Nhảy đến nội dung

Thơ Phúc Âm: Tuần Ngày 20 / 4 -- Ngày 26 / 4, 2025

Tuần  Ngày 20 tháng 4, 2025  -- , Ngày 26 tháng 4, 2025

==

==

20/04/2025

 

CHÚA NHẬT PHỤC SINH

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.       Ga 20,1-9 

 

Tảng sáng mộ trống – Đường phục sinh

 

Trời còn tăm tối đêm sâu,
Ma-ri-a bước nhẹ câu nguyện thầm.
Mộ xưa gió lạnh âm thầm,
Tảng đá mở ngỏ, hương trầm chưa tan.

 

Run run lòng đẫm lệ tràn,
Bà vội chạy đến Phê-rô báo liền:
“Người ta đã lấy Chúa hiền,
Chúng tôi chẳng biết Người yên chốn nào.”

 

Nghe tin, hai vị lao vào
Con đường sỏi đá phủ bao u buồn.
Một người được Chúa thương luôn,
Chạy nhanh đến mộ – đau thương nghẹn ngào.

 

Anh cúi nhìn đá âm hao,
Băng vải còn đó – niềm đau hiện hình.
Phê-rô theo tới tận tình,
Vào sâu bên mộ – lặng thinh cõi lòng.

 

Băng vải còn đó thong dong,
Khăn che đầu Chúa xếp không lẫn vào.
Một nơi riêng biệt nhiệm mầu,
Dường như có dấu ngọt ngào Phục Sinh.

 

Kẻ môn đệ được đoái nhìn,
Vào mộ và thấy – lòng tin sáng bừng.
Chẳng cần tiếng nói vang lừng,
Ngài sống – như đã tiên xưng bao lần.

 

Thuở xưa Kinh Thánh dạy răn:
Con Người sẽ chết nhưng không tiêu tàn.
Từ trong đá lạnh mộ hoang,
Ngài sẽ sống lại huy hoàng, khải hoàn!

 

Hỡi ai bước giữa gian nan,
Giữa đêm tối mịt, khổ sầu bủa vây.
Đừng quên, đá đã lăn ngay,
Và mộ trống đó, là ngày mới sinh.

 

Chẳng còn tử khí vô minh,
Chúa ta đã sống – quang vinh muôn đời.
Tình yêu mạnh mẽ tuyệt vời,
Đã phá xiềng xích địa ngục tăm tối!

 

Từ nay cuộc sống rạng ngời,
Có Ngài phục sinh – dẫn lối tim người.
Xin cho mắt thấy, lòng cười,
Tin – như môn đệ – giữa trời bình minh.

 

==

In French:

 

Le tombeau vide – l’aube du Vivant

 

Avant l’aurore, dans la nuit,
Marie s’avance, cœur sans bruit.
Le vent soupire entre les pierres,
Le sépulcre a perdu sa pierre…

 

Elle court, bouleversée soudain,
Cherche les frères sur le chemin :
« On a pris le corps de Jésus,
Et nul ne sait où l’on l’a mis. »

 

Pierre et l’Autre, aimé du Seigneur,
Courent ensemble, cœur en ferveur.
Le plus jeune atteint le tombeau,
Mais n’entre pas, craignant le saut.

 

Il voit les linges repliés,
Le silence est comme un sablier.
Pierre arrive et entre enfin,
Voit les bandelettes sans rien…

 

Le suaire est là, bien rangé,
Non pas mêlé, mais déplacé.
L’autre disciple entre à son tour,
Et dans ses yeux jaillit l’amour.

 

Il voit, il croit — c’est là le signe,
Au fond du cœur, la foi s’aligne.
Car nul encore n’avait compris
Que, comme l’Écrit l’avait prédit,

 

Il fallait que meure le Fils,
Et qu’au matin, surgisse un cri :
La mort est morte, il est vivant,
Le Dieu d’amour, le Tout-Puissant !

 

==

In English:

 

The Empty Tomb – Dawn of the Risen One

 

While still the night held silent skies,
And morning had yet to arise,
Mary came to the tomb alone,
And saw the heavy stone was gone.

 

She ran to Peter, breath grown tight:
“They've taken Him away by night!
We do not know where He now lies—
Our Lord is gone before our eyes.”

 

Then Peter and the other ran,
The one beloved, the younger man.
He reached the tomb before the rest,
And stooped to see the cloths at rest.

 

He waited there, he did not go
Into the place of death below.
Then Simon Peter came at last,
And boldly through the entrance passed.

 

He saw the linen where it lay,
And near it, set a bit away,
The cloth once wrapped around His head,
Now gently folded, as if said:

 

"This tomb no longer holds the King,
Death could not bind the Living Spring."
Then entered he whom Jesus loved,

And saw—and believed—what lay above.

 

For still they had not understood
The Word foretold: that death withstood
Could never bind the Son of Man—
He’d rise again, just as He planned.

 

So here begins the world anew:
The grave undone, the stone askew.
O hearts that seek Him, lift your eyes—
The Lord is risen! Let hope arise.

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

 

Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.       Ga 20,1-9

1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói : “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”

3 Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. 5 Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. 6 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, 7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. 8 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. 9 Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng : theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.

 

====

21/04/2025

 

Ngày thứ hai trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.   Mt 28,8-15

 

Gặp Thầy ở xứ Ga-li-lê

 

Sáng ra trời vẫn còn sương,
Các bà rảo bước trên đường về mau.
Tuy lòng còn chút lo âu,
Mà tim đã sáng nhiệm mầu phục sinh.

 

Vừa đi, vừa thở, vừa kinh,
Thì bỗng gặp Chúa hiện hình trước sân.
Người cười ân ái vô ngần:
“Chào em, chị gái! Đừng băn khoăn gì.”

 

Các bà liền sấp mặt đi,
Ôm chân Thầy chặt, lệ thì tuôn rơi.
Người rằng: “Đừng sợ hãi đời,
Hãy mau về báo tin nơi anh mình:

 

Rằng Thầy sẽ đến Ga-li-linh (*),
Nơi xưa từng bước hành trình loan tin.
Ai yêu – sẽ gặp bóng hình,
Sẽ nghe tiếng nói ân tình, thiết tha.”

 

Tin vui lan khắp gần xa,
Gieo trong ánh nắng chan hòa đầu hôm.
Trong khi lính gác mộ tròn,
Lặng lẽ vào báo sự tồn tại kia.

 

Các thầy nhóm họp tức thì,
Đưa tiền, bày kế gian nguy, dối lòng:
“Rằng khi các anh đang nằm,
Thì môn đệ đến, vác ông đi rồi.

 

Nếu mà tin ấy tới nơi
Tổng trấn mà biết – thì thôi cứ cười!
Chúng tôi sẽ liệu mọi lời,
Lo cho các anh chẳng rơi hiểm nghèo.”

 

Thế gian là thế đó sao,
Sự Thật bị giấu trong bao lời thừa.
Nhưng ai tim sáng như trưa,
Sẽ nghe tiếng Chúa sớm trưa trong lòng.

 

Hãy mau rời chốn u buồn,
Hãy đi về phía ánh dương bừng lên.
Ga-li-lê – chốn bình yên,
Là nơi Thầy hẹn gặp bên anh em.

 

(*) “Ga-li-linh” là cách gieo vần với chữ “mình/hình/tình” trong câu lục bát, thay cho “Ga-li-lê” theo nguyên văn.

==

In French:

 

Ils verront le Seigneur en Galilée

 

L’aurore pleure encore un peu,
Les femmes quittent le tombeau,
Le cœur partagé entre feu
De joie et d’un profond sanglot.

 

Elles courent, et tout à coup
Voici le Christ, vivant, debout !
Il dit : « Bonjour, mes chères sœurs !
Pourquoi ce trouble et cette peur ? »

 

Elles s’approchent, tombent à genoux,
Et tiennent ses pieds tout debout.
Leur cœur s’incline en adoration,
Sous le regard de la Passion.

 

Jésus leur dit, d’un ton de miel :
« N’ayez pas peur, le ciel est ciel.
Allez trouver mes bien-aimés,
Qu’ils partent vers la Galilée.

 

C’est là qu’ils me verront vivant,
Non dans la mort, mais dans le vent.
Dans chaque pas, chaque labeur,
Je serai là, plein de douceur. »

 

Mais en la ville, des soldats
Disent aux chefs ce qu’ils ont vu :
Le tombeau vide, les draps en bas,
Et Jésus-Christ n’était plus.

 

Les prêtres offrent de l’argent :
« Dites qu’on a volé son corps.
S’il faut calmer les gouvernants,
On paiera pour éteindre l’effort. »

 

Alors naquit ce faux discours
Qu’encore aujourd’hui l’on détourne.
Mais la lumière de l’Amour
Jamais ne tremble, jamais ne tourne.

 

Toi qui le cherches dans la nuit,
Regarde au loin, marche sans bruit.
C’est en Galilée qu’il t’attend,
Là où le ciel touche les champs.

 

==

In English:

 

They Will See Me in Galilee

At early dawn, with hearts still sore,
The women left the garden grave.
A mix of joy and fear they bore—
Could Christ be risen, strong to save?

 

They ran to tell the news they'd found,
But suddenly upon the way,
A voice as gentle as a sound
Of morning wind began to say:

 

“Rejoice, my sisters, do not fear!”
They turned and saw Him, face aglow.
They knelt and held His feet so near,
Their tears like rivers soft and slow.

 

Then Jesus spoke with love so true:
“Go, tell my brothers—do not stay.
To Galilee, I summon you,
For they shall see Me there one day.”

 

Not in the tomb, cold, carved of stone,
But on the roads of dust and light—
In daily steps, not walked alone,
He waits for them beyond the night.

 

But meanwhile, in the city square,
The guards spoke low to priests and men.
The truth they saw, they did not share—
They sought to hide it once again.

 

With coins they bought a tale of lies:
“The body’s gone—they came by night.
While we were sleeping, none were wise—
The disciples stole Him out of sight.”

 

And so the rumor made its way,
A shadow wrapped around the dawn.
Yet light will always find its day,
And truth, though veiled, will carry on.

 

O soul who seeks the Risen One,
Don’t search among the tombs of stone.
Look where the morning meets the sun—
In Galilee, He waits alone.

 

He walks where fishermen still cast,
Where humble hearts can learn to see.
His promise echoes from the past:
“You’ll find Me in Galilee.”

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

 

Hãy về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.   Mt 28,8-15

8 Khi ấy, các người phụ nữ vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.

9 Bỗng Đức Giê-su đón gặp các bà và nói : “Chào chị em !” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. 10 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà : “Chị em đừng sợ ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.”

11 Các bà đang đi, thì có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. 12 Các thượng tế liền họp với các kỳ mục ; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, 13 và bảo : “Các anh hãy nói như thế này : Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. 14 Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự.” 15 Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay.

 

====

22/04/2025

 

Ngày thứ ba trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.       Ga 20,11-18

 

Tôi đã thấy Chúa

Mờ sương trời vẫn lặng im,
Bà Ma-ri-a khóc bên tim mộ buồn.
Cúi nhìn, lệ nhỏ từng tuôn,
Thấy hai thiên sứ áo luôn trắng ngần.

 

Một ngồi đầu, một ngồi chân,
Nơi Thầy đã nghỉ – chẳng còn xác thân.
Các ngài hỏi giọng ân cần:
“Sao bà khóc vậy, buồn ngân ngấn gì?”

 

Bà rằng: “Người đã ra đi,
Tôi không biết được ai khiêng Thầy rồi...”
Quay lưng trong tiếng nấc hơi,
Bỗng Người hiện đến, đứng nơi mộ này.

 

Nhưng bà chẳng nhận ra Thầy,
Ngỡ là người giữ vườn cây bên đồi.
Bà thưa: “Nếu chính ông thôi
Mang xác Thầy đi – xin nói tôi tường.

 

Tôi sẽ đem xác về luôn,
Xin cho tôi biết, tôi thương Người mà.”
Giê-su cất tiếng nhẹ nhàng:
“Ma-ri-a!” – gọi tên bà dịu êm.

 

Bà quay lại, mắt sáng lên,
Gọi: “Ráp-bu-ni!” – lạy Thầy thân yêu!
Tình Thầy trò vượt bao điều,
Chỉ cần tiếng gọi, tim xiêu tức thì.

 

Người rằng: “Chớ giữ lấy Thầy,
Thầy còn phải đến cùng Cha trên Trời.
Cũng là Cha của các người,
Thiên Chúa của Thầy – cũng là của con.

 

Giờ con hãy vội đi luôn,
Báo cho anh em Thầy còn mong tin.”
Ma-ri-a rảo bước liền,
Tay ôm ngực nóng như thiên lửa bừng.

 

Đến nơi, bà nói tưng bừng:
“Tôi đã thấy Chúa!” – tim rung nhịp hồng.
Bà kể từng tiếng Thầy trông,
Lời Thầy đã nói – như không thể quên.

 

Dù ai còn vẫn chưa tin,
Niềm vui bà thắp sáng lên lòng người.
Ngàn năm còn mãi vang lời:
“Tôi đã thấy Chúa giữa trời bình minh.”

 

==

In French:

 

J’ai vu le Seigneur

 

Aux bords du tombeau, dans le vent,
Marie pleure, son cœur tremblant.
Les larmes tombent sur la pierre,
Le vide répond à sa prière.

 

Deux anges blancs, assis, posés
Là où le corps avait été.
L’un au sommet, l’autre aux talons,
Écoutent battre ses frissons.

 

« Femme, pourquoi ce cri du cœur ? »
Elle répond, noyée de pleurs :
« On a pris loin de moi mon Maître,
Et je ne sais où l’ont pu mettre. »

 

Tournant le dos au lieu sacré,
Elle vit un homme figé.
Elle pensait : un jardinier,
Qui sait s’il pourrait l’éclairer ?

 

Mais quand le Maître dit son nom –
« Marie ! », doux comme un pardon –
Elle s’écria : « Rabboni ! »,
Et le silence s’éclaircit.

 

Elle voulut le retenir,
Mais Lui parla, doux souvenir :
« Ne me touche pas, car je vais
Vers le Père, qui est aussi ton vrai.

 

Va dire à mes frères, sans peur,
Que je monte vers notre Seigneur.
Mon Dieu devient leur Dieu, leur Père,
Comme il est mien, doux et lumière. »

 

Alors Marie, le cœur brûlant,
S’élança sous le ciel ardent.
Aux disciples, elle cria foi :
« J’ai vu le Seigneur, Il m’a dit : “Crois !” »

 

Et dans ses yeux, brillait l’aurore,
D’un monde neuf, d’un Dieu qui sort
Du tombeau froid, de la douleur,
Pour embrasser nos vies en fleurs.

 

==

In English:

 

I Have Seen the Lord       

 

Outside the tomb, in quiet grief,
Mary weeps, her heart in disbelief.
Her tears fall softly, touch the stone,
The emptiness echoes her moan.

 

Two angels dressed in robes of light,
Sit where His body had been placed.
One at the head, one at His feet,
They watch her sorrow, calm and sweet.

 

“Woman, why do you weep and mourn?”
They ask, with voices soft, forlorn.
She answers, lost in grief’s embrace,
“They’ve taken my Lord from this place.”

 

Turning, she sees a figure near,
Thinking it's the gardener there.
She speaks, “Sir, if you’ve moved Him so,
Tell me where His body may go.”

 

Then Jesus speaks her name aloud—
“Mary!”—and her heart is found.
She turns and cries with joy and light,
“Rabboni!”—her soul takes flight.

 

She reaches out, but He speaks clear,
“Do not hold on, for I must steer
To My Father, and to yours too,
To God our Father, pure and true.”

 

“Go now, tell My brothers, tell,
That I ascend to heaven’s well.
My God, their God, My Father’s care,
Is now with them, My love to share.”

 

With burning heart, she ran that day,
To find the disciples on her way.
And with a voice both bold and bright,
“I’ve seen the Lord!”—her soul alight.

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

Tôi đã thấy Chúa, và Người đã nói với tôi.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.       Ga 20,11-18

11 Khi ấy, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 13 Thiên thần hỏi bà : “Này bà, sao bà khóc ?” Bà thưa : “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !” 14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. 15 Đức Giê-su nói với bà : “Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói : “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” 16 Đức Giê-su gọi bà : “Ma-ri-a !” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri : “Ráp-bu-ni !” (nghĩa là ‘Lạy Thầy’). 17 Đức Giê-su bảo : “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’.” 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ : “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.

 

====

23/04/2025

 

Ngày thứ tư trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.  Lc 24, 13-35

 

Em-mau chiều đổ bóng dài

Hai người lữ thứ miệt mài đường xa.
Giê-ru-sa-lem chuyện qua,
Tâm tư nặng trĩu, xót xa cõi lòng.

 

Bỗng Người lặng lẽ thong dong,
Bước chung nhịp bước, hòa cùng chuyện xưa.
"Việc gì mà vẻ ưu tư?"
Người hỏi, ánh mắt như mưa dịu dàng.

 

"Cớ sao chẳng biết ngỡ ngàng,
Giê-su Na-da-rét, ánh vàng hy sinh.
Tiên tri quyền phép quang minh,
Bị trao cho kẻ vô tình đóng đinh.

 

Chúng tôi hy vọng chân tình,
Người là Đấng Cứu muôn dân Ít-ra-en.
Mà nay ngày đã thứ ba,
Chỉ còn lời kể mờ nhòa sớm hôm."

 

Người cười: "Ôi những tâm hồn,
Chậm tin sấm ngôn, lời Kinh chẳng tường!
Đấng Ki-tô phải đoạn trường,
Mới vào vinh hiển, ánh dương ngập tràn."

 

Từ Mô-sê đến các hàng
Ngôn sứ, Người giảng giải từng lời sâu xa.
Chiều buông, ánh sáng nhạt nhòa,
Hai người nài nỉ: "Xin qua đêm này."

 

Bàn ăn Người bẻ bánh ngay,
Lời chúc tụng cất giữa ngày lặng im.
Mắt kia bỗng chốc lim dim
Chợt sáng lạ lùng — chính Tim Hằng Sống!

 

Người biến mất giữa mênh mông,
Mà tim vẫn cháy rực hồng tình yêu.
Chỗi dậy, họ vội về chiều,
Gặp người bạn cũ, sớm chiều sẻ chia:

 

"Người sống lại! Đã hiện ra,
Với Si-mon đó — thật là hồng ân!"
Và hai ông kể ân cần
Chuyện đường Em-mau — tình thân nhiệm mầu.

==

In French:


 

Vers Emmaüs, le soir descend,
Deux disciples vont en parlant.
Le cœur chargé de lourds soupirs,
De tout ce qu’ils ont vu et lu.

 

Un homme vient sur leur chemin,
Discret, marchant à petit pas.
« Pourquoi ces visages inquiets,
Et que racontez-vous ainsi ? »

 

« Es-tu le seul qui ne sait rien
Des jours passés à Jérusalem ?
Jésus, prophète et plein d’ardeur,
Fut livré pour mourir en croix.

 

Nous espérions qu’il délivrerait
Israël de l’ombre et du mal…
Mais déjà trois jours ont passé,
Et nul ne l’a vu désormais.

 

Des femmes ont dit, tout en pleurs,
Qu’un ange leur parla d’espoir.
Quelques amis sont allés voir,
Mais n’ont trouvé que le tombeau. »

 

L’homme leur dit : « Que vous êtes
Lents à croire aux prophéties !
Ne fallait-il pas qu’il souffre
Avant d’entrer dans la lumière ? »

 

Puis, commençant par Moïse,
Il leur explique tout l’Écrit.
Le soir tombait sur le sentier,
Les deux amis l’ont supplié :

 

« Reste avec nous car vient la nuit,
Et le chemin est solitaire. »
Il entre et prend place à leur table,
Prend le pain, le bénit, le rompt.

 

Et leurs yeux s’ouvrent d’un seul coup —
C’est le Seigneur, vivant, debout !
Mais déjà, Il disparaît
Laissant le feu brûler en eux.

 

« N’était-ce pas, sur le chemin,
Son Verbe qui enflammait nos cœurs ? »
Ils repartent vers leurs amis
Pour annoncer : « Il est vivant ! »

==

In English:


 

To Emmaus they walked at dusk,
Two hearts weighed down with loss and trust.
They spoke of all that had gone wrong,
Of hopes once bright, now gone so long.

 

A stranger joined them on the way,
And gently asked: "What grieves you so?"
"Are you the only one," they said,
"Who hasn't heard what’s come and fled?

 

Jesus of Naz'reth, strong in word,
A prophet mighty, deeply heard—
Our leaders handed Him to die,
We watched Him lifted, crucified.

 

We hoped He was the promised one,
To set us free, to bring the dawn.
But now it's been the third full day,
And still His body’s gone away.

 

Some women spoke of angels bright,
Who said He lives — no end, no night.
Some friends ran to the tomb to see,
But found it bare, mysteriously.”

 

He answered them: "O foolish hearts,
So slow to trust what truth imparts!
Did not the Christ, by pain and loss,
Enter His glory through the cross?"

 

And starting from the law and word,
He showed how all the prophets heard.
As twilight wrapped the earth in gold,
They begged Him, “Stay, don’t walk the road.”

 

He sat with them and blessed the bread,
Then broke and gave — their eyes were led!
And lo! they saw — it was the Lord!
Then vanished He, without a word.

 

"Did not our hearts within us burn,
As Scripture’s flame began to turn?"
At once they rose, returned in haste,
To share the joy, the risen grace:

 

"The Lord is truly raised again!
He came, He walked with us as friend.
We knew Him when He broke the bread —
He lives! He lives! No more the dead."

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

 

“Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh”.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.  Lc 24, 13-35

 

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca.

Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giê-su tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” Một người tên là Cờ-lê-ô-pát trả lời: “Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay”. Chúa hỏi: “Việc gì thế?” Các ông thưa: “Sự việc liên can đến ông Giê-su quê thành Na-da-rét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Ít-ra-en. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp”.

Bấy giờ Người bảo họ: “Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Ki-tô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?” Ðoạn Người bắt đầu từ Mô-sê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn”. Người liền vào với các ông.

Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giê-ru-sa-lem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Các vị đó bảo hai ông: “Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Si-mon”. Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.

 

====

24/04/2025

 

Ngày thứ năm trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.  Lc 24,35-48

 

Trên đường Emmau

 

Chiều rơi bóng đổ nghiêng vai,
Hai người môn đệ u hoài bước đi.
Làng Emmau cách ngại chi,
Dẫu chân mỏi mệt, lòng thì rối ren.

 

Tin buồn dội xuống chênh vênh,
Người Thầy yêu dấu… đã đành lìa xa.
Hy vọng ngày trước nhạt nhòa,
Thập giá treo nặng lệ nhòa hoàng hôn.

 

Dọc đường bàn chuyện sắt son,
Mà sao tim vẫn lạnh hồn chẳng yên.
Bỗng đâu Người đến dịu hiền,
Cùng đi một đoạn như quen tự nào.

 

Người hỏi: “Chuyện chi mà sầu?”
Cờ-lê-ô-pát cúi đầu thở than:
“Ngài chẳng hay việc xảy ra?
Giê-su tiên tri, diệu hòa mọi nơi.

 

Ngài từng quyền phép tuyệt vời,
Mà nay bị nộp, chết rồi, đau thương!
Bao người phụ nữ ngoài mường,
Về bảo: mồ trống, thiên đường báo tin!

 

Chúng tôi nghe cũng lặng thinh,
Người đâu chẳng thấy, mộng hình tan mau...”
Người liền giải nghĩa nhiệm mầu,
Kinh Thánh tỏ rạng sắc màu hy sinh:

 

“Đấng Ki-tô chẳng phải vì,
Đau thương mà bước vào thì vinh quang?”
Từ Mô-sê đến tiên tri,
Lời xưa bừng sáng trên đường chiều hôm.

 

Về gần làng nhỏ mỏi mòn,
Người như muốn tiếp lối còn xa xa.
Hai ông khẩn thiết nài hòa:
“Mời Người ở lại kẻo tà bóng rơi.”

 

Người vào cùng ngồi nghỉ ngơi,
Bẻ bánh, chúc phúc – sáng ngời đôi tâm!
Mắt xưa mờ mịt âm thầm,
Nay bừng mở rộng, nhận rằng: chính Ngôi!

 

Kìa Thầy – Giê-su – sống rồi!
Mà Người biến mất giữa lời thở kinh.
“Hẳn khi Người giảng, lòng mình,
Chẳng như lửa cháy rung rinh cõi hồn?”

 

Tức thì hai kẻ cô đơn,
Trở lui Giê-ru – đêm hôm chẳng màng.
Gặp mười một bạn hân hoan,
Đồng thanh loan báo: “Ngài toàn thắng rồi!”

 

Hai ông thuật lại đầu đuôi,
Cuộc đi năm dặm đầy vơi tâm tình.
Chính khi bẻ bánh ân tình,
Chúng tôi đã thấy bóng hình Thầy xưa...

 

==

In French:

 

Sur le chemin d’Emmaüs

 

Sur le chemin, deux âmes errantes,
Le cœur en peine, l’espoir vacillant,
Ils marchent, lourds d’un chagrin immense,
Contant les nouvelles d’un destin déchirant.

 

« Dis-moi, ami, de quel funeste récit
Ton cœur semble lié à la douleur? »
« Notre Maître, jadis porteur de vie,
Fut trahi et cloué, victime d’un sort sans honneur. »

 

Au détour d’un sentier, dans le crépuscule naissant,
Un compagnon inconnu se joint à leur route,
D’un regard doux, d’un sourire apaisant,
Il efface, peu à peu, l’ombre qui les envoûte.

 

Sans un mot, le silence s’emplit de mystère,
Lorsqu’autour d’un pain, simple partage,
Se révèle en eux une lumière sincère,
L’éclat d’un miracle, d’un amour en ancrage.

 

À cet instant suspendu, le regard se déploie :
« C’est Lui! Le Maître ressuscité de nos douleurs! »
L’instant du partage, de l’amitié, se noie
Dans la révélation d’un éternel Sauveur.

 

Et sur le chemin, d’Emmaüs transformé,
Le cœur des disciples en liesse se révèle,
Portant en lui l’écho d’une foi renouvelée,
D’un pain partagé, symbole d’une vie nouvelle.

 

==

In English:

 

On the Road to Emmaus

 

On a dusty road two souls in deep despair,
Their hearts weighed down by loss and sorrow bare;
They wandered, speaking low of grief and pain,
Recounting news that darkened hope’s domain.

 

“Tell me, friend, what tale so sorrow-laden
Has brought such anguish to your weary heart?”
“Our Teacher—once our guide, our light unshaken—
Has been betrayed and crucified apart.”

 

In the golden glow of an early evening,
A stranger joined them, gentle and unknown,
His silent presence slowly began weaving
A thread of truth, where seeds of hope were sown.

 

Without a word, around a humble meal they met,
A simple loaf, whose breaking stirred the soul;
In that shared instant, as light through darkness set,
Their eyes unveiled the truth that made them whole.

 

“Is it not You, the risen Lord, we see?
The Master reawakened, shining bright?”
In that pure moment of communion free,
They found salvation in the share of light.

 

Thus, upon that road from Emmaus reborn,
Their hearts aflame with faith and love anew;
A meal, a word, transformed the dark forlorn—
A sign of grace, where hope and truth break through.

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

 

Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 24,35-48

35 Khi ấy, hai môn đệ từ Em-mau trở về, thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.

36 Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo : “Bình an cho anh em !” 37 Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. 38 Nhưng Người nói : “Sao lại hoảng hốt ? Sao lòng anh em còn ngờ vực ? 39 Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?” 40 Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. 41 Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi : “Ở đây anh em có gì ăn không ?” 42 Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. 43 Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.

44 Rồi Người bảo : “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.” 45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh 46 và Người nói : “Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại ; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này.”

 

====

25/04/2025

 

Ngày thứ sáu trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.       Ga 21,1-14

 

Bài thơ lục bát về đoạn Tin Mừng Ga 21,1-14

 

Đức Giê-su đứng bờ xa,
Nhìn đoàn môn đệ, lòng hòa niềm thương.
Phê-rô chèo thuyền lên đường,
Đêm dài vất vả, chẳng vương bóng gì.

 

Người hỏi: "Các chú có chi?"
Các ông đáp lại: "Chẳng gì trong tay."
Giê-su bảo: "Thả lưới ngay,
Bên phải mạn thuyền, cá đầy lưới thôi."

 

Lưới đầy chẳng kéo lên rồi,
Môn đệ mừng rỡ, gọi người: "Chúa đây!"
Phê-rô khoác áo nhảy ngay,
Bơi vào bờ biển, lòng đầy hân hoan.

 

Trên bờ than hồng sẵn sàng,
Cá nướng thơm phức, bánh vàng trao tay.
Người bảo: "Đem cá mới đây,
Bữa ăn thân mật tràn đầy yêu thương."

 

Một trăm năm chục cá vương,
Lưới không rách nổi, tình thương nhiệm mầu.
Giê-su trao bánh nhiệm sâu,
Cùng trao cá nướng, nhiệm mầu phục sinh.

 

Ba lần tỏ hiện thân mình,
Niềm tin củng cố hành trình môn sinh.

 

==

In French:

 

Poème en l'honneur de Jean 21,1-14

Jésus se tenait sur le rivage,
Regardant ses disciples au large.
Pierre dit : « Je vais pêcher ce soir. »
Tous répondirent : « Nous viendrons, sans retard. »

 

Mais la nuit passa, vide et longue,
Sans un poisson dans leurs filets qui plongent.
À l’aube claire, une voix s’élève :
« Mes amis, rien à manger en réserve ? »

 

Ils répondirent : « Non, rien du tout. »
Il dit : « Jetez à droite, jusqu’au bout. »
Ils obéirent, et voilà soudain,
Le filet déborde de poissons sans fin.

 

Jean murmura : « C’est le Seigneur ! »
Pierre, ému, plongea dans l’eau en ardeur.
Les autres ramèrent vers la rive,
Le filet plein de vie, d’espoir qui arrive.

 

Sur le rivage, un feu crépitait,
Du pain et des poissons y étaient prêts.
Jésus leur dit : « Apportez encore,
Les fruits de vos peines au large dehors. »

 

Cent cinquante-trois poissons comptèrent,
Et pourtant le filet ne se déchira guère.
Jésus leur dit : « Venez et mangez ! »
Personne n’osa demander qui Il était.

 

C’était la troisième fois qu’Il venait,
Ressuscité d’entre les morts souverains.
Dans le pain partagé et les poissons donnés,
Son amour infini s’est encore révélé.

 

==

In English:

 

Poem Inspired by John 21:1-14

 

By the shore, the Lord did stand,
Watching disciples, close at hand.
Peter spoke: "I’ll fish tonight,"
The others joined, hearts alight.

 

But the night was long and bare,
No catch to show, no prize to share.
At dawn, a voice rang clear and true:
"Friends, have you caught a thing to chew?"

 

They answered back: "No, not a bite."
He said: "Cast your net to the right."
Obeying Him, they cast once more,
And the nets were full as never before.

 

John exclaimed: "It is the Lord!"
Peter jumped in, overboard.
The others rowed with nets in tow,
Their hearts alive with joy aglow.

 

On the shore, a fire burned bright,
Bread and fish prepared in sight.
"Bring your catch," the Savior said,
To share the feast of life ahead.

 

One hundred fifty-three fish they found,
Yet the net stayed whole and sound.
"Come and eat," He gently spoke,
No one dared ask; their hearts awoke.

 

It was the third time He appeared,
Risen from death, their doubts were cleared.
In bread He broke and fish He gave,
His boundless love their souls did save.

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

 

Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho môn đệ ; rồi cá, Người cũng làm như vậy.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.       Ga 21,1-14

 

1 Khi ấy, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. 2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông : “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp : “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

 

4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông : “Này các chú, không có gì ăn ư ?” Các ông trả lời : “Thưa không.” 6 Người bảo các ông : “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô : “Chúa đó !” Vừa nghe nói “Chúa đó !”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

 

9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10 Đức Giê-su bảo các ông : “Đem ít cá mới bắt được tới đây !” 11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12 Đức Giê-su nói : “Anh em đến mà ăn !” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai ?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông ; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

====

26/04/2025

 

Ngày thứ bảy trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

PHS Suy niệm  Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.       Mc 16,9-15

 

Loan Báo Tin Mừng

 

Anh em hãy bước ra đi,
Tứ phương thiên hạ kiên trì loan tin.
Tin Mừng rạng rỡ niềm tin,
Cho muôn thụ tạo an bình hằng mong.

 

Giê-su sống lại hiển vinh,
Mạc-khải chân lý lung linh sáng ngời.
Trước tiên hiện đến rạng ngời,
Mác-đa-la thấy rạng trời hồi sinh.

 

Bà đi báo kẻ hữu tình,
Nhưng lòng hoài nghi phủ vinh quang Người.
Hai môn đệ thấy khác rồi,
Về quê gặp Chúa giữa trời yêu thương.

 

Trở về báo lại tỏ tường,
Mười Một vẫn cứ đoạn trường ngờ nghi.
Bữa ăn Người đến tức thì,
Trách rằng cứng dạ còn gì niềm tin?

 

Rồi Người trao phó sứ tin:
Hãy đi khắp chốn, dựng xây phúc lành.
Nói cho nhân thế hiểu rằng,
Tình yêu cứu độ mở bằng hy sinh.

 

Anh em theo Chúa hết mình,
Giảng rao chân lý lung linh sáng ngời.
Hôm nay ngọn lửa rạng ngời,
Còn vang mãi mãi muôn đời không phai.

 

==

In French:

 

Annoncez l'Évangile

 

Allez, mes frères, partez, marchez,
Aux quatre horizons, l’Évangile prêchez.
Pour chaque créature, en tout lieu,
Portez la lumière, l’amour de Dieu.

 

Jésus vainqueur de la mort,
Se lève en gloire dès l’aurore.
À Madeleine, Il apparaît,
Délivrée des ombres du passé.

 

Elle court dire aux bien-aimés,
Mais leurs cœurs peinent à accepter.
Deux disciples l’ont vu aussi,
Mais leur parole est sans crédit.

 

Enfin, aux Onze réunis,
Le Christ réprouve leur esprit,
Leur dureté, leur doute amer,
Car Il est là, vainqueur, Lumière.

 

"Partez au monde, semez la foi,
Annoncez l’amour, suivez ma voie.
Que toute chair, tout être ici-bas,
Connaisse la paix, vive dans la joie."

 

Par Sa parole et par Son feu,
Brûle en nos âmes un vœu précieux :
Porter au monde la vérité,
L’amour de Dieu pour l’éternité.

==

In English:

 

Proclaim the Gospel

 

Go forth, my brothers, walk and see,
Proclaim the Gospel faithfully.
To every creature, far and wide,
Bring forth God’s love, our hope, our guide.

 

At dawn’s first light, the Lord arose,
His victory over death He shows.
To Mary first, He did appear,
She saw His face, her heart sincere.

 

She ran to tell the mourning friends,
Yet doubt within their hearts extends.
Two saw Him walking on the way,


But still, the others turned away.

At last, He stood among the Eleven,
Rebuked their doubts, their hearts unshaken.
“For you have heard, yet not believed,
But now, go forth! My word receive.

 

Go to the world, let truth be known,
Spread love and peace, make faith be sown.
Let every soul in every land,
Come know My grace, My guiding hand.”

 

Through fire and light, His word remains,
A flame eternal in our veins.
To all the earth, we now proclaim,
God’s endless love, in Jesus’ name.

 

==

Tin Mừng ngày hôm nay

Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.       Mc 16,9-15

9 Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su hiện ra trước tiên với bà Ma-ri-a Mác-đa-la, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. 10 Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. 11 Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin.

12 Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. 13 Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.

14 Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. 15 Người nói với các ông : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.

Danh mục:
Tác giả: