Nhảy đến nội dung

Dâng Hiến Cho Chúa - Đối Diện Sự thật

Dâng Hiến Cho Chúa

Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội hân hoan mừng kính lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giê-su vào Đền Thánh. Trước hết, chúng ta cùng nhau đọc lại Tông huấn “Marialis Cultus” (năm 1974, nói về việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria), trong đó, Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI đã gọi Mẹ là “Trinh nữ hiến dâng”, ngài viết: “Lễ ngày 2 tháng 2 được cải tên là Lễ Dâng Chúa Vào Đền Thánh, cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giê-su và Ma-ri-a đi song song. Đức Ki-tô thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Đức Mẹ Ma-ri-a mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu Ước, vừa là hình ảnh của Dân Chúa của Tân Ước luôn bị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy” (số 7b).

Hơn nữa, từ năm 1997, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đặt ngày lễ dâng Chúa Giê-su trong đền thờ làm ngày của Đời Sống Thánh Hiến. Chúa Giê-su được dâng hiến cho Chúa Cha nên trọn vẹn thuộc về Cha. Suốt đời, Ngài sống cho Cha, thi hành thánh ý Cha, vâng lời Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá, “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha“, đây là cuộc hiến dâng trọn vẹn nhất. Những người sống đời thánh hiến muốn noi gương Chúa Giê-su, dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa. Theo lời khuyên của Phúc âm, các tu sĩ tự nguyện sống đời trong sạch, nghèo khó và vâng phục.

        

Thế nhưng, lễ hôm nay đâu phải chỉ dành cho những ai đang sống trong bậc thánh hiến mà thôi, cho bằng mời gọi cả gia đình biết sống dâng hiến cho Chúa mọi ngày, mọi trạng huống cuộc đời, v.v…Là người bố trong gia đình, Thánh Giu-se đã quán xuyến, chăm lo cho Mẹ Ma-ri-a và Chúa Giê-su. Dù Đức Mẹ không cần phải tẩy rửa sau khi sinh theo luật Do Thái, vì Mẹ sinh Con Thiên Chúa bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, chứ không phải bởi người nam. Cũng vậy, Chúa Giê-su chính là Con Một Chúa Cha, nên chẳng cần phải làm nghi thức chuộc con trai đầu lòng theo luật định. Tuy nhiên, các ngài vẫn tuân giữ và thi hành luật Do Thái: “Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22). Sự khiêm nhường của các ngài toát ra bên ngoài bằng sự vâng phục, bằng hành động hạ mình. Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-si-ô nói: “Rất Thánh Trinh Nữ tự ý tuân giữ luật thanh tẩy vì Mẹ yêu mến và kính trọng Thiên Chúa. Mẹ hay Con Mẹ không buộc phải vâng phục, nhưng vì tình mến làm cho Mẹ tuân giữ. Mẹ tuân giữ luật để làm gương cho những người khác”.

Dừng lại tại điểm này, chúng ta thấy dù ở bậc sống nào: dâng hiến hay gia đình hoặc độc thân vì lý tưởng cao, thì cũng cần trở nên gương mẫu với lòng mến và sự khiêm cung. Ngôn sứ Ma-la-khi đã tiên báo: “Bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến” (Ml 3, 1). Thật vậy, Chúa Giê-su đã tiến vào Đền Thánh, chẳng phải ngồi uy nghi trên ngai vàng, mà khiêm nhường hạ mình thực thi luật Do Thái, và hoàn tất sứ mạng như lời của tác giả thư gửi cho tín hữu Do Thái xác tín: “Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân. Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2, 17-18).

Ngoài ra, dù bậc sống thánh hiến hay gia đình, thì mỗi người chúng ta cũng được mời gọi trung thành với đời sống cầu nguyện như nền tảng của đời sống tu đức, đời sống thiêng liêng. Chuyện dân gian Scốt-len kể lại rằng: Một thanh niên kia được nhận vào làm vườn trong gia đình giàu có, nhưng anh thôi việc sau hai tuần. Bạn thân anh biết thế, hỏi:

– Công việc quá ư cực nhọc à bạn?

– Không, công việc rất nhàn.

– Có phải lương quá ít chăng?

– Không, lương bổng khá lắm, trên cả ước mong!

– Hay thức ăn ở đó không hợp khẩu vị?

– Cũng chẳng phải. Đồ ăn nước uống rất ngon, không chê chỗ nào.

– Vậy tại sao anh thôi việc?

– Vì nhà đó ‘không có mái che’!

Đối với người Scốt-len, thành ngữ ‘nhà không có mái che’ nghĩa là gia đình không biết cầu nguyện.

Noi theo mẫu gương của Mẹ Ma-ri-a, Chúa Giê-su và Thánh Cả Giu-se, chúng ta luôn biết sẵn sàng dâng hiến, sống trọn vẹn bậc sống của mình với cả lòng mến, sự khiêm nhu, và kết hiệp mật thiết với Chúa qua đời sống cầu nguyện hằng ngày. Thánh An-phon-sô đã nói: “Con Đức Bà là con nhà thiên quốc, con Đức Mẹ là con Nước Thiên Đàng”!

Lm. Xuân Hy Vọng

 

********

 

Đối Diện Sự thật

Không ai trong chúng ta chưa từng một lần nghe câu ngạn ngữ: Sự thật mất lòng (Truth hurts)! Và đã là người Công Giáo thì ít nhiều cũng được nghe Lời Chúa: “Sự thật sẽ giải thoát các con” (x. Ga 8, 32) [The truth will set you free; Veritas liberabit vos; ἡ ἀλήθεια ἐλευθερώσει ὑμᾶς (hē alḗtheia eleutherṓsei hūmâs)].

Đành rằng là thế, nhưng khi đối diện với sự thật, không ít người sợ bị tổn thương, hoảng hốt, nên chọn cách nghe những lời không thật, ngỏ hầu chẳng gây tổn hại đến bản thân cũng như người khác! Thái độ này tương tự với dân chúng (có lẽ không phải tất cả!) trong hội đường ở Na-za-rét khi Đức Giê-su trưng dẫn hai câu chuyện thời Cựu ước, mà chắc hẳn không một người Do Thái nào không biết, đó là: tiên tri Ê-li-a được sai đến chỗ bà goá vùng Sa-rép-ta thuộc xứ Si-đon khi nạn đói lớn xảy ra trong ba năm sáu tháng; và chuyện ngôn sứ Ê-li-sa được sai đến chữa lành cho viên quan Na-a-man người Sy-ri-a (x. Lc 4, 25-27). Ngạc nhiên ở đây là: cả hai tiên tri này được sai đến với dân ngoại (nghĩa là: không phải người Do Thái). Và cũng thế, Đức Giê-su đến trần gian này, chẳng phải cho dân Is-ra-el thôi, mà còn cho cả nhân loại nữa!

Tuy nhiên, đứng trước chân lý hiển nhiên ấy, dân chúng trong hội đường dường như chỉ cảm thấy bị xúc phạm, bị tổn thương, nên chẳng hề nhận ra “sự thật dù mất lòng, hay đau lòng đi chăng nữa, nhưng giải thoát họ”. Sự thật có thể khiến chúng ta đau, nhưng đổi lại, nó giúp ta thấy rõ bản thân mình, thấy rõ những yếu đuối, những điểm tối nơi tâm hồn ta! Sự thật có lẽ làm ta tổn thương, nhưng thà đau một lúc, còn hơn không nhìn nhận sự thật mà phải đau cả đời! Nếu được vậy, chắc hẳn dân chúng trong hội đường thay vì “căm phẫn, trỗi dậy, trục xuất Đức Giê-su ra khỏi thành, rồi dẫn Ngài lên triền núi mà xô xuống vực thẳm” (x. Lc 4, 28-29), thì họ đã biết mở rộng lòng chăm chú lắng nghe lời Đức Giê-su giảng dạy, hoán cải tâm tư đón nhận sự thật và mãi bước theo chân lý cùng đích vì Ngài chính là “con đường, sự thật và sự sống” (x. Ga 14, 6).

Quả thật, để suy nghĩ và đi đến hành động mở cửa tâm hồn đón nhận sự thật này, không thể không nhờ đến đức mến như Thánh Phao-lô Tông đồ đã chỉ ra một cách sống động, cụ thể hơn bao giờ hết: “Đức mến thì kiên tâm, nhân hậu, không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 4-7). Vì vậy, để đối diện sự thật, chấp nhận sự thật, đón nhận sự thật và hành động theo sự thật, hẳn chúng ta phải có đức ái, cụ thể hơn: không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu xa, không hớn hở hồ hởi trước bất công, nhưng vui tươi lắng nghe chân lý. Ngược lại, trên thực tế, tại sao chúng ta khó lòng đối diện với sự thật, có lúc không muốn đón nhận sự thật, mặc dù chúng ta biết “sự thật sẽ giải thoát chúng ta”? Lí do thì vô vàn, nhưng có lẽ chúng ta còn vương kiêu hãnh, còn thích khoác lác, phô trương, còn vụ lợi, còn đam mê đồng loã với sự bất công, bất chính hay chăng!

Suy tưởng thật kỹ, chúng ta nhận ra ơn gọi ngôn sứ không nằm ngoài ơn gọi trở nên chứng nhân thấm đượm đức ái, ơn gọi giúp người khác đối diện-đón nhận-sống theo sự thật. Nhưng tiên vàn, ứng viên ngôn sứ phải can đảm đón nhận chân lý và trở nên nhân chứng của chân lý. Thật cao cả dường bao khi suy ngắm ơn gọi tiên tri của ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc” (Gr 1, 5). Thiên Chúa đã đoái nhìn, ghé trông và chọn thiếu niên Giê-rê-mi-a làm ‘sứ giả’, trở nên ‘môi miệng thông truyền ý định’ của Ngài. Vì thế, sứ vụ ngôn sứ phải luôn trong tâm thế sẵn sàng như hình ảnh “thắt lưng, trỗi dậy” (x. Gr 1, 17), thứ đến, can đảm loan truyền những gì Thiên Chúa răn dạy, chứ không phải những điều người ngôn sứ muốn. Dĩ nhiên, phận vụ nào cũng có rủi ro, nhưng Thiên Chúa hằng bênh đỡ, trợ giúp: “Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi” (Gr 1, 19). Hơn nữa, một sự thật chẳng mấy hào hứng mà người tiên tri phải đón nhận và kiên tâm hoàn thành sứ vụ của mình, như lời Đức Giê-su quả quyết: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình” (Lc 4, 24). Ngạn ngữ có câu: “Không đâu bằng nhà mình” (East or West, home is best), và ca dao Việt Nam cũng khẳng định điều này: “Ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn”. Thật đau lòng khi nơi “chôn nhau cắt rốn” hay “quê hương là trùm khế ngọt” lại cho các ngôn sứ những trùm khế chua, quả đắng như vậy. Tuy nhiên, ơn gọi của ngôn sứ không giới hạn tại quê hương, nơi làng xã thân quen lối xóm, mà các ngài được sai đến với hết mọi người, đến những ai khao khát đi tìm chân lý và biết đón nhận sự thật. Chính vì vậy, trước khi thực hiện sứ vụ giúp mọi người đối diện-đón nhận-hành động theo chân lý, thì vị ngôn sứ phải biết can đảm đối diện-chấp nhận-thi hành sự thật rồi.

Lạy Chúa, xin cho con biết đón nhận sự thật

Cho dù sự thật có phũ phàng ra sao

Cho dù sự thật làm tim con nát tan thế nào

Nhưng nhờ sự thật, tâm hồn con được giải thoát. Amen!

Lm. Xuân Hy Vọng

Danh mục:
Tác giả: