồng Y Stephan Wyszynski, Tổng Giám Mục Varsovie, và Hồng Y Joseph Mindszenty, Tổng Giám Mục Giáo Hội Hung Gia Lợi. Trong thời gian ở Rôma, tôi đã có cơ hội tìm hiểu về cuộc đời của hai ngài và nhờ đó đã có được một khái niệm về chính sách của Cộng sản đối với giáo hội Công Giáo tại Đông Âu.
Sau một hồi chuyện vãn, Đức Cha nói với tôi:
- Này anh giáo sư, sao anh lại giấu tôi hai chuyện: một là anh không cho tôi biết anh đang làm việc ở đâu, hai là anh không nói cho tôi biết anh là bạn của Linh Mục Raymond de Jaegher!
Tôi thưa với Đức Cha:
- Thưa Đức Tổng, về chuyện công việc thì con quan niệm rằng là một quân nhân, con không có quyền chọn lưạ, con phải phục vụ bất cứ đơn vị hay cơ quan nào mà quân đội chỉ định mà thôi. Sở dĩ con không trình với Đức Tổng nơi con làm việc là vì con biết Đức Tổng không có mấy cảm tình với ông “sếp” của con, do đó muốn giữ cho mối liên hệ với Đức Tổng thân tình và tốt đẹp mãi mãi như xưa cho nên con đã không nói, không nói vì Đức Tổng không hỏi đến chứ không phải là dấu Đức Tổng.
Còn chuyện Cha De Jaegher thì con không nói vì nếu tự dưng nói ra thì chẳng hoá ra rằng con khoe với Đức Tổng về sự quen biết này hay sao?
Đức Cha Điền nói với tôi:
- Tôi rất thích bản tính khiêm tốn của anh, nếu Đức Tổng Sài Gòn không nói ra thì tôi có biết gì đâu! Đức Tổng Sài Gòn nói với tôi rằng Cha De Jaegher rất thích anh và khen ngợi anh nhiều lắm. Đức Tổng Sài Gòn cũng rất có cảm tình với anh.
Kể ra thì cũng thật là lạ lùng, một người không phải là Công giáo như anh mà lại quen biết thân tình với cả hai vị tổng giám mục Huế và Sài Gòn cùng với một linh mục nổi tiếng người Mỹ nữa! Sao anh lại quen Cha De Jaegher?
Tôi thưa với Ngài:
- Cha Raymond de Jaegher là một nhân vật nổi tiếng, tác giả nhiều cuốn sách trong đó có hai cuốn rất nổi tiếng tại Việt Nam, đó là “Kẻ Nội Thù” (The Ennemy Within) và cuốn “Vệ Binh Đỏ” (Red Guards). Truớc năm 1963, Ngài là cố vấn về Cộng sản cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Tưởng Giới Thạch. Một người nổi tiếng như vậy thì làm sao mà con có tham vọng được quen biết?
Nhân dịp tham dự một hội nghị ở Đài Bắc, con được giới thiệu với Cha Jaegher rồi sau đó, Việt Nam Cộng Hoà được ủy nhiệm phụ trách một nguyệt san bằng Anh ngữ mà hồi Đệ Nhất Cộng Hoà do chính Cha Jaegher làm chủ nhiệm. Con là người được chỉ định phụ trách phần bài vở của nguyệt san đó, cho nên về sau, mỗi lần Cha Jaegher sang Sài Gòn, Ngài thường trú ngụ tại Toà Tổng Giám Mục và liên lạc với con về công việc, do đó mà trở nên thân tình. Con được may mắn quen biết với Đức Tổng Sài Gòn cũng là nhờ sự giới thiệu của Cha de Jaegher.
Đức Cha Điền quay sang hỏi tôi về chuyện khác:
- Anh đến thăm tôi như thế này, nếu “ông sếp” của anh mà biết được thì anh có ngại gì không?
Tôi không ngần ngại trả lời:
- Thưa Đức Tổng, con được quen biết với Đức Tổng cả chục năm trước khi về làm việc dưới quyền “ông sếp”, bởi vậy nếu ngại thì con đã không đến và nay con đã đến thì chẳng có e ngại gì cả.
Vào thời gian đó có một bản tuyên ngôn chống tham nhũng do một số linh mục ký tên được phổ biến tại Sài Gòn và nhân dịp gặp Đức Tổng Giám Mục, tôi mạo muội hỏi Ngài:
- Nhân tiện con xin được phép hỏi Đức Tổng về một vấn đề thời sự có liên quan đến Giáo Hội Công giáo Việt Nam. Con đã được đọc Bản Tuyên Ngôn Chống Tham Nhũng Và Tệ Đoan Xã Hội của Hàng Linh Mục Việt Nam công bố tại nhà thờ Tân Sa Châu ngày 18 tháng 6 năm 1974, do 301 vị linh mục ký tên. Con không thấy tên của hai Đức Tổng trên bản tuyên ngôn này, tuy nhiên nhân dịp được gặp Đức Tổng, con xin phép hỏi: Đức Tổng có được hỏi ý kiến về Bản Tuyên Ngôn này hay không?
Sau một hồi trầm ngâm, Đức Cha hỏi lại tôi:
- Anh có nghĩ rằng tôi ủng hộ Bản Tuyên ngôn này?
Tôi trả lời:
- Thưa Đức Tổng, trong bản tuyên ngôn này không có tên hai vị Tổng Giám Mục Sài Gòn và Huế, tuy nhiên theo chỗ con biết thì các vị linh mục này đã dựa vào tinh thần của Lá Thư Chung Của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ngày 29 tháng 9 năm 1973 và Bản Tuyên Ngôn Của Hội Đồng Giám Mục ngày 10 tháng 1 năm 1974. Cả hai vị Tổng Giám Mục cùng với tất cả các vị giám mục khác đều có ký tên vào trong hai bản văn này. Như vậy thì một cách gián tiếp, các vị lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Việt Nam coi như là đã đồng ý với tinh thần của bản tuyên ngôn của 301 vị linh mục?
Đức Tổng hỏi lại tôi:
- Bây giờ tôi hỏi anh: Lá Thư Chung và Bản Tuyên Ngôn của Hội Đồng Giám Mục có mang lại ảnh hưởng nào không?
Tôi trả lời:
- Thưa Đức Tổng, cả hai bản văn này được phổ biến rất là hạn chế vì ít được báo chí đăng tải, do đó có rất ít người biết đến, kể cả một số linh mục nổi tiếng như L.M. Huỳnh Văn Nghi (sau này là giám mục) cũng không hề được biết. Tuy nhiên, có dư luận nói rằng việc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cải tổ chính phủ, thay thế bốn vị tổng trưởng cũng như là giáng cấp một số sĩ quan cao cấp trong đó có cả hai vị tướng tư lệnh Vùng 4 và Vùng 2 gần đây, một phần là do hậu qủa của hai bản bản tuyên ngôn này. Như vậy thì hai bản tuyên ngôn của Hội Đồng Giám Mục cũng đã mang lại kết qủa tốt vì cuộc cải tổ của Tổng Thống Thiệu, tuy chỉ là cải tổ nhỏ giọt, nhưng cũng được nhiều giới hoan nghênh.
Đức Tổng hỏi tôi:
- Tôi biết anh rất tôn trọng nguyên tắc “phân quyền giữa nhà nước và giáo hội” nhưng trong trường hợp hai bản tuyên ngôn này, anh có nghĩ rằng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, trong đó có tôi, đã vi phạm vào nguyên tắc này hay không?
Tôi thưa:
- Thưa Đức Tổng, ngày xưa con vẫn lớn tiếng chỉ trích Giám Mục Ngô Đình Thục vì ông đã lạm dụng vị thế quốc trưởng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm để làm những điều có lợi cho riêng cá nhân của ông.
Đức Tổng cũng biết người xưa thường nói “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Sau Hiệp Định Paris, tình trạng chính trị, kinh tế và nhất là quân sự càng ngày càng suy sụp tại miền Nam và do đó, tất cả mọi công dân đều phải có trách nhiệm nói lên tiếng nói của mình để chính quyền phải sửa sai những sai lầm, khuyết điểm ngõ hầu cải thiện chế độ để giữ nước và cứu nước. Con nghĩ rằng những bậc tu hành, dù thuộc bất cứ tôn giáo nào, trước hết họ cũng là công dân của nước Việt Nam Cộng Hoà và do đó họ có bổn phận phải nói lên tiếng nói của họ để cứu nước. Họ lên tiếng vì quyền lợi của đất nước, vì quyền lợi của toàn dân chứ không phải vì quyền lợi của cá nhân họ, do đó con không nghĩ rằng các vị giám mục và linh mục đã vi phạm vào nguyên tắc “phân quyền giữa nhà nước và giáo hội.”
Đức Tổng Giám Mục kết luận:
- Tôi nghĩ rằng anh cũng cùng một chí hướng với tôi và rất cám ơn anh đã thông cảm với tôi trong hoàn cảnh khó xử này: dù là Tổng Giám Mục nhưng trước hết tôi là một người công dân Việt Nam. Tôi xin anh đọc lại đoạn kết lụân trong Lời Tuyên Bố trong buổi họp báo hồi tháng 6 năm 1974 để hiểu rõ hơn về lập trường của cá nhân tôi.
Về sau tôi tìm đọc lại Bản Tuyên Ngôn của 301 vị linh mục ngày 18 tháng 6 năm 1974 tại Nhà Thờ Tân Sa Châu thì đoạn kết nguyên văn như sau:
“...Hiến pháp Việt Nam Cộng Hoà đã long trọng công nhận khi ghi vào Điều I Khoản 2 như sau: “Chủ quyền Quốc gia thuộc về toàn dân.”
“Mặc dầu thế, chúng tôi không muốn gây xáo trộn, bởi quốc gia đã chịu qúa nhiều xáo trộn. Chúng tôi chỉ muốn lên tiếng cảnh tỉnh vì sự sống còn của dân tộc để chính quyền kịp thời sửa sai, thay đổi hoàn toàn chính sách và nhân sự hầu tránh sụp đổ trước khi qúa muộn. Nếu không chịu sửa sai để cho đất nước này lâm vào cảnh mạt vong thì chắc chắn Quân Dân không chịu cúi đầu cam chịu làm vật hy sinh mãi mãi cho một thiểu số tham nhũng không còn biết đến Dân Tộc và Tổ Quốc là gì nữa. Khi ấy, cùng tất biến, những gì phải xẩy ra sẽ xẩy ra, ngoài ý muốn của chúng tôi, bởi lẽ như Thánh Thomas d’Aquin đã nói: “Chính Quyền Đã Phản Nghịch!”
Sau lần đó, đến khoảng tháng 3 năm 1975, chỉ vài ngày sau khi Cộng sản tấn công Ban Mê Thuột, tôi nhận được điện thoại của Đức Tổng Giám Mục mời tôi đến gặp ông. Ngài nói với tôi:
- Tôi muốn gặp anh vì tôi đang tìm mọi cách trở về Huế ngay. Ai cũng biết là chẳng sớm thì muộn, Cộng sản Bắc Việt sẽ tấn công vào Vùng I và trong trường hợp đó, chính anh trước đây cũng đã nói với tôi rằng chúng ta không đủ sức giữ Huế. Tôi phải trở về Huế trước khi thành phố này bị thất thủ vì như tôi đã nói với anh trước đây, tôi muốn cho giáo dân thấy rằng giáo hội luôn luôn ở bên cạnh họ, luôn luôn bảo vệ đời sống tinh thần của họ và luôn luôn chia xẻ với họ mọi nổi thống khổ của họ... Là người chủ chăn, tôi có nhiệm vụ phải thi hành sứ mạng mà Giáo Hội giao phó cho tôi, đó là sống chết với con chiên. Tôi muốn gặp anh là để từ giã một người bạn cũ đã từng quen biết nhau hơn mười mấy năm trời, người mà tôi đã dành nhiều cảm tình và sự qúy mến từ ngày còn ở Cần Thơ...
Tôi nhìn Đức Cha Điền, nghẹn ngào vì xúc động. Một lúc sau, tôi ngập ngừng thưa với Ngài:
- Thưa Đức Tổng, con muốn xin Đức Tổng ban cho con một đặc ân.
Ngài nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên rồi hỏi lại:
- Xưa nay có bao giờ anh xin tôi một ân huệ nào đâu?
Tôi nhìn Ngài rồi nói:
- Con là người ngoại đạo nhưng muốn xin Đức Tổng ban cho một ân huệ, đó là cho con được phép hôn nhẫn của Đức Tổng!
Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền nhìn tôi thật lâu rồi đưa tay ra, tôi qùy xuống hôn lên chiếc nhẫn giám mục của Ngài lần đầu tiên trong đời. Tôi cố dằn cơn xúc động nhưng tự dưng mắt tôi rưng rưng và nghẹn ngào nói với Ngài:
- Thưa Đức Tổng, được Đức Tổng dành cho nhiều sự ưu ái trong bao nhiêu năm qua là một điều vô cùng vinh dự cho một người thầy giáo nhỏ bé ở xứ Cần Thơ xa xưa và con xin Đức Tổng nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành của con. Con chỉ biết cầu chúc cho Đức Tổng được nhiều sức khoẻ và hồng ân của Thiên Chúa để hoàn thành sứ mạng của Giáo Hội giao phó trong những ngày khó khăn sắp tới...
Đó là lần cuối tôi gặp Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền.
* * *
Tôi viết bài này theo lời yêu cầu của một số bạn bè và cựu học sinh của tôi ở Cần Thơ vì tất cả chúng tôi, mọi người ai ai cũng đều kính mến vị giám mục tiên khởi của giáo phận Cần Thơ, một con người mà tất cả mọi người dân Cần Thơ không phân biệt tôn giáo đều yêu mến và kính trọng.
Tôi viết bài này với những hoài niệm vô cùng trân quý về một thời xưa cũ cách đây đúng nưả thế kỷ, tình cờ may mắn được quen biết với một người “lao động” đạp xe ba bánh, một người “lao động” làm thợ hồ ở Tây Đô rồi sau đó trở thành một vị giám mục, rồi tổng giám mục của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Ông đã sống trọn với châm ngôn của Dòng Tiểu Đệ mà ông gọi là “Dòng hèn mọn”, đó là sự nghèo khó, sự thanh khiết và sự vâng lời.
Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền đã sống trọn cuộc đời với sự nghèo khó, sống với sự thanh khiết và sống với sự vâng lời đối với Giáo Hội.
Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền đã từ giã cõi đời trong sự nghèo khó, từ giã cõi đời trong sự thanh khiết của một bậc chân tu và đã từ giã cõi đời trong sự vâng lời và đã hoàn thành sứ mạng mà Giáo Hội đã giao phó: vị Chủ Chăn phải sống chết với Con Chiên.
Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền đã từng tuyên bố rằng “Là giám mục Công giáo, tôi không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản, nhưng người Cộng sản Việt Nam cũng là người anh em của tôi,” nhưng Cộng sản Việt Nam sau năm 1975 lại không xem Ngài là anh em, họ xem Ngài là kẻ “phản động” và hậu qủa là Ngài đã bị họ đầu độc chết tại Sài Gòn vào ngày 8 tháng 6 năm 1988.
Ngài đã được Đức Giáo Hoàng John Paul II phong tặng danh hiệu “Vị Giám Mục Uy Dũng.” Đối với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Đức Tổng Giám Mục Phi-lip-phê Nguyễn Kim Điền không những chỉ là một vị Giám Mục Uy Dũng mà còn là một vị Thánh Tử Đạo.
Đối với người Miền Nam, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền lại là một vị Anh Hùng vì với tư cách là một công dân Việt Nam, Ngài đã không kể đến sự an nguy của bản thân khi dám công khai đứng lên chống lại bạo quyền Cộng sản để đòi hỏi cho toàn thể nhân dân Miền Nam Việt Nam có được quyền Tự Do Tín Ngưỡng và Quyền Làm Người.
California, Mùa Thu 2008
Trần Đông Phong
CHẾT VÌ NHÂN QUYỀN
Đã có rất nhiều người Việt vì đấu tranh cho nhân quyền mà bị Việt Cộng đàn áp, bắt giam, tù đày, những người như linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, v.v… đang bị Việt Cộng giam giữ, nhưng chưa có ai chết vì binh vực nhân quyền, ngoại trừ một người: đó là Đức Tổng Giám Mục Philipphe Nguyễn Kim Điền. Cuộc đời ngài đã “sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” thật sự. Và khi luật lệ của Việt Cộng nghịch lại những quyền lợi căn bản của con người, Ngài đã chống lại, không phải bằng gươm dao súng đạn, nhưng mạnh mẽ phản đối, dù cho có vì thế mà bị Việt tù đày và cuối cùng, Việt Cộng đã đầu độc Ngài chết một cách đau đớn về thể xác, nhưng chắc tâm hồn Ngài thì thảnh thơi vui sướng, vì tâm nguyện của Ngài đã đạt được viên mãn: “hoàn toàn trung tín với Thiên Chúa và Giáo Hội cho đến hơi thở cuối cùng”. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Đức TGM Nguyễn Kim Điền cũng có một hành động y hệt như Thầy Chí Thánh của Ngài: tha cho kẻ đã giết mình.
Trên thực tế, nhân quyền là những quyền hạn mà khi tạo dựng nên con người, Thượng Đế đã ban cho. Quyền tối thượng của con người là được phép biết ơn, cảm tạ và kính thờ Đấng Tạo Hóa, một “tôn giáo” mà bất cứ một quốc gia, một bộ lạc hay một nhóm người nào có mặt trên quả đất đều ý thức và thực hành điều đó, dù cho hình thức kính thờ này dưới nhiều hình thức, dưới nhiều biểu tượng mà ngày nay gọi là tôn giáo.
Quyền hạn thứ 2 của con người khi sống thành bộ lạc, quốc gia… con người phải được đối xử ngang hàng với mọi người, mỗi người đều bình đẳng với người khác, có quyền sinh sống, có quyền xử dụng tài nguyên thiên nhiên, có quyền tự do làm chủ bản thân mình v.v… Nói tóm lại, nhân quyền là quyền được sống như mọi người.
Những quyền hạn trên đây rất phù hợp với ý chí của Đấng Tạo Hóa mà Giáo Hội Công Giáo gọi là Thiên Chúa. Do đó, những kẻ tin vào Thiên Chúa là những phải kẻ tuân giữ và thực hành nhân quyền, những vị chủ chăn của Giáo Hội Công Giáo chẳng những có bổn phận phải thực hiện nhân quyền cho bản thân mình mà còn cho cả những ai thuộc trách nhiệm chăn giữ của mình.
Ngày hôm nay, những người sống dưới sự chăn dắt của các Giám Mục Việt Nam và ngay chính bản thân các Ngài cũng đang bị bạo lực Việt Cộng tước đoạt hầu hết các quyền căn bản của con người. Có thể nói một cách thẳng thắn rằng chưa bao giờ đất nước, dân tộc và xã hội Việt Nam đứng trước nguy cơ diệt vong như hôm nay. Những sự kiện bất công, tước đoạt nhân quyền dân tộc không phải Việt Cộng mới thực hiện ngày một ngày hai, mà chúng đã áp dụng từ lâu lắm rồi. Người dân miền Bắc đã chịu cái ách khốn nạn này từ tháng 7 năm 1954 cho đến nay, người dân Miền Nam đã chịu đựng từ tháng 4 năm 1975 đến nay. Hàng Giám Mục Việt Nam cũng không phải không biết những thực trạng xã hội và những hà khắc của Việt Cộng, vì chính Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn cũng đã cho rằng Việt Cộng thâu tóm tất cả quyền lợi của người dân rồi ban phát lại tùy sở thích và ngài gọi đó là chế độ “xin - cho”.
Thế giới, nhất là Giáo Hội Công Giáo liên tiếp công kích văn hóa sự chết, lên án việc phá thai, giết hại thai nhi từ trong bụng mẹ, nhưng Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam thì không. Không lên tiếng không phải vì các Giám Mục nhận thấy nạn phá thai tại Việt Nam không có, theo thống kê của Việt Cộng cách đây mấy năm, tại Việt Nam mỗi năm có trên dưới một triệu trường hợp phá thai.
Khi Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt tuyên bố trước mặt những cán bộ Việt Cộng tại Hà Nội rằng ngài rất nhục nhã lúc mang hộ chiếu Việt Nam ra hải ngoại, vì bị những giới chức hữu trách xoi mói, nhìn người Việt Nam với ánh mắt nghi ngờ, mất thiện cảm, vì cán bộ Việt Cộng thường lợi dụng những dịp ra nước ngoài để ăn cắp vặt, để buôn lậu vàng, ma túy, sừng tê giác v.v… làm phiền hải quan các nước. Việt Cộng cũng biết Đức Tổng Giám Mục Hà Nội muốn nói gì, Ngài muốn nói chính các ông khi ra nước ngoài đã ăn cắp, buôn lậu nên chúng tôi bị người ngoại quốc nghi ngờ lây.
Nhưng, ăn cắp, buôn lậu chưa tồi tệ bằng những vụ hàng mấy chục thiếu nữ Việt Nam phải trần truồng để cho những người đàn ông Đại Hàn, Đài Loan, Mã Lai tự do quan sát, sờ mó… để chọn làm… vợ ngay tại Việt Nam. Chưa tồi bại cho bằng những trẻ trên dưới mười tuổi đã phải phục vụ tình dục cho khách ngoại quốc trong các khách sạn tại Việt Nam. Thậm chí còn bị tay chân Việt Cộng xuất cảng ra hải ngoại, sang Campuchea, qua Mã Lai. Những thiếu nữ Việt Nam bị bán qua Mã Lai, Singapore để thương buôn “chưng” họ trong các lồng kiếng, ai muốn mua cứ mua, mua xong có quyền “dùng thử”, nếu không ưng ý, có thể trả lại trong vòng một tuần sau!! Nếu các giám mục Việt Nam nói rằng các ngài không biết những “sự cố” này thì không ai trách, Chúa cũng không thể trách các ngài. Nhưng nếu các ngài biết, tại sao không có bất cứ một thái độ nào để phản đối Việt Cộng? Vì nếu không có bàn tay Việt Cộng nhúng vào, chắc chắn tình trạng này không thể xảy ra. Nếu không nói được với Việt Cộng, không phản đối thủ phạm, ít ra các giám mục cũng dủ lòng thương, an ủi các nạn nhân xấu số!!??
Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã nói thẳng vào mặt Việt Cộng, đã lên án chúng buôn lậu, ăn cắp khiến ngài bị nhục lây, nhưng nếu người ngoại quốc đặt câu hỏi với ngài về cảm tưởng của ngài đối với số phận hẩm hiu của những phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan, bị đối xử như súc vật, đẻ con ra không biết đứa con của mình là của chồng, cha chồng hay ông nội của chồng? có khi là anh em chồng… vì cả nhà dùng người đàn bà Việt Nam này như một dụng cụ giải quyết sinh lý! Không biết các Giám mục sẽ trả lời ra sao? Nếu các phóng viên hỏi tiếp các Giám mục đã có thái độ nào với “nhà cầm quyền” Việt Cộng trước thảm nạn xã hội này, các vị sẽ trả lời ra sao? Im lặng như đã im lặng ở trong nước? Chấp nhận đó là những khó khăn mà dân Việt Nam phải chịu? Đó là văn hóa và truyền thống của Việt Nam hay đó là chuyện không liên quan gì đến nhân quyền? cầu xin Ơn Trên phù hộ cho các Giám mục khi ra hải ngoại khỏi “được” hỏi những câu này! Vì sự kiện này cả thế giới đều biết, một linh mục Việt Nam tại Đài Loan đã đi khắp nơi, kêu gọi mọi người giúp đỡ các nạn nhân, không có lý do gì mà các giám mục Việt Nam không biết tới! Các ngài đã biết và biết rất rõ, vì các ngài được Việt Cộng cho ra hải ngoại thường xuyên. Tại sao biết mà không lên tiếng can thiệp? Biết mà không thực hiện chức năng “chăn chiên” của mình?
Nạn tham nhũng, nạn cướp đất, cướp nhà của dân chúng, cướp đất, cướp nhà của các dòng tu, các chủng viện do Việt Cộng thực hiện hằng ngày, hằng giờ trước mắt các Giám mục, tại sao các Giám mục không có một lời nói nào? Tại sao các Giám mục Việt Nam lại nhẫn tâm im lặng trước những lời kêu thảng thốt, thiết tha của giáo dân, của đồng bào? Linh mục Nguyễn Văn Lý có thể là một linh mục không ra gì trước mặt các Giám mục, thế mà ngài đã bị tù tội mấy lần, mỗi lần mấy năm, chẳng có giám mục nào lên tiếng. “Cha Lý làm chính trị!” Có phải đó là một cái vỏ bọc để các ngài bỏ lơ một thừa tác viên của mình trong ngục tối? Linh mục Nguyễn Văn Lý chưa bao giờ đòi hỏi bất cứ một chức vụ nào, một quyền lực nào cho ngài, ngài chỉ đòi TỰ DO TÔN GIÁO và NHÂN QUYỀN, tại sao ngài bị bỏ rơi không giám mục nào nhìn đến? Lại vu vạ cho ngài làm chính trị, như Đức Giám mục Mai Thanh Lương đã tuyên bố!
Đứng trước nạn xâm lược của Tàu Cộng, nhiều thành phần dân tộc đã can đảm đứng lên, đấu tranh để bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam. Trước tình trạng đấu tranh cho sự tồn vong của đất nước, các Giám mục Việt Nam ở vị trí có phương tiện, quyền hạn và trách nhiệm mà sao không nói một lời nào? Hay Công giáo thuộc thành phần “sống trong lòng dân tộc” nên ai đấu tranh mặc họ, còn Giáo Hội Công giáo chỉ biết hưởng thụ những ơn ích của các cuộc đấu tranh thắng lợi?
Nếu hôm nay, trong khi đồng bào, nhất là phụ nữ và trẻ em đang bị tai ách khốn nạn của Việt Cộng, những nhà đấu tranh cho tự do dân chủ đang mỏi mòn trong bốn bức tường lạnh lẽo, đói khát, mất tự do mà các Giám mục nhờ im lặng trước những bất công, đàn áp của Việt Cộng mà được ưu đãi. Nếu ngày mai, khi dân tộc giành được chính quyền, lúc đó vị trí của Giáo Hội Công giáo Việt Nam nói chung, vị trí các Giám mục nói riêng sẽ như thế nào giữa lòng dân tộc? Hay lúc đó, các ngài lại phù thịnh, lại chạy theo chính quyền mới và những bổng lộc, những ưu đãi lại tiếp tục đến với các ngài?
Bài viết này không phải là một bài quan điểm của một tờ báo, bài viết này cũng không phải là một bản cáo trạng, nhưng bài viết này, xin các giám mục Việt Nam xem như một tiếng kêu thống thiết của một giáo dân tầm thường, bất xứng, song biết rõ rằng bổn phận mình phải kêu lên, nói lên những gì mà lương tâm một con người, một người Việt Nam, một giáo dân đòi hỏi phải la lên, phải gào lên, sợ rằng ngày sau, Thiên Chúa sẽ hỏi tại sao Ta giao cho ngươi một nén vàng ít ỏi mà ngươi không sinh lợi cho ta. Tại sao ta cho ngươi có trí khôn tối thiểu cũng hiểu được những gì cần nói mà không nói ra? Lời nói này, lời sủa này của một con chó trong Giáo Hội chỉ có mục đích: xin các Giám Mục Việt Nam trở lại vị trí mà Chúa Giêsu đã đặt để các Ngài: sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc, can đảm binh vực nhân quyền cho dân tộc, cho giáo dân dù phải hy sinh tính mạng. Vì sự hy sinh trong trường hợp này là một phần phước cho các giám mục như Đức Tổng Giám Mục Philippê Nguyễn Kim Điền: chết vì binh vực nhân quyền.
Lê Văn Ấn,
Một giáo dân bất xứng, 19-05-2009
[1] Không rõ con số chính xác là bao nhiêu ? Theo tập san Informations catholiques internationales, số 158 ra ngày 15.12.1961, và được trích dẫn lại trong Etudes Viêtnamiennes, số 53, năm 1978, trang 84 : số người tản cư vào Nam là 860.026 người ; 80% (676.384) là người công giáo, tức một nửa dân công giáo miền Bắc. Cùng đi với họ, có 5 giám mục, 700 linh mục (2/3 số linh mục miền Bắc), hầu hết các tu sĩ nam và một phần lớn các tu sĩ nữ.
[2] Xem bài của nhà văn Trần Phong Vũ trong tập sách này.
[3] Trước khi làm giám mục năm 1960, lm Nguyễn Kim Điền đã gia nhập tu hội Tiểu đệ Charles de Foucault. Sau hai năm thực tập bên Sahara, ngài đã trở về Việt Nam sống ơn gọi ‘anh em hèn mọn của Phúc Âm’ giữa lớp người lao động, bằng ‘nghề’ đạp xích lô.
[4] Mỗi lần phát biểu về, Đc Điền ghi lại. Ngài viết :“Có thể khi phat biểu ứng khẩu câu văn và nhiều từ không được ‘nguyên văn’ như trong bài ghi lại. Nhưng tôi cam đoan về ý và thứ tự các ý nghĩ thì trung thực”. Đức cha quá biết, mỗi lời phát biểu có thể bị người ta cố ý xuyên tạc.
[5] Về nội dung sự kiện, đây là chứng từ của HT Thích Quảng Độ : “Tình hình mỗi ngày một căng thẳng và ngày 3.3.1977 đã đến điểm cao nhất khi cộng sản đến chiếm dụng cô nhi viên Quách Thị Trang ở đường Trần Quốc Toản (phía sau Việt Nam Quốc Tự mà trước đó họ đã chiếm rồi và bây giờ một rạp chiếu bóng rất lớn đã được xây lên tại đó), giật tấm bảng mang danh hiệu GHPGVNTN và liệng xuống lề đường. Ngay 11 giờ hôm ấy, nhân danh Tổng thư ký Viện Hoá Đạo, tôi đã ký một thông tư kêu gọi tăng ni sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đạo pháp và danh dự Giáo hội. Đến ngày 6.4.1977, TT Huyền Quang và tôi cùng một số vị khác bị bắt vào nhà tù Phan Đang Lưu ở Bà Chiểu Gia Định. Ít lâu sau, tôi được biết cố thương toạ Thích Thiện Minh cũng bị bắt và đã chết một cách bí ẩn tại sở Công an Sài Gòn ở đường Trần Hưng Đạo” (Phật giáo Thống nhất/Thống nhất Phật giáo. Nxb Tin, Paris 1994, tr. 26)
[6] “Một mối hận thù, một mối đau thương” – Hoa Địa Ngục – Thơ Nguyễn Chí Thiện
[7] Từ ngữ của giáo sư Nguyễn Ngọc Lan trong nhật ký và những bài viết của ông.
[8] Câu trả lời này được chính đức TGM Nguyễn Kim Điền ghi lại trong một văn thư gửi tổng bí thư Nguyễn Văn linh ngày 25-3-1988.
[9] Sự phân biệt giữa chủ nghĩa phi nhân cộng sản qua thực tế hành động và những người lầm theo chủ nghĩa này, để có được tâm tình bao dung, chấp nhận trong mối tương giao giữa con người và con người, cho đến nay, vẫn còn là một vấn nạn gây tranh cãi gay gắt giữa tập thể người Việt chống cộng ở hải ngoại, kể cả trong tập thể Công Giáo. Căm ghét và quyết tâm tận diệt chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít vì tính lỗi thời và vì bản chất tàn độc của nó là điều dễ hiểu. Nhưng có phải vì thế mà người ta nhẫn tâm săn đuổi, truy sát đến người cộng sản cuối cùng, nhất là khi đương sự đã nhận ra sự lầm đường của mình mà ăn năn hối cải? Trong mối liên hệ giữa người với người, nhất là trong tâm tình của Con Cái Chúa, chúng ta nghĩ thế nào về cung cách hành xử như thế?
[10] Nội dung những lời phát biểu này đã được chính đức cha Điền ghi lại thành văn ngày 19-4-1977, mà vì nhiều nguyên nhân khác nhau, văn bản đã được phổ biến rộng rãi trong ngoài giáo phận. Và cũng vì thế, đã tạo nên những hệ lụy cho ngài trong một thời gian dài sau đó.
[11] Vụ nhà thờ Vinh Sơn bị công an thành phố Sàigòn bao vây và bắt đi một số giáo sĩ, tín đồ xảy ra ngày 12/13- 02-1976, tức là chưa đầy một năm sau khi bắc quân thâu tóm được miền nam. Nếu tính từ ngày ấy cho đến khi đảng và nhà nước áp dụng biện pháp mạnh với Phật Giáo, cách nhau một năm. Nhưng tâm tình và thái độ của đức cha Nguyễn Kim Điền đối với hai biến cố hoàn toàn khác nhau. Theo tình lý thông thường, phản ứng của ngài đối với vụ nhà thờ Vinh Sơn, nếu không mạnh hơn vụ chùa Phật giáo thì ít nhất cũng phải tương đương. Nhưng sự thật khác hẳn. Trong bản tuyên bố ngày 28-02-1976 vị lãnh đạo tinh thần TGP Huế không có một lời bệnh đỡ những nạn nhân đồng đạo của ngài tại tổng giáo phận Sàigòn (Xin coi nguyên bản trong phần phụ lục cuối bài này). Là vị chủ chăn hết lòng với Giáo Hội, luôn quan tâm tới đời sống tinh thần cũng như vật chất của linh mục, tu sĩ và giáo dân, thái độ trên đây của ngài đối với vụ Vinh Sơn quả là khác thường. Để lý giải cho thái độ này, chúng ta bắt buộc phải nghĩ tới chủ trương hòa hoãn tối đa trong suốt hai năm đầu của đức cha Điền: phải chăng ngài không muốn vì một chuyện nhỏ có thể gây tổn hại cho một mục tiêu lớn? (Mục tiêu lớn đó là tạo được sự tin tưởng nơi tân chế độ ngõ hậu tránh những tổn hại cho đất nước cũng như Giáo Hội chỉ vì những hoài nghi và tự ái). Và phải chăng vì thế đức cha đã cố gắng nhẫn nhịn để mong có được sự đáp ứng tương xứng của nhà nước? Nếu quả đúng như vậy thì thái độ cao thượng, vì ích chung đó càng chứng tỏ thêm thiện chí của ngài.
[12] Trong 30 năm chế độ cộng sản thống trị toàn cõi Việt Nam, tính từ 30-4-1975 đến 30-4-2005, đức cha Nguyễn Kim Điền chỉ góp mặt trong hơn 13 năm. Thời gian tuy ngắn nhưng thái độ, lập trường và hành vi, ngôn ngữ của ngài biểu lộ trong giai đoạn ấy để bảo vệ niềm tin Công Giáo và khát vọng tự do của con người, vẫn còn vang động cho đến ngày nay. Và cũng cho đến ngày nay –và có thể còn kéo dài qua nhiều thế hệ nữa- những câu hỏi sau đây sẽ còn tiếp tục được đặt ra trong lương tâm người tín hữu Công Giáo chúng ta.
- Tại sao quan điểm và thái độ của người cầm đầu TGP Huế lại không được sự chia sẻ của các vị khác trong HĐGMVN, cụ thể là trường hợp đức cha Nguyễn Văn Bình, TGM Sàigòn, đến nỗi ngài đã phải chiến đấu cô đơn cho đến khi chết, mà chết một cách âm thầm, mờ ám với nhiều nghi vấn? (Sự cô đơn ở đây không có nghĩa là các giám mục tại các giáo phận khác không gặp khó khăn như Đc Điền. Vì ai cũng biết rằng cũng trong thời gian ấy, các Đc Chi, Đc Mai, Đc Lãng và nhiều vị khác cũng bị công an nhà nước theo dõi, thằng thúc, xỉ nhục, bắt đi ‘làm việc’, thậm chí phải chịu một hình thức quản chế gián tiếp ngay tại tòa giám mục của các ngài. Tâm trạng bức xúc, cô đơn của đức TGM Nguyễn Kim Điền được hiểu là ngài không được sự chia sẻ nơi các đồng nghiệp của ngài trong cung cách phản ứng trước chính sách can thiệp thô bạo của nhà nước vào những vấn đề nội bô Giáo Hội. Thí dụ điển hình là trong khi Đc Điền quyết liệt không cho các linh mục dưới quyền ngài tham gia UBĐKCGYN, nhất là ứng cử vào các hội đồng tỉnh, thị… thì hầu hết những nơi khác, kể cả TGP Sàigòn, gần như đã không làm như vậy. Trong khi Đc Điền, mỗi khi có dịp, ngài đã công khai lên tiếng tố cáo chủ trương đàn áp tôn giáo, chà đạp nhân quyền của nhà nước thì đường như tại các giáo phận khác các vị chủ chăn chỉ biết im lặng với thái độ cầu an. Đấy là chưa nói tới những lời tuyên bố ‘tốt đời đẹp đạo’ của một vài vị khác).
- Vì sao có hiện tượng mặc nhiên chia xé đau lòng như thế giữa hàng giáo phẩm CGVN trong khi giáo lý của Đấng khai sinh kỷ nguyên Tân Ước chỉ có một?
Lý giải được những tiềm ẩn trong câu hỏi thứ hai, đương nhiên chúng ta sẽ có được câu trả lới đầy đủ cho thắc mắc thứ nhất.
Căn cốt của đạo Chúa Giêsu là tình Yêu Thương và đức Khiêm Hạ. Vì yêu thương thế gian, Chúa đã chấp nhận đóng đinh đến chết trên thập giá. Vì hiền lành, khiêm nhường thật trong lòng, Con Một Chúa Trời đã cúi mình rửa chân cho các môn đệ, và nhất là bằng lòng để cho kẻ dữ phỉ nhổ, lăng mạ và đánh đòn tàn nhẫn trong đêm bị trao nộp. Trong Phúc Âm, hơn một lần Chúa Giêsu đã nói tới lòng bác ái, gương thứ tha và thái độ nhẫn nhịn trước bạo lực. “Nếu có kẻ lột áo ngoài của anh em thì anh em hãy cho luôn nó áo trong của mình”, “Kẻ nào tát má phải anh em thì anh em hãy chìa má trái cho nó tát”, “Bác ái Công Giáo đòi buộc anh em phải yêu thương cả kẻ thù”,“Thày không nói tha thứ bảy lần, mà là 70 lần bảy”…
Lời Chúa trên đây là biểu tượng tuyệt cùng của tình bác ái Kitô giáo. Đấy là chuẩn mức, là khuôn vàng thước ngọc để lượng giá sự trung thành của kẻ đã chọn bước theo chân Đấng cứu thế. Nhưng trong mối tương quan giữa con người trong một xã hội hợp quần vượt trên quyền lợi cá nhân, nếu ứng dụng một cách tiêu cực, thì những lời ấy trong một số trường hợp lại trở thành những thứ khiên mộc, những nơi trú ẩn an toàn cho những con chiên ghẻ náu mình để biện minh cho thái độ hèn nhát, vô trách nhiệm của họ.
Đắm sâu vào bên trong và đàng sau những Lời răn dạy của Chúa Giêsu, những vấn nạn sau đây không thể không đặt ra cho con cái của Người: trường hợp bị lột áo ngoài chỉ xảy ra với riêng cá nhân ‘tôi’, vì tình bác ái, vì đức khiêm nhu, tôi sẽ không chống trả, và nếu cần, còn nhường luôn cả áo trong cho đối phương. Nhưng khi không phải ‘tôi’ mà là những anh em của tôi bị lột áo, thì tôi là kẻ chứng kiến, sẽ phải hành xử ra sao? Cũng tương tự như thế, trường hợp người bị tát, không phải ‘tôi’ mà là những đồng bào, đồng đạo, thậm chí cả Giáo Hội của tôi, không lẽ tôi có thể nhẫn tâm đứng nhìn với con mắt của kẻ bàng quan? Cùng một suy tư như thế, thái độ bao dung của người tín hữu Chúa Kitô buộc tôi phải yêu thương, tha thứ không phải năm bảy lần mà yêu thương, tha thứ mãi mãi kẻ đã gây thương tổn cho cá nhân tôi. Nhưng khi những thiệt hại, đau đớn, mất mát xảy đến cho đám đông, cho tập thể, cho đất nước, cho Giáo Hội thì hẳn rằng, cũng với tinh thần bác ái Công Giáo, tôi sẽ phải hành xử cách khác.
Khơi dẫn từ những suy tư kể trên, chúng ta sẽ thâm hiểu được cảnh ngộ và tâm huống cô đơn của đức cha Điền trong suốt 13 năm phải một mình chống chọi với đảng và nhà nước CSVN.
[13] Lời phát biểu này cũng được chính đức cha chép lại thành văn ngày 24-4-1977.
[14] Xin coi phần II đề cập nội dung Tờ Trình III của ông Nguyễn Văn Chất.
[15] Xin lưu ý: trong tất cả những văn thư gửi nhà nước CS, kể cả MTTQ, đức cha Điền không bao giờ thông qua UBLLTQ/NNCGVN/YTQ/YHB cũng như UBĐKCGYNVN về sau. Điều này cho thấy quan điểm dứt khoát, chuyên nhất của ngài đối với tổ chức ‘ăn theo’ đảng và nhà nước kể trên.
[16] Trích một đoạn trong thư gửi từ Huế, Việt Nam ngày 29-3-2005 của lm Phan Văn Lợi: “Lúc ấy là vào năm 1977. Tuy chưa được Nhà nước chính thức “cho phép” mở lại, đại chủng viện (ĐCV) Huế vẫn quy tụ được 45 chủng sinh gốc Huế, vốn đã học ở đây từ trước 1975. Tôi (PVL) bấy giờ là lớp thần học 4, tức lớp lớn nhất. Chính quyền CS tỉnh Thừa Thiên muốn dựa vào nghị quyết 297/CP (trước nghị định 26/CP hiện hành) để loại bỏ một số chủng sinh mà lý lịch bị coi là ‘xấu’ khỏi Đại chủng viện. Họ thông báo cho ĐC Điền và ĐC Thể (khi ấy chưa từ chức) ý định này và mời hai vị tới cùng ‘làm việc’. Vì không chấp nhận nguyên tắc “giáo quyền và chính quyền cùng xét duyệt tư cách chủng sinh”, ĐC Điền và ĐC Thể đã công khai tỏ thái độ bằng cách khước từ không đến. Trước thực tế ấy, CS đã đơn phương hành động, ngang nhiên trục xuất 2/5 số chủng sinh (tức 18/45) tháng 5/1978. Số bị trục xuất phần nhiều là lớp lớn (trong đó có tôi, PVL). Khi ấy anh em chúng tôi, tuy bị Nhà nước trục xuất cách tức tưởi, vẫn cảm thấy an tâm và vui lòng vì chủ chăn của mình đã can đảm đấu tranh bảo vệ quyền độc lập và quyền tự điều hành của Giáo hội, không đối thoại theo kiểu mặc cả đổi chác chân lý của Giáo hội với những quyền lợi trần thế do cộng sản đề nghị”.
[17] Có người nêu câu hỏI là: nếu phản ứng của đức TGM Huế được sự đồng thuận của tất cả GM các giáo phận và của HĐGMVN để chúng khẩu đồng từ thì hẳnb rằng kết quả đã khác.
[18] Bản tin Tin Nhà ấn hành ở Pháp từ cuối năm 1990 đến đầu năm 2001.
[19] Ngôn ngữ nhân gian phổ biến tại Sàgòn và được phản ánh trên tờ Tin Nhà.
[20] Coi phần trích dẫn Tường Trình III của Nguyễn Văn Chất để thấy rõ bản chất phản GH của UBĐKYN.
[21] Xin coi nội dung Thư Chung trong phần phụ lục cuối bài để thấy rõ tâm tình yêu mến Hội Thánh và lập trường cương quyết bảo vệ đức tin của đức cha Điền.
[22] Đọc phần II để thấy rõ vấn đề qua những nhận định của Nguyễn Văn Chất.
[23] Trường hợp đức cha Nguyễn Như Thể từ chức phụ tá cho đức TGM Nguyễn Kim Điền lúc bấy giờ là một điển hình.
[24] “Đã có những giám mục chịu chết vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh, nhưng ngày nay có giám mục nào dám chịu chết để bênh vực quyền lợi của con người không?”
[25] Đọc nội dung Di Chúc trong phần phụ lục cuối bài.
[26] Từ ‘làm việc’ là ngôn ngữ của công an nhà nước thường dùng để chỉ những cuộc thẩm vấn dành cho những ai bị tình nghi dính líu vào những việc phi pháp theo quan điểm nhà nước.
[27] Từ Ban Tôn Giáo trong guồng máy Nhà Nước tới tổ chức tay sai UBLLTQ/NGCGVN/YTQ/YHB trước 75 và UBĐK/CGYNVN sau 75, nhằm khống chế GHCGVN, đều rập khuôn từ những tổ chức tương tự tại Liên Sô, Ba Lan và các chư hầu cộng sản ở Đông Âu.