Nhảy đến nội dung

Nhận Ra Chúa Phục Sinh Trong Đời Thường - Con Hãy Theo Thầy

Nhận Ra Chúa Phục Sinh Trong Đời Thường

Vào buổi sáng Chúa Nhật Phục Sinh nọ, bầu trời trong xanh với làn gió mát khẽ lay cành lá xanh mướt trên cành cây kia, người mẹ bảo đứa con trai: “Hôm nay mẹ muốn con chở mẹ, rồi cùng đi tham dự Thánh lễ”. Vì đã lâu, anh ta chẳng buồn bước chân đến nhà thờ, còn chuyện tham dự Thánh lễ chỉ rất ư là xa xỉ. Trong lúc đang buồn ngủ, còn mệt mỏi với dư âm đêm qua anh đi chơi về rất khuya. Vả lại, anh ta cũng chẳng tha thiết gì với đạo nghĩa nữa. Bực dọc vì bị mất giấc ngủ, anh ta trả lời với người mẹ rằng: “Mẹ đi theo Chúa của mẹ đi. Và nếu mẹ thấy Chúa thì hãy chỉ cho con, chứ con có thấy Chúa đâu”. Người mẹ nghe thế, nén lòng lại rồi lặng lẽ đi lễ.

Thật vậy, khá nhiều người Công giáo đang sống chỉ với đôi mắt thể xác, mà quên con mắt đức tin. Thánh Phao-lô nói trong thư gửi giáo đoàn Cô-rin-tô: “Chúng ta tiến bước nhờ đức tin chứ không phải nhờ đôi mắt phàm trần” (x. 2 Cr 5,7). Giả sử chỉ dừng lại ở việc thấy hay không thấy với con mắt thể lý, thì chúng ta được lãnh nhận đức tin để ‘làm kiểng’ à, để thêm vào bộ sưu tập ‘trang sức’ hay ‘của cải’ mình ư? Nếu chỉ dựa vào đôi mắt phàm trần thôi, thì Tông đồ Gio-an, người môn đệ được Chúa yêu mến, không thể nào nhận ra Chúa Ki-tô Phục sinh lúc trời còn tờ mờ sáng. Nhưng chính nhờ đức tin mãnh liệt, nhờ đôi mắt sáng suốt của đức tin, mà Gio-an đã nhận ra Chúa Phục sinh và ‘loan báo’ cho Tông đồ cả Phê-rô nữa: “Chính Chúa đó!” (Ga 21,7). Tại sao chỉ mình Gio-an nhận ra, còn các Tông đồ khác không nhận ra? Có lẽ cũng dễ hiểu vì các ông đã vất vả mệt nhọc cả đêm, mà chẳng được mẻ cá nào. Cực chẳng đã, tưởng chừng thu dọn lưới chài rồi về nhà đánh một giấc cho khoẻ, sau đó có ra sao thì tính tiếp; nhưng oái ăm thay Chúa Giê-su hiện đến trên bờ biển lại vào lúc rạng đông tờ mờ sáng, thì mắt mũi các ông tèm lem, lờ mờ vì buồn ngủ, nên không nhận ra Chúa Phục Sinh chăng! (x. Ga 21,3-4).

Với đôi mắt đức tin bén rễ sâu trong đời sống đạo, đời sống cầu nguyện, gắn kết thân tình với Chúa, thì chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục Sinh nơi mọi trạng huống cuộc sống, trong vô vàn biến cố cuộc đời. Hơn thế, vì lòng mến dạt dào mà Chúa dành cho Tông đồ Gio-an, và cũng như tình mến mà ông dành cho Chúa Giê-su đậm sâu, nên ông dễ nhận ra Ngài. Và Tông đồ cả Phê-rô sau khi lầm lỗi, được Chúa Phục Sinh trao ban cơ hội sửa sai bằng việc tuyên tín: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15. 16); “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 17), thì cũng cho chúng ta thấy lòng mến quan trọng dường nào không chỉ giúp chúng ta cảm nghiệm tình Chúa, mà còn trở nên động lực khiến chúng ta nhận ra Ngài trong đời thường. Ngoài ra, Chúa Giê-su hỏi Phê-rô 3 lần chẳng phải Ngài nghi ngờ hay không tin ông, nhưng một mặt cho ông chuộc lỗi, mặt khác cho ông xác tín lòng mến, tình yêu mà ông dành cho Chúa Phục Sinh sau biết bao biến cố đã xảy ra với ông. Với lời tuyên tín ấy, ông được trao phó sứ mệnh “chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Thầy” (x. Ga 21, 15-17), cũng như trở nên chứng tá kiên vững dù không như ý muốn, hay phải hy sinh tính mạng (x. Ga 21, 18-19). Lời chứng hùng hồn này được vang dội khắp nơi sau khi Chúa Giê-su về trời, “Phê-rô và các tông đồ trả lời (trước Thượng Hội đồng) rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”” (Cv 5, 29), và mạnh mẽ hơn nữa, “Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Ngài!” (Cv 5, 32).

Trải qua bao thời đại, dẫu thịnh vượng hay điêu tàn, phát triển hay suy thoái, vinh quang hay lụn bại, các Tông đồ, các Thánh nam nữ và hết thảy tín hữu đó đây đều sống đức tin, đức cậy và đức mến. Nhờ đó, các ngài luôn cảm nghiệm và nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục sinh trong đời, giữa bao thăng trầm cuộc sống cũng như biến cố lớn nhỏ. Chẳng hạn Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-zi-ô từng cảm nhận: “Tình yêu của Thiên Chúa cao cả đến nỗi Ngài đã ban Con Một của Ngài để cứu chúng ta, và chúng ta chỉ có thể đáp lại bằng cách yêu mến Ngài hết lòng, dù điều đó không bao giờ đủ để sánh với tình yêu của Ngài” (nguồn: Treatise on the Love of God [Luận về Tình yêu Thiên Chúa]); hoặc Thánh I-nha-xi-ô Lô-yo-la cảm nghiệm: “Không có đức ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây, rồi tự mình đốn ngã cây vậy” (nguồn: Monumenta Ignatiana Spiritual Exercises [Linh Thao]).

Sau cùng, trong lớp học cấp hai kia, cô giáo dạy sinh vật hỏi một học sinh nữ người Công giáo: “Em tin có Thiên Chúa không?” Cô bé niềm nở trả lời: “Thưa cô, có ạ! Em luôn tin có Thiên Chúa”. – “Nhưng sao em biết có Thiên Chúa mà tin?” Cô bé không ngần ngại, vô tư trả lời: “Hãy nhìn bầu trời, cảnh vật núi rừng, biển khơi, thì chúng ta có thể nhận ra Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên những thứ đó. Qua đó, em tin có Thiên Chúa”. – “Vậy, em chỉ cho cô biết Thiên Chúa của em ở đâu đi?” – Cô bé vui vẻ đáp: “Dạ, thưa cô, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, không có chỗ nào mà không có Thiên Chúa, và Chúa ở trong tâm hồn của em nữa”.

Thật vậy, Thiên Chúa vượt thời gian, không gian, địa điểm, nơi chốn, nhưng lại rất gần, cư ngự nơi tâm hồn chúng ta như chính Chúa Ki-tô Phục sinh hằng hiện diện trong đời sống hằng ngày ta vậy. Chỉ với đôi mắt đức tin, với niềm cậy trông vững vàng và với lòng mến nồng nàn, chúng ta sẽ nhận ra Ngài và cùng với Thánh Félix de Nole dám khẳng định: “Với Chúa, thì màng nhện cũng trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi”. Amen!

Lm. Xuân Hy Vọng

 

*************

 

“Con Hãy Theo Thầy”

Chắc hẳn trong chúng ta, ai cũng đã từng trải qua đau khổ. Dù lớn hay bé, dù ảnh hưởng nhiều hay ít, thì nỗi đau ấy vẫn còn để lại vết hằn trong tâm khảm. Có thể nói, nỗi đau bị lừa dối, bị chối bỏ, bị ngoảnh mặt làm ngơ,…tác động và chi phối khá nhiều đến tính cách, cuộc sống của chúng ta. Mà giả sử nếu gặp lại người gây tổn thương cho ta, thì thông thường, trước sau gì chúng ta cũng sẽ nhắc lại nỗi đau ấy, tệ hơn trả đũa họ!

Tuy nhiên, bối cảnh gặp lại giữa Chúa Giê-su và Phê-rô (người đã chối Chúa ba lần) trên bờ hồ Ti-bê-ri-a sau khi Ngài sống lại diễn ra hoàn toàn khác biệt với cách con người chúng ta thường xử sự. Thay vì Chúa Giê-su nhắc lại lỗi lầm của Phê-rô, thì Ngài trao ban cơ hội hoán cải, cơ hội xác nhận cam kết, tuyên tín và cơ hội lãnh nhận sứ vụ trọng đại.

Nhưng trước đó, Chúa Giê-su Phục Sinh hết sức tinh tế, thấu hiểu tâm trạng bất an, lo âu, bồn chồn, cùng với sự mệt mỏi của Phê-rô và các môn đệ vì “cả đêm cực nhọc mà chẳng đánh bắt được con cá nào” (x. Ga 21, 3). Vả lại Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết, nên thân xác Ngài không còn phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa; Ngài hằng thấu tỏ, luôn đồng hành, nâng đỡ và ra tay hỗ trợ các môn đệ, những người bạn thân tín của Ngài. Ngài xoa dịu mọi nỗi nhọc nhằn về mặt thể lý cũng như tâm linh, “hãy thả lưới bên phải thuyền thì sẽ được” (Ga 21, 6). Hơn thế, khi chuẩn bị xong bữa điểm tâm, Ngài mời các môn đệ dùng, nuôi dưỡng chăm sóc, quan tâm họ như Ngài đã từng dưỡng nuôi, chỉ dạy, hướng dẫn họ bằng Lời hằng sống và chính Mình Máu Ngài, đặc biệt trong bữa tiệc ly, “các con hãy lại ăn” (Ga 21, 12) và “Chúa Giê-su lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Ngài cũng cho cá như thế” (Ga 21, 13).

Với cử chỉ thân thương, quen thuộc ấy, các môn đệ đã nhận ra chính là Thầy Giê-su, nên “không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi “Ngài là ai?”, vì mọi người đã biết là Chúa” (Ga 21, 12). Thật vậy, Chúa Giê-su đã trỗi dậy từ cõi chết như Ngài tiên báo cho các môn đệ và những người phụ nữ thánh thiện hằng dõi theo bước chân Ngài. Chẳng những thế, Ngài phục sinh, nhưng không biến thành một con người khác biệt, Ngài vẫn gần gũi yêu thương, vẫn nhẹ nhàng dõi trông che chở, đồng hành với các môn đệ trong cuộc sống bình dị hằng ngày. Đối với chúng ta cũng vậy, Chúa Giê-su Phục sinh hằng bên ta, chỉ dẫn, chăm sóc, nuôi dưỡng ta mỗi thời khắc, mỗi giây phút trong đời; dù lắm lúc chúng ta không nhận ra Ngài vì sự yếu đuối của bản thân, dù bao phen chúng ta khép kín, đóng chặt cửa lòng nên chưa nhìn thấy Ngài hiện diện nơi mỗi ngày sống. Ước gì, chúng ta được cảm nghiệm hơn tình thân của Chúa Phục sinh trong mọi khoảnh khắc đời mình!

Quay trở lại với cuộc hội thoại giữa Chúa Giê-su và Phê-rô sau khi dùng bữa sáng xong. Với sự tinh tế, nhạy cảm, thấu hiểu và đầy bao dung tha thứ của Chúa Giê-su, chúng ta thấy Phê-rô vẫn chân thành như con người của ông, vẫn thẳng thắn bộc trực, nhưng lần này đầy xác tín cậy trông hơn khi được hỏi cùng một câu: “Si-mon, con ông Gio-an, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” (x. Ga 21, 15. 16. 17). Không chút do dự, đắn đo, và với tâm hồn đơn sơ, đặt trọn niềm tin tưởng nơi Thầy mình, Phê-rô đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15. 16. 17). Chẳng vội vã, vội vàng như trước, kỳ này với lòng khiêm nhường sâu thẳm, câu trả lời của ông ẩn chứa niềm tín thác, cậy trông vào Chúa Giê-su: “…Thầy biết con yêu mến Thầy mà!” Nghĩa là Thầy biết con yếu đuối, vấp ngã, tội lỗi bao lần rồi, và Thầy cũng thấu tỏ tâm hồn, tấm lòng yêu mến của con dành trọn cho Thầy ra sao! Tuy nhiên, được hỏi đến lần thứ ba, Phê-rô có chút buồn rầu, có lẽ ông nghĩ ‘Thầy biết rõ con rồi mà sao vẫn hỏi đi hỏi lại một câu vậy!’ Phải chăng Phê-rô không mảy may hồi tưởng ba lần đã chối Chúa ư? Phải chăng chẳng nhớ đến ba lần nói không biết đến ông Giê-su trước mặt một người đầy tớ nữ sao? Lỗi lầm của Phê-rô là thế, nhưng Chúa Ki-tô Phục sinh chẳng đá xoáy vào sự vấp ngã ấy bằng cách trách móc, than phiền; trái lại, Ngài trao cơ hội ‘sửa sai’ cho ông, giúp ông xác tín, yêu mến Chúa, và đặt để sứ vụ cao trọng cho ông: “Hãy chăn dắt các chiên con..chiên mẹ của Thầy” (x. Ga 21, 15. 16. 17).

Sau cùng, Chúa Ki-tô Phục sinh gọi mời Phê-rô “con hãy theo Thầy” (Ga 21, 19), cụ thể bước theo con đường hy sinh, con đường khổ nạn, con đường bỏ mình, con đường vâng phục Thiên Chúa Cha, con đường ‘biến mình ra không’, con đường Thập giá, con đường yêu thương, con đường thứ tha…và con đường trở nên chứng nhân. Thật vậy, sách Công vụ Tông đồ đã thuật lại ‘nẻo đường làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục sinh’ của Thánh Phê-rô và các Tông đồ một cách sống động dường nào! Dù bị ngăn cấm, nhưng các Ngài đã dõng dạc đáp lại: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta” (Cv 5, 29). Dẫu bị ghét bỏ, đánh đập, bắt bớ, nhưng gương chứng nhân của Thánh Phê-rô và các Tông đồ để lại cho chúng ta là hậu duệ lẽ sống dám trở nên chứng tá cho Chúa Ki-tô Phục sinh trong đời thường nhật, “Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Ngài!…Ra khỏi công nghị, lòng các ngài hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Đức Giê-su” (Cv 5, 32. 41). Các ngài tự hào được sống chứng tá cho Thầy Chí Thánh. Còn chúng ta thì sao?

Cầu nguyện:

Chúa nào nhớ lỗi chấp tội chúng con

Chẳng hề trách mắng, xoáy vào nỗi đau

Sẵn sàng tha thứ, nhân từ bấy lâu

Đỡ nâng, nâng đỡ con hèn cậy trông!

 

“Thầy biết rõ con yêu mến trong lòng”

Thế nên tuyên tín, thực hành chứa chan

Bước theo chân Chúa trung thành hân hoan

Trở nên chứng tá khiêm nhường thiết tha….Amen!

Lm. Xuân Hy Vọng

Danh mục:
Tác giả: