Nhảy đến nội dung

Sự thánh thiện có làm bạn sợ hãi không ? - Mến Chúa yêu người hai trong một

SỰ THÁNH THIỆN CÓ LÀM BẠN SỢ HÃI KHÔNG?

Hầu như lúc nào cũng vậy, những chữ “ông thánh, bà thánh” hoặc “thánh thiện” khiến chúng ta bối rối. Tại sao vậy? Thực vậy, chúng ta sợ hãi sự thánh thiện cũng nhiều như sợ hãi những căn bệnh tồi tệ nhất, vì chúng ta liên tưởng đến những bức tượng bằng thạch cao của các vị tử đạo, vốn dĩ xem ra không bao giờ có vẻ khỏe mạnh...Nói một cách dễ hiểu, nhiều loại sợ hãi khác nhau khiến chúng ta không thể trở nên thánh thiện. Dưới đây là mười cách chữa trị nỗi sợ hãi, và đi cùng với mỗi cách chữa trị, là một vị thánh để chúng ta xem xét và bắt chước.

Con người hiện nay cũng hơi giống chàng thanh niên giàu có trong dụ ngôn: không có gì xấu xa, thậm chí còn có lòng vị tha cao cả. Họ ít nhiều tuân giữ các điều răn. Nhưng một ngày kia, khi Chúa Giêsu gọi họ và nói: “Hãy theo Ta”, thì giống như người thanh niên này, họ chần chừ…

Theo Đức Hồng Y Danneels, một nhân vật tiêu biểu của Giáo hội Bỉ, chúng ta sợ sự thánh thiện vì sợ bị chế giễu. Bởi vì “những kẻ hành quyết thực sự, ngày nay, không phải là những kẻ xé xác hay chặt đầu. Họ là những kẻ giễu cợt sự thánh thiện, chẳng hạn họ nói: “Sự thánh thiện là chuyện cổ xưa rồi, chỉ là chuyện ngây ngô thôi!”

Thực sự chính nỗi sợ hãi đã cản trở người ta trở thành một vị thánh, một nỗi sợ hãi che giấu dưới những chiếc mặt nạ khác nhau. Giống như chiếc mặt nạ che dấu nỗi sợ hãi bị coi là lố bịch là chiếc mặt nạ che dấu sợ hãi trước sự phán xét của người khác - những người nói liều rằng chúng ta là những kẻ ngây ngô hoặc lạc hậu. Vì vậy, làm thế nào chúng ta có thể vượt qua nỗi sợ hãi này để nhờ đó xây dựng sự thánh thiện trong tương lai?

Dưới đây là mười biện pháp khắc phục nỗi sợ hãi dưới nhiều khuôn mặt. Và, cùng với mỗi biện pháp là một cách chữa trị độc đáo, một vị thánh nam hoặc nữ, để chúng ta xem xét và bắt chước. Nếu chúng ta không chữa trị bằng những gương mẫu như thế, thì niềm hy vọng giảm đi nhiều.

Sợ những gì vô hình

Chúng ta sợ thế giới vô hình mà Kinh Thánh và Tin Mừng nói đến. Nỗi sợ này chủ yếu xuất phát từ nỗi sợ tự tạo ra ảo ảnh cho chính mình: Chúng ta sợ bị mắc bẫy. Phương thuốc của ngôn sứ Êlia: nhà vô địch của sự vô hình là vị ngôn sứ Êlia. Ngôn sứ Êlia phục vụ Chúa và liều lĩnh mọi sự vì Chúa, mặc dù vị ngôn sứ chưa bao giờ nhìn thấy Chúa. Vị ngôn sứ chấp nhận rủi ro to lớn trên Núi Carmel khi đối phó các tư tế của thần Baal. Vị ngôn sứ không có được thị kiến gì cả, nhưng ông xây bàn thờ của mình, đặt củi lên bàn thờ và đặt con bò lên trên đó, và không có gì trong tay, ông cầu xin Chúa gửi lửa đến thiêu rụi của lễ. Và ngọn lửa đã đến. Êlia là ngôn sứ của sự chiêm niệm và quen thuộc với điều vô hình.

Sợ phải cho đi hoàn toàn

Đó là nỗi sợ có liên quan và hợp lý với đức tin của một con người. Chúng ta muốn tin đôi chút, đến một mức độ nào thôi, nhưng không quá nhiều. Chúng ta muốn giữ lại một phần nào đó. Tuy nhiên, không có gì mâu thuẫn hơn là tin mà giữ lại một phần nào đó, bởi vì đức tin thì tuyệt đối không có mức độ. Cách chữa của Thánh Phanxicô Assisi:  

Ngài hiểu Tin mừng theo mặt chữ. Ngài không thêm gì trong phần chú thích ở cuối trang: Ngài không diễn giải, Ngài đi tới cùng. Đứng trước thánh giá của San Damiano, Ngài nghe thấy những lời của Chúa Giêsu nói với Ngài: "Hãy đi xây dựng lại Giáo Hội của Ta". Ngài trèo lên mái nhà và bắt đầu sửa chữa mái nhà. Tuy nhiên, sau này khi Ngài thấy rằng việc xây dựng Giáo hội không có nghĩa là sửa chữa mái của một tòa nhà, mà vấn đề là xây dựng lại toàn bộ Giáo hội, sau đó Ngài đã thành lập dòng khất sĩ của mình.

Sợ phải sống bác ái trọn vẹn

Ngay khi chúng ta dấn thân vào con đường phục vụ người khác, người khác sẽ ăn thịt chúng ta. Vì sợ bị ăn thịt, chúng ta đặt ra những giới hạn nhất định: chúng ta yêu mến Thiên Chúa và con người, nhưng đến một mức nào đó, không hết lòng... Cách chữa trị của Cha Kolbe: Cha là một bác sĩ đích thực cho căn bệnh này. Ngài đứng xếp hàng cùng các tù nhân trong trại Auschwitz. Khi tên cảnh sát nói: “Chúng tôi sẽ hành quyết người kia,” và chỉ tay vào một người đàn ông trong hàng, và người đàn ông đó bắt đầu khóc lóc vì ông ta là một người có gia đình, Cha Kolbe thế chỗ. Ngài vào boongke và hy sinh chết thay cho người bạn đồng hành bất hạnh của mình. Ngài đã không dừng lại nửa chừng trong việc sống tình bác ái.

Sợ làm theo Lời Chúa

Thường khi đọc Kinh Thánh, chúng ta chiêm ngưỡng Lời Chúa từ xa: “Thật là đẹp đẽ, nhưng không thể thực hành được”. Tóm lại, chúng ta sợ hiểu Lời Chúa theo mặt chữ. Biện pháp khắc phục của Edith Stein: Edith Stein, người Do Thái, đã vượt qua một ngưỡng cửa khó khăn. Cô ấy đã vượt ra ngoài tôn giáo của cha ông mình, điều mà cô ấy rất gắn bó. Cô nhận ra rằng Giao Ước Thứ Nhất đã được ứng nghiệm trong Tân Ước cùng với Chúa Giêsu. Điều đó đòi hỏi một thứ suy nghĩ khôn nguôi. Đức tin vào Lời Chúa Giêsu và sự mới mẻ của đức tin không phải là điều dễ dàng đối với một người phụ nữ Do Thái, nhưng cô không sợ Tin Mừng được hiểu theo nghĩa đen.

Sợ sự đơn giản của các nghi thức và các bí tích

Các bí tích vô cùng đơn giản. Hơn nữa, các tác động cùa bí tích không quan sát được. Kết quả của các bi tích là không thể kiểm chứng: hiệu quả đó được gọi là ân sủng. Tuy nhiên, trong thời đại chuộng hiệu quả, chúng ta sợ rằng những nghi thức này chỉ là những cử chỉ tượng trưng đơn thuần. Cách chữa trị của Cha xứ Ars: ngài không bao giờ giảng thuyết một cách lạ thường. Đơn giản là ngài chỉ đọc một văn bản được viết trước. Thật ra, không nên tìm kiếm nơi ngài những lời nói, mà là tìm kiếm các bí tích... Ngài chỉ làm điều này thôi: cử hành Thánh Lễ và giải tội từ sáng sớm cho đến tận đêm khuya. Một ngày nọ, ngài muốn trốn khỏi Ars vì đã chịu đựng quá đủ. Nhưng ngài tự nhủ: “Không được! Mình phải quay lại thôi, vì nếu tôi rời bỏ giáo xứ, bí tích sẽ mất, Thiên Chúa cũng đi mất”.

Sợ sự dễ đổ vỡ trong lòng

Đó là nỗi sợ hãi về sự dễ đổ vỡ của nội tâm và của đạo đức của chính chúng ta. Đó là một sự bất lực nào đó, một tiếng nói nho nhỏ gợi ý rằng: “Tôi không có khả năng trở thành một vị thánh.” Cách chữa trị của Thánh Têrêsa thành Lisieux: khi ở trong nhà dòng Cát Minh thành Lisieux, Thánh Têrêsa nghe kể chuyện các thánh tử đạo, thánh nữ đã tự nhủ: “Tôi không bao giờ làm được điều đó. Không thể được!”. Và chính lúc đó chị kết thúc suy tư của mình: “Không phải tôi tự mình làm điều này; tôi phải để choChúa làm việc nơi tôi. Tôi càng yếu đuối, Chúa càng yêu tôi. Dù tôi có phạm mọi tội lỗi của thế gian, Ngài cũng sẽ yêu tôi nhiều hơn nữa”. Con đường nhỏ bé của Thánh Têrêsa thành Lisieux là liều thuốc duy nhất chống lại nỗi sợ hãi về sự dễ đổ vỡ của chúng ta. Thánh nữ biết làm thế nào để có được lòng tin.

Sợ yêu mến Giáo hội

Nỗi sợ yêu mến Giáo hội, có lẽ là nỗi sợ quan trọng và dễ thấy nhất hiện nay. Nhiều người tách mình ra khỏi Giáo hội khi nói rằng “Tôi ủng hộ Chúa Kitô nhưng không ủng hộ Giáo hội”. Cách chữa trị của Thánh Catarina thành Siena: là một cô gái giản dị quê mùa ở miền bắc nước Ý, Catarina hầu như không biết đọc và viết, nhưng cô có một tình yêu vô song đối với Giáo hội. Trong những bức thư của mình, cô nói thẳng thắn một cách kịch liệt với Đức Giáo Hoàng - lúc đó đã rời bỏ Rôma. Catarina đã viết cho Đức Giáo Hoàng một số lá thư, nói với Đức Giáo Hoàng: “Chỗ của Ngài không phải ở Avignon, chỗ của Ngài là ở Rôma”. Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng trở lại Rôma. Trong những tháng cuối đời, Catarina đến cầu nguyện mỗi ngày trên bậc thềm của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô.

Sợ nói và nói thẳng thắn

Giống như các tông đồ thúc thủ trong Nhà Tiệc Ly trước Lễ Hiện Xuống, chúng ta cũng sống trong sự chờ đợi và do dự, tự nhủ: “Tôi sẽ nói, khi nào họ muốn lắng nghe…” Điều chúng ta thiếu, đó là parrèsia của Thánh Phaolô, tức là nói thẳng ra, điều này mở miệng lưỡi chúng ta ra, làm cho chúng ta dám loan báo đức tin. Cách chữa trị của Thánh Phaolô: ngài không ngại nói. Trên hết, ông không sợ bị từ chối. Khi người ta không đồng ý hoặc không trả lời, ngài xách túi của mình lên, ngài đi đến một thành phố khác và lại bắt đầu nói. Không có một cha sở nào, một linh mục coi xứ nào thay đổi giáo xứ thường xuyên như Thánh Phaolô. Không phải vì giám mục của ngài bổ nhiệm ngài đi nơi khác, mà vì ngài bị đuổi đi.

Sợ tuyên xưng đức tin “công khai”

Chúng ta sợ đức tin để lại hậu quả, tác động đến cuộc sống hàng ngày. Khi đức tin ngày càng bị đẩy xuống lãnh vực đời sống riêng tư. Chúng ta không nói về đức tin. Cách chữa trị của Thánh Thomas More: Thánh bổn mạng của các chính trị gia và các nguyên thủ quốc gia, ngài không ngại thể hiện đức tin của mình trước mặt nhà Vua nước Anh. Ngài đã phải trả giá bằng mạng sống của mình! Chẳng phải ngài đã nói điều sau đây: “Khi người ta tin, khi người ta là Kitô hữu, không phải bất luận thứ luật lệ nào người ta cũng phải tuân theo. Luật pháp cho rằng chính nó là tự trị, nhưng điều đó không đúng. Luật bất công không phải là luật.”

Sợ lựa chọn và quyết định

Chúng ta vô cùng sợ hãi bước đi, lựa chọn, quyết định... Chúng ta chần chừ mãi vì “bạn không bao giờ biết được chuyện gì xẩy ra!” Tại sao? Để không mất mạng sống. Thế mà Chúa Giêsu lại nói, “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” Cách chữa trị của Thánh Charles de Foucauld: Trong nhiều năm, ngài đã do dự trở thành một Kitô hữu cho đến ngày, tại nhà thờ Thánh Augustinô, ở Paris, Cha Huvelin nói với ngài: “Ông do dự như vậy là đủ rồi, hãy quỳ xuống và tuyên xưng đi.”  Và Charles đã hoán cải. Tất nhiên, không phải lúc nào bạn cũng phải hối thúc mọi người như vậy. Để làm điều đó, bạn cần phải là Cha Huvelin. Nhưng điều quan trọng: tại một thời điểm nhất định, Charles đã vượt qua sự do dự thường xuyên của mình, một sự nghi ngờ mà ngài cũng như chúng ta vẫn thường gặp.

Tác giả: Marzena Devoud, fr.aleteia.org.

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.

******************

YÊU CHÚA YÊU NGƯỜI, HAI TRONG MỘT

Những ngày đầu tháng mười một, tháng cầu cho những người đã qua đời, là thời gian thích hợp để mọi tín hữu tập trung nhiều hơn vào nội tâm của mình, tự hỏi những câu hỏi căn bản của cuộc sống đời này và tìm kiếm câu trả lời từ Chúa Kitô. Đôi khi chúng ta quên mất mục đích sống của mình. Điều quan trọng bây giờ là phải quay trở lại, đặt mọi thứ về đúng nơi của chúng. Đây là lý do tại sao câu trả lời của Chúa Giêsu cho vị kinh sư là điều cần thiết đối với chúng ta. Đời sống Kitô hữu chỉ có một điều: “Điều răn đứng đầu là: …Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12:29-31). Yêu mến Thiên Chúa bằng cách yêu thương người lân cận và tình yêu dành cho người lân cận không thể tách rời khỏi tình yêu dành cho Thiên Chúa.

1. Thiên Chúa là nguồn sức mạnh cho mọi hành động yêu thương

Chúng ta thường bị cám dỗ tách rời hai điều này. Thật vậy, chúng ta thường bị cám dỗ tin rằng chúng ta có thể yêu thương mà không cần đến Thiên Chúa, rằng chỉ cần tử tế, quảng đại với người khác là đủ, v.v. Chúng ta muốn sống một thứ tình yêu không có Thiên Chúa, tách rời khỏi Ngài. Đó là lý do tại sao có những Kitô hữu không dành thời gian để cầu nguyện, để suy niệm lời Chúa, dự lễ ngày Chúa nhật, xưng tội… Chúng ta tự bào chữa cho mình bằng cách nói rằng chúng ta đang làm những việc tốt lành, rằng chúng ta rất quảng đại, phục vụ hàng xóm của mình, tham gia những chuyến thăm từ thiện.

Nhưng liệu nếu chúng ta không múc lấy sức mạnh từ nguồn mạch là chính Thiên Chúa thì chúng ta có thể phục vụ người lân cận bằng cả trái tim, yêu thương họ như chính mình và như Chúa yêu họ không? Liệu lòng quảng đại của chúng ta có còn sức lực không khi những người được chúng ta giúp đỡ tỏ ra vô ơn? Liệu chúng ta có còn sức mạnh để yêu thương và phục vụ những người ghét chúng ta, những kẻ hủy hoại con cái, cha mẹ, gia đình và xã hội của chúng ta không? Liệu chúng ta còn có thể cầu nguyện cho những kẻ bách hại chúng ta, thật lòng mong cho họ có được những điều tốt đẹp nhất không? Nếu chúng ta không gắn kết với Thiên Chúa, nếu lời Ngài không đổi mới và tăng sức cho chúng ta mỗi ngày, làm sao chúng ta có thể mở lòng ra làm điều tốt lành cho những người chống đối chúng ta, thậm chí không xứng đáng vì đã làm hại chúng ta?

Nguồn mạch duy nhất của tình yêu và sự sống đích thực là Thiên Chúa, như bài đọc thứ nhất nhắc nhở: “Nghe đây, hỡi Israel! Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng” (Đnl 6:4-6). Chính Ngài là Đấng tiếp thêm sức mạnh cho những người vợ / chồng có thể chịu đựng và tiếp tục yêu thương, phục vụ người bạn đời chưa đủ tận tụy chung thủy, quan tâm đến hạnh phúc của gia đình, của con cái, vì: “Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; Thiên Chúa con thờ là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:3). Chính nơi Thiên Chúa, những người lao động tìm thấy sức mạnh để làm tốt công việc của mình dù lương chưa cao, dù tất cả những đồng nghiệp khác đều nản lòng. Người chủ xí nghiệp nào thấm nhuần Lời Chúa: “Anh em biết đấy: ai làm việc tốt, sẽ được Chúa trả công, bất luận nô lệ hay tự do. Người làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng doạ nạt nữa: anh em biết rằng Chúa của họ cũng là Chúa của anh em, Ngài ngự trên trời và không thiên vị ai” (Ep 6: 8-9) thì sẽ trân trọng công sức công nhân viên của mình, đối xử công bằng với họ. Nếu chúng ta rời xa Thiên Chúa thì có nguy cơ tiền bạc, quyền lực, và thú vui ích kỷ trở thành nguồn cơn khiến chúng ta áp bức, bắt những người khác làm nô lệ phục vụ chúng ta. Chỉ nơi Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn sức mạnh vô tận để hiến thân vì người khác: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình cho những người mình yêu” (Ga 15:13). Đấng tuyên bố như vậy đã tự mình tiến về Cuộc Khổ Nạn của Ngài và, vì vâng phục Chúa Cha, Ngài đã hiến mạng sống mình trên Thập Giá cho tất cả mọi người: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Phil 2:6-11). Chỉ khi nào tiếp xúc trực tiếp với tình yêu của Chúa Kitô, hiệp thông với cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài, thì người ta mới kín múc được khả năng yêu thương như Chúa Kitô để sống yêu thương, hiến thân và phục vụ đến mức độ bác ái tột cùng: “Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng” ( Ga 13:1).

Vì vậy, chúng ta hãy đi tìm gặp Thiên Chúa, xây đắp mối tương quan bền chặt với Thiên Chúa. Ngài cần phải là đá tảng cho cuộc sống chúng ta tựa vào. Suy ngẫm Lời Ngài mỗi ngày, coi đó là kim chỉ nam, giúp chúng ta có được sức mạnh để yêu thương và phục vụ mọi người như Chúa Giêsu.

2. Yêu những người khác vì Chúa cũng yêu họ như yêu chúng ta

Yêu Chúa và yêu người khác! Không thể tách rời hai điếu đó. Chúng ta không thể yêu Chúa nhưng lại ghét người khác, cãi vã với họ, từ chối biểu lộ tình thân với họ. Tin yêu Thiên Chúa phải dẫn đến sự sống kết hiệp với Ngài. Điều này không thể chỉ đơn giản là đọc những bài kinh có sẵn hoặc “đi xem lễ” ngày Chủ nhật chỉ “cho phải phép”. Phải xem đến những hành động trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là sống theo lời Ngài, là áp dụng các điều răn của Ngài vào cuộc sống của chúng ta, và điều đó có nghĩa là sống tôn trọng người khác. Đây là quy luật vàng của mọi đời sống Kitô hữu. Chính Chúa Giêsu công bố quy luật đó: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Mc 12: 29-30).

Nhưng chúng ta hiểu điều răn này của Thiên Chúa như thế nào? Chúng ta có biết yêu mến Thiên Chúa nơi người khác không, vì: “Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:31). Trong xã hội ngày nay của chúng ta, nơi sự tiêu dùng và hưởng thụ là chuẩn mực, nơi người ta coi “sở hữu mọi thứ” là một đẳng cấp, nơi người ta cố đạt được thành công, thu nhập tiền của càng nhiều càng tốt bằng bất cứ cách nào, hoặc theo đuổi mọi thú vui cá nhân mà không cần quan tâm đến người nào khác, ngay cả sẵn sàng quên đi một vài trách nhiệm cộng đồng đơn giản. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đọc lại cuộc đời mình dưới ánh sáng của tình yêu đích thực mà chúng ta cần phải dành cho Thiên Chúa và cho người khác. Thiên Chúa sẽ thay đổi chúng ta trong tình yêu chúng ta dành cho nhau. Chúng ta có thể yêu người lân cận hay không là tùy thuộc vào việc chúng ta có yêu Chúa hay không. Mối tương quan của chúng ta với người lân cận có thể được đổi mới hoặc biến đổi nhờ tình yêu của Thiên Chúa.

Khi chúng ta nhìn vào những gì Thiên Chúa làm cho chúng ta, cách nhìn của chúng ta về bản thân và những người chung quanh được đổi mới. Lời Chúa cho thấy rằng chúng ta đã nhiều lần quay lưng lại với Thiên Chúa, nhưng mỗi lần như vậy Thiên Chúa lại đề nghị chúng ta quay lại trong tình yêu của Ngài. Thiên Chúa không yêu thương chỉ với những lời nói có cánh mà không có hành động kèm theo. Con Thiên Chúa trở thành con người, hiến mạng sống cho chúng ta trong cái chết và sự phục sinh, đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho nhân loại, trở nên vị tư tế chuyển cầu cho những ai đáp lại lời mời gọi của Ngài. Bài đọc thứ hai hôm nay khẳng định: “Còn Chúa Giêsu, chính vì Ngài hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Hípri 7: 24-25). Vì vậy, chúng ta hãy nhìn vào Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta qua Chúa Giêsu, và chúng ta hãy nhìn vào người lân cận của chúng ta dưới ánh sáng tình yêu này của Thiên Chúa.

Vì vậy, khi chúng ta nhìn vào người đang ở trước mặt chúng ta, ví dụ người hàng xóm của chúng ta, chúng ta có thấy đó là người mà Con Thiên Chúa đã hiến mạng sống vì người đó không? Dù cá nhân chúng ta nghĩ gì về người đó, nhưng nếu chúng ta nghĩ đến cái giá lớn lao mà Chúa Giêsu đã trả để cứu người ấy, chúng ta sẽ có khả năng xem lại sự phán xét thiếu căn cứ của mình.

Đây là mối liên kết giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu những người lân cận. Làm sao chúng ta có thể không yêu những người mà Chúa yêu, mà Chúa biết người ấy rõ hơn chúng ta biết? Nhà điêu khắc Michelangelo được cho là đã nhìn thấy bức tượng Pietà trong khối đá cẩm thạch sần sùi. Thiên Chúa còn thấy rõ ràng hơn vẻ xinh đẹp trong những người mà chúng ta coi như những tảng đá thô kệch. Chúng ta chỉ có được đôi mắt của Ngài khi chúng ta được tình yêu của Ngài biến đổi. Khi không yêu thương người lân cận, chúng ta như nói với Chúa Kitô hy sinh chết trên thập giá rằng người ấy không đáng để Chúa cứu độ.

Người ta không cần phải là một Kitô hữu mới có thể yêu thương. Tất nhiên rồi, nhưng niềm tin vào Thiên Chúa, qua con người cụ thể của Chúa Giêsu, giúp chúng ta nhận ra những con người quá bất toàn chung quanh chúng ta, không có gì đáng yêu, ngay cả kẻ thù của ta, đều do Chúa dựng nên, mà vì yêu thương Ngài đã chết cho họ, không khác gì Ngài đã chết cho chúng ta. Chính tình yêu vô cùng tận này đã thay đổi mối tương quan của chúng ta với Chúa và với những người chung quanh! Và tình yêu đó biến đổi các mối tương quan của chúng ta đến mức chúng ta muốn chia sẻ sự biến đổi này của mình nhờ Chúa Kitô: “Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Hípri 7: 26).

Phêrô Phạm Văn Trung      

Tác giả: