Những anh hùng trong vụ tai nạn máy bay 'Chiến dịch Babylift' của Việt Nam
Những anh hùng vụ tai nạn máy bay trong 'Chiến dịch Babylift' của Việt Nam
Cách đây 50 năm, hai y tá Công giáo người Úc, Margaret Moses và Lee Makk, từ Adelaide Sisters of Mercy đã lên một chiếc máy bay C-5A Galaxy của Không quân Hoa Kỳ chở hơn 300 trẻ em, y tá và phi hành đoàn người Việt Nam trong Chiến dịch Babylift để di tản trẻ mồ côi khi quân đội Bắc Việt tràn vào Sài Gòn.
Họ đã không bao giờ làm được. Nhiều trẻ em cũng vậy.
Một cánh cửa khoang hàng bị thổi bay ngay sau khi cất cánh từ Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất của Sài Gòn, làm hỏng hệ thống điều khiển của phi cơ.
Các phi công đã cố gắng tuyệt vọng để quay trở lại phi trườn, nhưng phi cơ đã rơi ngay trước đường băng, vỡ thành nhiều mảnh và chìm trong biển lửa, khiến 138 người trên phi cơ thiệt mạng.
Ruth Egar, 90 tuổi, một y tá của Sisters of Mercy, người biết những y tá từ thời còn làm việc tại Sisters of Mercy ở Adelaide, cho biết: “Tin tức này khiến chúng tôi choáng váng.”
“Chúng tôi tê liệt vì đau buồn và sợ hãi — đau buồn cho tất cả những người đã chết và sợ hãi cho những người khác vẫn còn ở đó,” nữ tu, người đã đến Sài Gòn khi 40 tuổi, cho biết.
Hai y tá này nằm trong số nhiều người khác, được gọi là “Những thiên thần của thiên đàng”, những người đã tình nguyện phục vụ tại Việt Nam trong quân đội và với các nhóm tôn giáo.
Y tá rất quan trọng — có rất ít bác sĩ người Việt Nam vì họ đã được gọi nhập ngũ. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em, đặc biệt là trẻ mồ côi, cực kỳ cao.
Hai y tá người Úc đã đến Sài Gòn vào năm 1971 để làm việc với một Nữ tu khác của Mercy đến từ Adelaide, Rosemary Taylor, người điều hành một loạt những trại trẻ mồ côi trong những ngôi nhà thuê cho tổ chức từ thiện của Mỹ Friends of the Children of Vietnam.
Đến năm 1975, sau nhiều thập kỷ chiến tranh và với sự sụp đổ sắp xảy ra của Sài Gòn, hiện chính thức là Thành phố Hồ Chí Minh, một cuộc khủng hoảng nhân đạo đã lan rộng đến Nam Việt Nam.
Khi quân đội Bắc Việt chiếm ngày càng nhiều thành phố ở miền Nam, người dân Nam Việt Nam bắt đầu chạy trốn hàng loạt.
Margaret, 35 tuổi, mẹ cô và Lee, sinh ra tại Hung Gia Lợi với tên khai sinh là Gyoparka Maria Makk vào năm 1945, đã lên một chiếc C-130 Hercules của Không quân Hoàng gia Úc chở trẻ em đến Úc qua căn cứ không quân RAAF ở Butterworth, Mã Lai. Mẹ của Margaret đã rời đi an toàn trên một trong những chiếc máy bay RAAF đó.
Nhưng một chiếc USAAF Galaxy bay đến Hoa Kỳ lại thiếu người hộ tống cho trẻ em, vì vậy Margaret và Lee đã tình nguyện đi cùng những đứa trẻ trong chuyến bay dài qua Guam.
Rosemary Taylor sau đó đã viết rằng tài năng tổ chức, hùng biện, khiếu hài hước và khả năng tiếng Pháp của Margaret vô cùng quý giá trong việc đối phó với mọi người, từ thợ sửa ống nước đến chính trị gia, cảnh sát quân sự đến người bán sữa.
Margaret thường viết ra những suy nghĩ và nỗi sợ hãi của mình trong thư và thơ. Một câu trong tuyển tập năm 1976 “Turn my eyes away: Our children in Vietnam 1967 to 1975” do Taylor biên tập có đoạn:
“Tôi không bao giờ vượt qua được nỗi kinh hoàng của những đứa trẻ chưa từng sống, đang chết.”
“Chúng tôi không thể làm gì khác ngoài hy vọng và cầu nguyện, và chờ đợi thêm tin tức.”
Egar cho biết công việc này rất khó khăn, không ngừng nghỉ và nguy hiểm, nhưng cũng rất bổ ích.
“Chúng tôi đã đi, biết rằng ở Úc, nỗi sợ hãi về chiến tranh — và nỗi sợ bị thua — đang lan tràn.”
“Nhiều người đã làm việc ngày đêm với những đứa trẻ đó, gồm cả những phụ nữ Việt Nam có chồng và con trai đang tham chiến.”
“Họ đã cống hiến hết mình và từ chối để tình cảm chính trị trở thành một phần trong sở thích của họ.”
“Tôi là một y tá được đào tạo và hơn hết, chúng tôi cần y tá cho nhiều trẻ mồ côi và trẻ sơ sinh cận kề cái chết được đưa đến đây mỗi ngày.”
“Tôi nghĩ rằng tôi đã thúc đẩy tinh thần của họ, nếu không phải là tinh thần của họ, thì họ cũng bị hấp dẫn bởi ‘người mới đến’ từ Úc này, những bình luận của người này khiến mọi người bật cười.”
“Có niềm vui — vì có người khác đã đến và sẵn sàng chung tay giúp đỡ.”
Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford đã khởi xướng Chiến dịch Babylift vào ngày 3 tháng Tư năm 1975, với sự giúp đỡ của các đồng minh như Tây Đức, Pháp, Gia Nã Đại và Úc.
Đây vẫn là cuộc di tản trẻ em có tổ chức lớn nhất trong lịch sử hiện đại.
Dòng Nữ tu Lòng thương xót, đã cử các nhà truyền giáo đến một số nơi nguy hiểm nhất trên thế giới, được thành lập bởi một giáo dân Công giáo là Catherine Macaulay tại Dublin vào năm 1831.
Họ đã lan rộng sang Úc vào năm 1846, sau đó đến Papua New Guinea vào năm 1956. Chi nhánh tại Úc hiện được gọi là Viện Nữ tu Lòng thương xót Úc và Papua New Guinea, sau khi một số chi nhánh ở Úc và PNG sáp nhập vào năm 2011.
Ngoài công tác mục vụ truyền thống, Viện Nữ tu Lòng thương xót Úc và Papua New Guinea hiện đang ủng hộ người Úc bản địa, người tị nạn và người xin tị nạn, quyền phụ nữ ở PNG, môi trường và chống lại nạn buôn người.
Họ cũng cung cấp dịch vụ tư vấn, tổ chức những khóa tĩnh tâm và dạy nhạc, diễn thuyết và diễn kịch.
Các tổ chức như Sisters of Mercy, Catholic Relief Services, World Vision và các dòng truyền giáo khác, như Franciscan Sisters, đã cứu được hàng nghìn trẻ em trong những năm trước 1975.
Chiến dịch Babylift đã cứu được khoảng 3.000 trẻ mồ côi trong vòng chưa đầy bốn tuần vào tháng Tư năm 1975, theo nhiều ước tính chính thức.
“Đối với tôi, đó là những ngày thực sự hạnh phúc,” Egar nói về thời gian của cô ở những trại trẻ mồ côi tại Sài Gòn.
“Và những đứa trẻ hấp hối đã yêu cầu mỗi chúng tôi phải dành toàn bộ sự chú ý và hỗ trợ chăm sóc — và tình yêu thương.”
Jos. Nguyễn Minh Sơn (After UCA News)