ĐHY Parolin nói về ngày 7 tháng Mười và Gaza
ĐHY Parolin nói về ngày 7 tháng Mười và Gaza
Hai năm đã trôi qua kể từ cuộc tấn công khủng bố của Hamas nhằm vào Israel và bắt đầu cuộc chiến tranh toàn diện đã san phẳng Dải Gaza. Chúng ta nhìn lại những sự kiện đó, và những gì đã xảy ra kể từ đó, trong cuộc trò chuyện với Quốc vụ khanh Tòa thánh, Đức Hồng y Pietro Parolin.
Hỏi: Thưa Đức Hồng y, chúng ta đang bước vào năm thứ ba kể từ vụ tấn công bi thảm ngày 7 tháng Mười. Đức Hồng y nhớ lại khoảnh khắc đó như thế nào, và theo quan điểm của ngài, nó có ý nghĩa gì đối với Nhà nước Israel và các cộng đồng Do Thái trên toàn thế giới?
Đáp: Tôi xin nhắc lại những gì tôi đã nói lúc đó: cuộc tấn công khủng bố do Hamas và những lực lượng dân quân khác thực hiện nhằm vào hàng ngàn người Israel và người di cư đang sống tại đó, nhiều người trong số họ là thường dân, những người đang chuẩn bị cử hành Simchat Torah, lễ kết thúc một tuần lễ Sukkot, là vô nhân đạo và không thể bào chữa. Bạo lực tàn bạo đối với trẻ em, phụ nữ, thanh thiếu niên, người già - không thể biện minh cho điều đó. Đó là một cuộc thảm sát đáng xấu hổ và, tôi xin nhắc lại, vô nhân đạo. Tòa Thánh đã ngay lập tức bày tỏ sự lên án mạnh mẽ và toàn diện, kêu gọi trả tự do ngay lập tức cho những con tin và bày tỏ sự gần gũi với những gia đình bị ảnh hưởng bởi vụ tấn công khủng bố. Chúng tôi đã cầu nguyện, và tiếp tục cầu nguyện, và chúng tôi tiếp tục cầu xin vòng xoáy hận thù và bạo lực tai hại này, vốn có nguy cơ kéo chúng ta xuống vực thẳm không lối thoát, chấm dứt.
Ngài muốn nói gì với gia đình các con tin Israel vẫn đang bị Hamas giam giữ?
Đáng buồn thay, hai năm đã trôi qua. Một số người đã chết, những người khác đã được trả tự do sau những cuộc đàm phán kéo dài. Tôi vô cùng xúc động và đau buồn trước hình ảnh những người này bị giam giữ trong đường hầm, bị bỏ đói. Chúng ta không thể và không được quên họ. Tôi nhớ rằng trong một năm rưỡi cuối đời, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đưa ra không dưới 21 lời kêu gọi công khai đòi trả tự do cho những con tin và gặp gỡ một số gia đình của họ. Người kế nhiệm ngài, Đức Thánh Cha Leo XIV, vẫn tiếp tục đưa ra những lời kêu gọi này. Tôi bày tỏ sự gần gũi với tất cả họ, cầu nguyện hàng ngày cho nỗi đau khổ của họ, và tiếp tục cống hiến hết mình để làm bất cứ điều gì có thể để đoàn tụ họ với những người thân yêu của họ còn sống và an toàn - hoặc ít nhất là tiếp nhận thi thể của những người đã thiệt mạng, để họ có thể được chôn cất tử tế.
Nhân kỷ niệm một năm vụ tấn công ngày 7 tháng Mười, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói về “sự bất lực đáng xấu hổ của cộng đồng quốc tế và các quốc gia hùng mạnh nhất trong việc ngăn chặn vũ khí và chấm dứt thảm kịch chiến tranh”. Hòa bình cần gì?
Ngày nay, tình hình ở Gaza thậm chí còn nghiêm trọng và bi thảm hơn so với một năm trước, sau một cuộc chiến tàn khốc đã cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người. Chúng ta cần khôi phục lại lý trí, từ bỏ logic mù quáng của hận thù và trả thù, và bác bỏ bạo lực như một giải pháp. Những người bị tấn công có quyền tự vệ, nhưng ngay cả hành động tự vệ chính đáng cũng phải tôn trọng nguyên tắc tương xứng. Thật không may, cuộc chiến tranh sau đó đã gây ra những hậu quả thảm khốc và vô nhân đạo…Tôi vô cùng đau buồn trước số người chết hàng ngày ở Palestine – hàng chục, đôi khi hàng trăm – rất nhiều trẻ em mà lỗi lầm duy nhất dường như chỉ là được sinh ra ở đó. Chúng ta có nguy cơ trở nên chai sạn với cảnh tàn sát này! Người dân bị giết khi đang cố gắng tìm một mẩu bánh mì, bị chôn vùi dưới đống đổ nát của nhà cửa, bị đánh bom trong bệnh viện, trong những lều trại, phải di dời và buộc phải di chuyển từ đầu này sang đầu kia của vùng đất chật hẹp, đông đúc đó…Thật không thể chấp nhận và không thể biện minh khi coi con người chỉ là “thiệt hại phụ.”
Chúng ta nên nhìn nhận thế nào về sự gia tăng những vụ việc bài Do Thái ở nhiều nơi trên thế giới trong những tháng gần đây?
Đó là một hậu quả đáng buồn và cũng không thể biện minh. Chúng ta đang sống trong một thế giới của tin tức giả mạo, của những câu chuyện được đơn giản hóa quá mức. Điều này khiến những người nuôi dưỡng những thông tin sai lệch này đổ lỗi cho toàn thể người Do Thái về những gì đang xảy ra ở Gaza. Nhưng chúng ta biết rằng điều đó không đúng. Nhiều tiếng nói phản đối mạnh mẽ cũng đã được nêu lên trong thế giới Do Thái về cách thức chính phủ Israel hiện tại đã và đang vận hành ở Gaza và phần còn lại của Palestine, nơi mà, chúng ta đừng quên, chủ nghĩa bành trướng của người định cư, thường là bạo lực, tìm cách khiến việc thành lập một Nhà nước Palestine trở nên bất khả thi. Chúng ta đã thấy lời khai công khai của gia đình các con tin. Chủ nghĩa bài Do Thái là một căn bệnh ung thư cần phải được chống lại và xóa bỏ. Chúng ta cần những người có thiện chí, những nhà giáo dục giúp chúng ta hiểu, và trên hết, giúp chúng ta nhận thức. Chúng ta không được quên những gì đã xảy ra ở trung tâm Âu châu với thảm họa diệt chủng Holocaust, và chúng ta phải cống hiến hết mình để bảo đảm rằng tội ác này không bao giờ tái diễn. Đồng thời, chúng ta phải bảo đảm rằng những hành vi vô nhân đạo và vi phạm luật nhân đạo không bao giờ được biện minh: không người Do Thái nào nên bị tấn công hoặc phân biệt đối xử chỉ vì là người Do Thái, và không người Palestine nào nên bị tấn công hoặc phân biệt đối xử chỉ vì là người Palestine, bởi vì, như đôi khi vẫn bị nói một cách đáng tiếc, họ là “những kẻ khủng bố tiềm tang.” Chuỗi thù hận tai hại chỉ có thể tạo ra một vòng xoáy không dẫn đến kết quả tốt đẹp. Thật đau lòng khi thấy chúng ta vẫn chưa học được từ lịch sử, thậm chí là lịch sử gần đây, vốn vẫn là bài học cho cuộc sống.
Ngài đã nói về một tình huống không thể chấp nhận được và đề cập đến nhiều lợi ích đang ngăn cản chiến tranh chấm dứt. Những lợi ích đó là gì?
Rõ ràng là cuộc chiến do quân đội Israel tiến hành nhằm tiêu diệt những chiến binh Hamas đã phớt lờ thực tế là họ đang nhắm vào một cộng đồng dân cư phần lớn không có khả năng tự vệ, vốn đã bị đẩy đến bờ vực thẳm, trong một khu vực mà những tòa nhà và nhà cửa bị san phẳng thành đống đổ nát. Chỉ cần nhìn vào những bức không ảnh là đủ để hiểu được diện mạo của Gaza ngày nay. Cũng rõ ràng không kém là cộng đồng quốc tế, thật không may, đang bất lực và những quốc gia thực sự có khả năng gây ảnh hưởng cho đến nay vẫn chưa hành động để ngăn chặn cuộc thảm sát đang diễn ra. Tôi chỉ có thể nhắc lại những lời rất rõ ràng của Đức Thánh Cha Leo XIV vào ngày 20 tháng Bảy: “Tôi xin nhắc lại lời kêu gọi cộng đồng quốc tế hãy tuân thủ luật nhân đạo và tôn trọng nghĩa vụ bảo vệ thường dân, cũng như việc cấm trừng phạt tập thể, sử dụng vũ lực bừa bãi và cưỡng bức người dan di dời.” Đây là những lời lẽ vẫn đang chờ được đón nhận và thấu hiểu.
Vậy thì cộng đồng quốc tế có thể làm gì?
Chắc chắn là cần phải làm nhiều hơn những gì họ đang làm hiện nay. Nói rằng những gì đang xảy ra là không thể chấp nhận được rồi lại tiếp tục cho phép nó xảy ra là chưa đủ. Chúng ta phải nghiêm túc tự vấn về tính chính đáng của việc tiếp tục cung cấp vũ khí đang được sử dụng để chống lại thường dân. Đáng buồn thay, như chúng ta đã thấy, Liên Hiệp Quốc đã không thể ngăn chặn những gì đang xảy ra. Nhưng có những chủ thể quốc tế có thể, và nên, làm nhiều hơn nữa để chấm dứt thảm kịch này, và chúng ta phải tìm cách trao cho LHQ một vai trò hiệu quả hơn trong việc chấm dứt nhiều cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn đang diễn ra trên khắp thế giới.
Ngài nghĩ gì về kế hoạch do Tổng thống Trump đề xuất nhằm đạt được lệnh ngừng bắn và chấm dứt chiến tranh?
Bất kỳ kế hoạch nào bao gồm sự tham gia của người dân Palestine trong những quyết định về tương lai của chính họ và giúp chấm dứt cuộc tàn sát này - thả con tin và chấm dứt việc hàng trăm người bị giết hại hàng ngày - đều được hoan nghênh và ủng hộ. Đức Thánh Cha cũng bày tỏ hy vọng rằng các bên sẽ chấp nhận kế hoạch này và một tiến trình hòa bình đích thực cuối cùng có thể bắt đầu.
Ngài đánh giá thế nào về lập trường của xã hội dân sự, gồm cả ở Israel, chống lại những chính sách chiến tranh của chính phủ Israel và ủng hộ hòa bình?
Mặc dù những sáng kiến này đôi khi có nguy cơ bị xuyên tạc trên những phương tiện truyền thông do bạo lực của một số phần tử cực đoan, tôi rất ấn tượng trước sự tham gia của những cuộc biểu tình và sự cam kết của nhiều người trẻ. Điều này cho thấy chúng ta không bị buộc phải thờ ơ. Chúng ta phải nghiêm túc nhìn nhận mong muốn hòa bình này, sự sẵn lòng tham gia này…Tương lai của chúng ta, và tương lai của thế giới, phụ thuộc vào điều đó.
Một số người, ngay cả trong Giáo hội, nói rằng khi đối mặt với tất cả những điều này, trên hết chúng ta phải cầu nguyện, chứ không phải xuống đường, để không rơi vào tay những kẻ bạo lực…
Tôi là một người đã được rửa tội, một tín hữu, một linh mục: đối với tôi, việc cầu nguyện liên tục với Thiên Chúa - xin Người giúp đỡ chúng ta, hỗ trợ chúng ta, can thiệp để chấm dứt tất cả những điều này bằng cách hỗ trợ những nỗ lực của những người nam nữ thiện chí - là điều thiết yếu, hàng ngày và nền tảng. Đức Thánh Cha Leo một lần nữa mời gọi chúng ta lần hạt Mân Côi cho hòa bình vào ngày 11 tháng Mười. Nhưng tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng đức tin Kitô giáo hoặc là nhập thể, hoặc không phải là đức tin…Chúng ta theo một Thiên Chúa đã làm người, mang lấy nhân tính của chúng ta, và cho chúng ta thấy rằng chúng ta không thể thờ ơ với những gì xảy ra xung quanh, ngay cả những gì ở xa chúng ta. Đó là lý do tại sao cầu nguyện không bao giờ là đủ—và hành động cụ thể, sự thức tỉnh lương tâm, những sáng kiến hòa bình, nâng cao nhận thức, ngay cả khi điều đó có nghĩa là tỏ ra “lạc lõng” hoặc chấp nhận rủi ro cũng vậy. Có một phần lớn im lặng, gồm nhiều người trẻ, từ chối đầu hàng trước sự vô nhân đạo này. Họ cũng được kêu gọi cầu nguyện. Nghĩ rằng vai trò của chúng ta là Kitô hữu chỉ là nhốt mình trong phòng thánh—tôi thấy điều đó thật sai lầm. Cầu nguyện cũng phải dẫn đến hành động, làm chứng, đưa ra những lựa chọn cụ thể.
Đức Thánh Cha Leo không bao giờ mệt mỏi trong việc kêu gọi hòa bình. Tòa Thánh có thể làm gì trong tình huống này? Ngài và toàn thể Giáo hội có thể đóng góp gì? Tòa Thánh – đôi khi bị hiểu lầm – vẫn tiếp tục kêu gọi hòa bình, mời gọi đối thoại, sử dụng những từ “đàm phán” và “thảo luận”, và làm như vậy xuất phát từ chủ nghĩa hiện thực sâu sắc: giải pháp thay thế cho ngoại giao là chiến tranh bất tận, vực thẳm của hận thù và sự tự hủy diệt của thế giới. Chúng ta phải mạnh mẽ kêu gọi: hãy dừng lại trước khi quá muộn. Và chúng ta phải hành động, làm mọi thứ có thể để không quá muộn. Mọi thứ có thể.
Tại sao việc công nhận Nhà nước Palestine lại quan trọng ở giai đoạn này?
Tòa Thánh đã chính thức công nhận Nhà nước Palestine mười năm trước, thông qua Hiệp định Toàn cầu giữa Tòa Thánh và Nhà nước Palestine. Lời nói đầu của hiệp định quốc tế này hoàn toàn ủng hộ một giải pháp công bằng, toàn diện và hòa bình cho vấn đề Palestine trên mọi phương diện, phù hợp với luật pháp quốc tế và tất cả những nghị quyết liên quan của LHQ. Đồng thời, Hiệp định ủng hộ một Nhà nước Palestine độc lập, có chủ quyền, dân chủ và khả thi, bao gồm Bờ Tây, Đông Jerusalem và Dải Gaza. Hiệp định này hình dung Nhà nước này không đối lập với những quốc gia khác, mà có khả năng chung sống hòa bình và an ninh với những nước láng giềng. Chúng tôi hài lòng khi nhiều quốc gia trên thế giới đã công nhận Nhà nước Palestine. Tuy nhiên, chúng tôi cũng lo ngại rằng những tuyên bố và quyết định của Israel đang đi theo hướng ngược lại - tức là nhằm ngăn chặn khả năng ra đời một Nhà nước Palestine thực sự một lần và mãi mãi. Giải pháp này, việc thành lập một Nhà nước Palestine, dường như càng có giá trị hơn nữa trong bối cảnh những sự kiện diễn ra trong hai năm qua. Đó là con đường của hai dân tộc trong hai Nhà nước, mà Tòa Thánh đã ủng hộ ngay từ đầu. Số phận của cả hai dân tộc và cả hai quốc gia đều gắn bó chặt chẽ với nhau.
Cộng đồng Kitô giáo tại Trung Đông đang ra sao sau vụ tấn công tàn bạo vào giáo xứ Thánh Gia, và tại sao họ lại có vai trò quan trọng ở Trung Đông?
Những người Kitô hữu ở Gaza, như chúng ta đã thấy, cũng đã bị tấn công…Tôi rất xúc động khi nghĩ đến những người quyết tâm ở lại, những người cầu nguyện hàng ngày cho hòa bình và cho những nạn nhân. Tình hình đang ngày càng trở nên bấp bênh. Chúng tôi cố gắng gần gũi họ bằng mọi cách, thông qua những nỗ lực của Tòa Thượng phụ Latinh Jerusalem và Caritas. Chúng tôi biết ơn những chính phủ và những tổ chức đang nỗ lực để đưa hàng cứu trợ đến và giúp những người bị thương nặng được chăm sóc. Vai trò của những Kitô hữu ở Trung Đông đã và vẫn luôn là nền tảng, ngay cả khi số lượng của họ đang giảm dần. Tôi muốn nhấn mạnh rằng họ hoàn toàn chia sẻ số phận của người dân Palestine đang chịu đau khổ và cùng chịu đựng với họ.
Nguyễn Minh Sơn