Chữ NGÔN - Phép tính hôn nhân
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Trầm Thiên Thu
Chữ NGÔN
Chữ “Ngôn” có nhiều nghĩa, nhưng nghĩa trực tiếp và rõ ràng nhất là “nói” hoặc “lời nói.” Thường sử dụng là Ngôn Ngữ. Nói là “Ngôn” và đáp là “Ngữ.” Câu “ngôn bất tận ý” nghĩa là nói không hết ý. Câu “nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” nghĩa là một lời nói ra, bốn con ngựa không đuổi kịp, ngụ ý khuyên phải cẩn trọng lời nói. Câu “quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy” ngụ ý người chân chính chỉ nói một lời, không thay đổi. Câu “ngôn hành bất nhất” ngụ ý chê trách người hay thay đổi, nói một đàng mà làm một nẻo.
Chữ “Ngôn” được hiểu là lời ăn tiếng nói, tức là lời nói nhỏ nhẹ, nhã nhặn, kín đáo, dễ nghe, dịu dàng, có duyên,… kết hợp với cử chỉ phù hợp, thể hiện sự thanh lịch, đoan trang, thông minh, khôn khéo của phụ nữ. Lời nói đẹp phải đúng phép tắc, mạch lạc, nghiêm túc. Phải chuẩn mực trong ngôn ngữ giao tiếp, đòi hỏi người ta phải biết nói đúng lúc, đúng chỗ, đúng phép, đúng người. Ngôn ngữ cần thiết đối với tất cả mọi người, cả nam và nữ, bởi đó là phương tiện giao tiếp, mà còn thể hiện nét đẹp văn hóa của con người.
Chữ “Ngôn” được ghép với nhiều chữ khác tạo thành danh từ kép với ý nghĩa khác nhau: Dụ ngôn, ngụ ngôn, châm ngôn, cách ngôn, vĩ ngôn, ngôn sứ, ngôn ngữ, ngôn luận, tự ngôn, thông ngôn, phát ngôn viên,...
Có ngôn từ và phát ngôn. Khi phát ngôn, lời nói thể hiện giá trị văn hóa và bác ái. Cổ nhân dạy: “Lời nói là quyền năng. Đừng vội nói ra để người khác biết bạn là người khờ dại.” Văn sĩ Mark Twain nói: “Chẳng thà mình không nói để người ta tưởng mình ngu, còn hơn mở miệng ra để người ta không còn nghi ngờ gì nữa.” Mình làm chủ lời nói khi chưa nói ra, nhưng mình lệ thuộc lời nói khi nói ra rồi. Vì thế, hãy cân nhắc kỹ khi muốn nói ra điều gì, để người khác thấy lời đó có gia trị. Thật chí lý khi tiền nhân khuyên nên “uốn lưỡi bảy lần trước khi nói.”
Người mẹ nói với ba đứa con: “Con bê dùm mẹ chậu cây này.” Người con thứ nhất nhận thức đơn giản: “Được rồi, mẹ để đấy.” Người con thứ hai hiểu biết hơn: “Dạ, con sẽ làm.” Người con thứ ba có vốn sống văn hóa: “Dạ, con biết rồi, để đó lát nữa con sẽ làm.” Lời nói của người con thứ ba đầy đủ câu cú và ý nghĩa.
Khi phát ngôn, cần nói với đúng người, đúng lúc, đủ câu, đủ ý, nói sự thật chứ không thêm hoặc bớt, không làm người khác lo lắng,... Lời nói phải xác định, chắc chắn, rõ ràng, không lí nhí, mơ hồ,... Cần thì nói, ngắn gọn và đủ hiểu, không nói bừa bãi, không huyên thuyên, không lải nhải, không vòng vo, không rào trước đón sau. Có người thích đưa chuyện, thọc bên nọ thọc bên kia, thường không đúng ý nên dễ hiểu lầm, gây thù chuốc oán,...
Coi chừng phát ngôn không đúng lúc, không đúng chỗ, không đúng lúc, không biết người xung quanh bị tổn thương vì lời nói của mình, vì vậy cần chọn từ ngữ chuẩn xác, rõ ràng, phát ngôn khôn ngoan để không gây hậu quả. Thật thú vị với cách ví von của Samuel Johnson: “Ngôn ngữ là y phục của tư duy.” Và cách đặt vấn đề của George Orwell cũng rất hay: “Nếu tư duy làm ngôn ngữ đồi bại, ngôn ngữ cũng có thể làm đồi bại tư duy. Ngôn ngữ chính trị được tạo ra để khiến những lời dối trá nghe đúng thật, những kẻ sát nhân tỏ ra đáng kính trọng, và khiến gió có vẻ như rắn chắc.”
Ngôn ngữ nói và viết đều có thể tốt hay xấu, có thể “giết chết” hoặc “cứu sống” người khác. Vì thế, cần sử dụng ngôn ngữ tích cực: “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” (Ca dao Việt Nam) Còn người Anh nói: “Lời nói đẹp, đó là chi phí thấp nhất để thu lợi cao nhất.” Như ly nước có đầy mới tràn, lòng mình thế nào thì nói ra như vậy. Ngôn ngữ cũng tương tự, và còn cho biết chính người nói lời đó: “Lời nói là tấm gương của tâm hồn: anh nói như thế nào, anh là như vậy. Tôi thường hối tiếc vì những gì mình nói, chứ không bao giờ vì sự im lặng của mình.” (Publilius Syrus) Đáng sợ nhất là ảnh hưởng đời đời: “Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án.” (Mt 12:37)
Chuyện kể rằng, một bầy ếch đi dạo trong rừng và có hai con bị rơi xuống một hố sâu. Tất cả các con ếch còn lại bu quanh miệng hố để kéo chúng lên. Nhưng khi thấy cái hố quá sâu, cả bầy liền nói với hai con ếch rằng chúng chỉ còn nước chết mà thôi. Hai con ếch bỏ ngoài tai những lời bình luận đó và cố hết sức nhảy lên khỏi hố. Những con ếch kia bảo chúng đừng nên phí sức, và chúng chỉ còn nước chết.
Một con ếch phía dưới nghe theo lời cả bầy đã nói, nó bỏ cuộc và lăn ra chết trong sự tuyệt vọng. Con ếch còn lại tiếp tục cố gắng nhảy. Một lần nữa, cả bầy xúm lại và hét lên khuyên nó đừng cố gắng nữa. Nhưng nó càng nhảy mạnh hơn. Cuối cùng, nó nhảy được lên bờ. Cả bầy vây quanh hỏi nó: “Anh không nghe tụi tôi nói gì hay sao?” Thì ra con ếch này bị nặng tai, nó tưởng cả bầy đã động viên nó.
Lời nói là chuyện của người khác, nghe hay không là việc của mình. Vì thế, đừng vì lời nói của người khác mà nản chí, buông xuôi. Nếu nói thì phải cẩn ngôn, đừng đổ dầu vào lửa. Một lời động viên khích lệ người đang bế tắc, thất vọng, có thể vực người ấy dậy và giúp họ vượt qua khó khăn, nhưng một lời tiêu cực có thể giết chết người đang tuyệt vọng.
Cuộc đời cần lắm một chút quan tâm, một chút chia sẻ, và thế giới sẽ tốt đẹp hơn. Nelson Mandela nói: “Nếu bạn nói với một người bằng ngôn ngữ mà anh ta hiểu, điều bạn nói sẽ đi được vào đầu đối phương. Nếu bạn nói với người đó bằng ngôn ngữ của anh ta, điều bạn nói sẽ đi tới con tim.” Ngôn ngữ quý ở sự giản dị, thật thà, còn chân tâm (tâm thật) quý ở sự sáng suốt, trung thành, quang minh chính đại. Ngôn ngữ có ảnh hưởng tâm hồn và tính cách của con người. Vì thế, “hãy nói rõ ràng, nếu bạn định nói; hãy trau chuốt từng chữ trước khi để nó ra khỏi miệng.” (Oliver Wendell Holmes)
Ngôn ngữ và hành động có sự khác nhau: “Ngôn từ có thể cho thấy sự sắc sảo của một người, nhưng hành động mới thể hiện ý nghĩa của họ.” (Benjamin Franklin) Ngôn ngữ bình thường mà khác thường, vì “lời nói luôn mạnh bạo hơn hành động,” (Friedrich Schiller) nhưng “lời nói trôi đi, hành động ở lại.” (Napoleon Bonaparte) Cái “ở lại” mới đáng quan ngại.
Mahatma Gandhi nói: “Hãy luôn nhắm tới sự hài hòa tuyệt đối giữa tư tưởng, lời nói và hành động. Hãy luôn nhắm tới sự trong sạch trong tư tưởng và mọi thứ sẽ tốt đẹp.” Bởi vì “kiếm làm tổn hại thân thể, ngôn từ làm tổn thương tâm hồn.” (Menander) Cái hại nào cũng có mức độ tang thương nhất định, chẳng cái hại nào hơn hoặc kém nhau.
Có những lời nói mà người nói cảm thấy đau đớn hơn người nghe, và có những giọt nước mắt mà người nhìn cảm thấy mặn đắng hơn người khóc. Một lời bất cẩn có thể nhóm lên xung đột, một lời tàn nhẫn có thể phá hỏng một cuộc đời, một lời tốt đẹp có thể xua tan sự căng thẳng, một lời yêu thương có thể chữa lành và chúc phúc. Nói tưởng dễ mà rất khó, chẳng vậy mà “người ta mất hai năm để học nói, nhưng phải mất sáu mươi năm để học cách im lặng.” (Ernest Hemingway) Người khôn ngoan biết điều gì nên nói và điều gì không nên nói.
Kinh Thánh cho biết có sự khôn khéo và sự can đảm ở người đàn bà Canaan. (Mt 15:21-28; Mc 7:24-30) Chúa Giêsu thẳng thắn nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Và Chúa Giêsu đã không thể làm ngơ mà phải chạnh lòng thương với con người như vậy. Liễu yếu đào tơ mà rắn hơn đá, cứng như thép.
Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử nói: “Tri nhân giả trí, tự tri giả minh. Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường. Tri túc giả phú, cường hành giả hữu chí.” – Biết người là khôn ngoan, tự biết mình là sáng suốt. Thắng người là mạnh mẽ, thắng mình là mạnh mẽ thực sự. Người thành công phải tự thắng được chính mình.
Chữ “Ngôn” có liên quan ngoại ngữ. Charlemagne nói: “Biết ngôn ngữ thứ hai là sở hữu tâm hồn thứ hai.” Tất nhiên nó cũng liên quan âm nhạc và thi ca. Về âm nhạc, Gioachino Rossini nói: “Âm nhạc là loại ngôn ngữ hài hòa. Ngôn ngữ của âm nhạc là ngôn ngữ chung của tất cả mọi thế hệ và mọi dân tộc; ai cũng hiểu được nó, bởi nó được hiểu bằng trái tim.” Về thi ca, Umberto Eco nói: “Thi ca không phải là vấn đề cảm xúc, nó là vấn đề ngôn ngữ. Thi ca là ngôn ngữ tạo ra cảm xúc.”
Chữ “Ngôn” còn liên quan vấn đề khác: Cẩn ngôn – cũng là một cách tu thân. Có tu thân thì mới có thể tề gia, rộng hơn là có thể trị quốc, bình thiên hạ. Aristotle nhận định chí lý: “Biết mình là khởi đầu mọi sự khôn ngoan.”
Ngôn ngữ có thể là lời nói hoặc chữ viết, có hay và dở, có đúng và sai, có khen và chê, có hài hước và châm biếm. Chắc hẳn người Việt nào cũng hiểu XHCN là Xã Hội Chủ Nghĩa, nhưng người ta “dịch” ra những ý nghĩa rất độc đáo – và cũng rất cụ thể: Xạo Hết Chỗ Nói, Xét Hỏi Cả Ngày, Xù Hết Chủ Nợ, Xếp Hàng Cả Ngày, Xóa Hết Cội Nguồn, Xóa Hết Chữ Nghĩa, Xâm Hại Con Người, Xấu Hổ Cả Nước, Xuống Hố Cả Nước, Xuống Hàng Chó Ngựa, Xấu Hơn Cả Ngợm, Xơi Hết Cả Nhà, Xì Hơi Chết Người. Thật đáng thương cho những Việt nhân chân chính!
Lạy Chúa, con không biết ăn nói, (Gr 1:6) xin bảo ban dạy dỗ. (Tv 25:4-5) Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, Ngài đã am tường hết, (Tv 139:4) xin canh giữ miệng con và trông chừng lưỡi con, xin đừng để lòng con nghiêng về sự dữ. (Tv 141:3-4a)
TRẦM THIÊN THU
***************
PHÉP TÍNH HÔN NHÂN
Trong toán học, dù tính nhân hay tính cộng thì hai với hai vẫn là bốn. Nhưng trong hôn nhân, hai với hai chỉ là MỘT, không thể và không bao giờ là bốn. Chắc hẳn “bài toán hôn nhân” là bài toán kỳ lạ nhất, đơn giản nhất, khó giải nhất, và cũng ngược đời nhất: 1 + 1 = 1. Bài toán này hoàn toàn đúng: “Người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.” (Mt 19:5)
Không như trần tục hoặc các tôn giáo khác, hôn nhân Công giáo có đặc điểm khác hẳn: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mt 19:6) Đó là hôn luật thánh do Thiên Chúa thiết lập. Khó nhưng cần thiết, khó vậy mới là hy sinh, chung thủy trong mọi hoàn cảnh, và mới là “nên một xương thịt,” vì chẳng ai lại xẻ thân mình bao giờ!
Mãi từ thuở hồng hoang, sau khi tạo dựng con người, Thiên Chúa xác định: “Con người ở một mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.” (St 2:18) Thiên Chúa có cách quan phòng và tiền định kỳ diệu. Điều đó cho thấy Ngài muốn con người sống hài hòa với nhau, liên kết với nhau, cùng chia vui sẻ buồn và tận hưởng hạnh phúc với nhau.
Rồi Ngài “lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế.” (St 2:19) Thiên Chúa tạo dựng muôn loài, nhưng Ngài muốn con người “góp công” nên cho con người quyền đặt tên mọi loài, chứng tỏ con người có giá trị. Hạnh phúc quá! Tuy nhiên, sau khi “con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng.” (St 2:10) Vì thế, Ngài “cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi, rồi Ngài rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào.” (St 2:21) Nghe kể việc Chúa làm mà ngạc nhiên, ngày nay người ta thấy vậy sẽ cho là “ma thuật,” nhưng điều đó hoàn toàn là quyền năng vô song của Thiên Chúa, và chỉ một mình Ngài làm được mà thôi.
Khi “con người” ngủ, Ngài rút lấy cái xương sườn và làm thành một “sinh vật lạ,”rồi Ngài dẫn đến với con người. Thấy vậy, con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.” (St 2:23) Bởi thế, “người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” (St 2:24) Và Ađam gọi vợ là Êva.
Kể cũng kỳ cục, có những đàn ông “tự đề cao” mình và “lý luận” rằng Thiên Chúa dựng nên đàn ông trước, đàn bà là “sản phẩm” của đàn ông, là cấp dưới nên phải “lệ thuộc” đàn ông. Thậm chí người ta còn quan niệm là “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một trai kể là có, mười nữ coi như không). Lối suy nghĩ thật là ấu trĩ, thiển cận, nông cạn và kiêu ngạo! Càng nói càng lòi cái… ngu, ngu kinh niên. Tại sao vậy?
Nhóm Sađốc là những người không tin có sự sống lại, họ hỏi Chúa Giêsu để “gài bẫy” Ngài về chuyện bảy anh em trai, lần lượt mỗi người đều cưới cùng một cô vợ, vì luật Môsê nói rằng anh lấy vợ mà chết trước khi có con thì chú em phải cưới chị dâu làm vợ. Cả bảy anh em đều cưới cô ta mà không có con. Nhóm Sađốc hỏi Chúa Giêsu rằng khi sống lại thì phụ nữ đó sẽ là vợ của người nào trong bảy anh em. Bọn họ chắc mẩm Chúa Giêsu sẽ “bó tay.” Nhưng Chúa Giêsu thản nhiên và nói: “Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” (Mt 22:29-30; Mc 12:24-25; Lc 20:34-36) Hố to! Đã vậy họ còn bị Chúa Giêsu trách là “lầm” và chê là “ngu dốt,” chẳng biết Kinh Thánh chi hết.
Ngay từ đầu, Thiên Chúa dựng nên con người tốt lành, không hề có khái niệm nam hay nữ, khác giới hay đồng giới. Vì thế, người ta “vô tư” mà không cần trang phục: “Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.” (St 2:25) Chỉ sau khi phạm tội, con người mới nhận ra mình trần truồng và xấu hổ nên muốn… độn thổ! Bởi vì “bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân” (St 3:7)
Nam và nữ “thu hút” nhau như hai cực nam châm trái dấu, nhờ đó mà phát sinh tình yêu, tình yêu dẫn đến hôn nhân. Hôn nhân là sự liên kết tạo nên một gia đình mới – tế bào cơ bản của xã hội. Hôn nhân đòi buộc sự chung thủy một vợ, một chồng, có vậy mới không sinh những hệ lụy rắc rối khác. Ca dao Việt Nam có nhiều câu nói về sự chung thủy trong tình yêu và hôn nhân, chẳng hạn:
Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền
Sự chung thủy ấy được thể hiện qua lời tâm sự của phụ nữ – người yêu hoặc người vợ:
Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam
Sự chung thủy ấy cũng được thể hiện qua lời tâm sự của đàn ông – người yêu hoặc người chồng:
Tay cầm quyển sách bìa vàng
Sách bao nhiêu chữ, thương nàng bấy nhiêu
Chung thủy là “chén nước được giữ thăng bằng,” không hề sóng sánh. Luật chung thủy không chỉ “bắt buộc” ở người vợ mà cả ở người chồng. Vì khi hai người cùng nhau cử hành bí tích hôn phối trước mặt vị đại diện Giáo Hội và cộng đoàn Dân Chúa, ai cũng vui vẻ thề hứa công khai: “Anh (em) nhận em (anh) làm vợ (chồng) và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em (anh) khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em).” Vậy đó, “mình với ta tuy hai mà một,” vì thế mà không ai lại tự “xẻ” mình ra. Chắc hẳn chẳng ai dám!
Tục ngữ nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn.” Hôn nhân Công giáo là một ơn gọi, là bí tích, là hôn nhân thánh. Hôn nhân là một hành trình gian khó, đầy trọng trách, nhưng bù lại cũng có nhiều niềm vui, có thể gọi đó là “nỗi đau ngọt ngào,” và là niềm hạnh phúc độc đáo. Thật vậy, trầu cau xanh kết hợp với vôi trắng tạo nên nước đỏ tươi và vị cay cay, chính vị cay đó khiến người xưa nghiện ăn trầu.
Mục đích của hôn nhân không chỉ là sinh con đẻ cái theo lệnh Chúa: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất.” (St 1:28) Quan trọng hơn, mục đích của hôn nhân là giúp nhau nên thánh: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48)
Trình thuật Mc 10:2-12 cho biết rằng, một lần nọ có mấy người Pharisêu đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ hỏi cho ra vẻ thân thiện chứ thực tế họ chẳng tốt lành gì, họ muốn thử Ngài để “gài bẫy” Ngài. Nhưng Ngài thản nhiên: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?” Họ vẫn trơ trẽn trả lời: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ.” Chúa Giêsu nói thẳng với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.” Và Ngài quả quyết: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mc 10:9)
Biệt Phái quá “chảnh,” đã “dốt đặc cán mai” mà vẫn tỏ ra thông thái, ngu truyền kiếp mà tưởng mình thông minh. Gậy ông lại đập lưng ông, thế nên họ đành ngậm bồ hòn và câm như hến. Ngay cả các môn đệ cũng lơ ngơ như bị “chạm mạch,” thế nên khi về đến nhà, các ông lại hỏi Ngài về điều ấy. Ngài nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình.” (Mc 10:11-12) Quá rõ, không phân biệt nam hay nữ chi cả. Ai làm sai là phạm tội.
Đừng tưởng đã là vợ chồng thì hiểu nhau mọi thứ. Không đâu! Vì thế, chuyện to hay việc nhỏ vẫn cần bàn luận để có thỏa thuận chung. Khi có sự đồng tâm nhất trí rồi, việc “tát cạn biển Đông” chẳng khó khăn chi. Hãy cùng Alexandre Mercereau “sẵn sàng hy sinh để chứng minh là mình biết sống,” biết CỘNG những niềm vui, NHÂN niềm hạnh phúc, TRỪ bớt đau khổ, không ngừng CHIA sẻ và không bao giờ CHIA rẽ hoặc CHIA ly.
Lạy Thiên Chúa là Đấng Trung Tín, xin giúp những người sống đời hôn nhân luôn trung thành với lời hứa yêu thương, sống giản dị và đơn sơ, đặc biệt là luôn sống trung tín với Ngài trong mọi hoàn cảnh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU