Tài liệu tìm hiểu năm đức tin
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Nguyễn Đinh Hòe
TÀI LIỆU HỌC HIỂU NĂM ĐỨC TIN
Ý NGHĨA
Nhìn vào “logo” của năm Đức tin ta thấy một con thuyền đang vượt sóng. Có lẽ cũng dễ làm cho chúng ta nhớ đến con thuyền mà thánh Phêrô và các môn đệ trên biển hồ Galilê. Chính trên con thuyền này dù đang bị sóng đánh dữ dội nhưng lại không chìm. Trong lúc hiểm nguy các môn đệ đã kịp cầu cứu Chúa Giêsu.
Chỉ nhờ lòng tin bé nhỏ mà lại được cứu. Con thuyền vượt sóng theo niềm tin dân gian Việt nam thường vẽ hai con mắt khiến loài thủy quái không dám lại gần hãm hại. Nhưng với con thuyền Giáo hội thì hai con mắt là đèn Đức tin soi đường dẫn lối ! Thuyền xưa kia nhờ buồm đi lẹ và nhẹ nhàng. Trên hình ảnh chiếc buồm do ba chữ La tinh tạo thành : IEUS HOMINUM SALVATOR nghĩa là : Chúa Giêsu Đấng cứu thế. Với Đấng cứu thế ở bên thì còn lo ngại gì ! Nền sau cánh buồm là một hình tròn đẹp đẽ, trên đó có thánh giá : là một hiện diện hữu hình của Đấng cứu thế. Lời Ngài hằng vang lên : “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế!”. “Thầy đây các con đừng sợ !” Biểu tượng của năm đức tin là một lời mời gọi và thúc đẩy đầy an ủi và phấn khởi !
NĂM ĐỨC TIN (Học hiểu về Đức tin)
A. NHỮNG BƯỚC ĐI CỦA ĐỨC TIN
Tin là gì ?
Tin là tin một điều gì là thật, là vững chắc. Tin điều gì không bao giờ chỉ là tin mà không gắn chặt với một ai, nếu là niềm tin tôn giáo thì gắn chặt với một Đấng nào. Tin không bao giờ là tin “suông” mà phải có bằng chứng. Vì vậy tin là phải trở về hay đi vào giao tiếp với người hay Đấng ấy. Chúng ta phải như là tái tạo lại khung cảnh đã xẩy ra biến cố để gặp được bằng chứng. Dĩ nhiên là không phải mỗi lần lại phải trưng bằng chứng mà chỉ cần “nhân những bằng chứng cũ” cũng có thể làm nền tảng cho nhiều lần sau. Về những bằng chứng có loại “không kiểm chứng bằng lí trí và lịch sử” được, mà chỉ cứ theo mặc khải . Nhưng cũng có loại diễn ra khi lịch sử đã tiến bộ và có để lại những dấu tích !
Niềm tin Kitô giáo khởi đầu là tin vào vị Chúa tể mà người Do thái gọi là Giavê (tên được mặc khải). Giavê Thiên Chúa luôn hiểu rõ con người là vật Người tạo nên không thể đặt niềm tin hoàn toàn không bằng chứng, không có gì cụ thể là cái con người cần như một điều kiện cho niềm tin. Chính vì thế Thiên Chúa đã bắt đầu bằng LỜI HỨA và GIAO ƯỚC. Việc đó được thực hiện dần dần qua các tổ phụ và các ngôn sứ. Thiên Chúa đã cắm mốc cho những giai đoạn lịch sử như đánh dấu bước đi của niềm tin :
Lời hứa đầu tiên Thiên Chúa hứa với Adam Eva, rồi với Noe. Thời gian thật dài cho đến lúc Thiên Chúa tuyển chọn Abraham và lập giao ước với ông. Rồi Môsê …Hết thời các tổ phụ lại đến các ngôn sứ. Các ngài là những sứ giả và chứng nhân cho Thiên Chúa để truyền niềm tin cho con người.
Một vị ngôn sứ vĩ đại trên mọi ngôn sứ là chính Con Một Thiên Chúa đã đến trần gian để khơi bùng cháy lên niềm tin soi sáng trần gian. Những ngày Người sống giữa mọi người là những ngày vô cùng quí giá bởi vì Ngài chính là ngọn đuốc mà trần gian đang sống trong tăm tối cần đến. Những ngày đó rồi cũng qua đi, Ngài trở về với Cha Người. Nhưng Ngài đã long trọng truyền cho các môn đệ và qua các môn đệ, tất cả phải đi thắp sáng niềm tin và làm chứng nhân cho Người. Qua các thế hệ những đoàn người vẫn đang xếp hàng tiến lên trong hàng ngũ chứng nhân.
Như vậy tin không phải là tin “suông” nhưng tin là tin qua và nhờ thế giá của những chứng nhân của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm hết sức có thể.
Người tin tưởng phải như đối diện với biến cố hay Đấng là đối tượng cho niềm tin. Luôn luôn hiện diện trước Đấng là đối tượng cho niềm tin sẽ giúp phát triển niềm tin. Nhưng như vậy đòi một sự ý thức. Niềm tin không đi chung với cái máy. Không có cái máy tin. Con người khác muôn vật ở chỗ hành động có ý thức, và đó là yếu tố tạo thành giá trị. Tuy vậy con người nếu không tập luyện sẽ khó hành động với ý thức. Người ta gọi là “chia trí”. Phải làm ngược lại là “cầm trí” lại. (Có thể dùng phương pháp thực tập Yoga hay thiền để tập cầm trí và nhờ đó sẽ ý thức khi hành động). Mặc đầu chúng ta tin những điềù hoặc là xa xôi hay trừu tượng, vô hình. Nhưng chúng ta phải “như thấy Đấng vô hình”! Điều này có thể dùng khoa học ngày nay minh chứng. Chúng ta nghe điện thoại tuy không thấy người kia nhưng ai bảo là không có người đó thực.
Xem trực tiếp truyền hình dù không có người đó ngay bên, ai dám bảo không có người kia ?
Khi người tin “ý thức” Đấng mình tin là ai và mình là ai thì lập tức sẽ phát sinh ra những thái độ và tâm tình “xứng hợp” tùy theo mức độ của niềm tin. Những thái độ và tâm tình đó phát sinh tạo ra thái độ cầu nguyện, nghĩa là sự “đối xử” của con người đối với Đấng họ tin tưởng. Như vậy người sống niềm tin thực sự sẽ sống trong trạng thái cầu nguyện luôn. Họ sống “Nước trời” ngay khi còn ở trần gian !
B. ĐỨC TIN THEO THÁNH KINH
Tin có nghĩa là “chấp nhận một điều gì như là sự thật” bởi vì nó chắc chắn, vững chắc nên cũng có nghĩa là chân thật ! Chấp nhận một điều gì thực ra là chấp nhận một con người đã đề nghị chúng ta tin điều đó. Người Israel đã chấp nhân Môsê như vị lãnh đạo của họ trên căn bản niềm tin của họ vào cá nhân ông ta. Họ chấp nhận ông như là người được Thiên Chúa chỉ định.
Sự chắc chắn, vững chắc ban cho sự bảo đảm. Thiên Chúa ban cho sự bảo đảm ấy vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương nên luôn trung tín với lời hứa và giao ước của Ngài. Đến lượt con người phải tin vào lời hứa và lệnh truyền của Chúa. Niềm tin bao gồm sự chấp nhận và vâng phục. Một người tin thì không còn buồn rầu (Isaia 28, 16). Viễn ảnh đức tin là vô hạn định. Nó đòi hỏi sự phó thác hoàn toàn cho Giavê. Abraham tin vào Giavê khi Thiên Chúa hứa cho ông con đàn cháu đống.
Niềm tin không hoàn toàn thuộc lí trí. Nhận biết Chúa, không phải là nhận thức thuần lí. Đúng hơn nó là một cảm nghiệm về Thiên Chúa qua lời mặc khải và công trình cứu độ của Chúa.
Phương cách thông thường để diễn tả tính liên hệ đức tin với Giavê trong cựu ước qua ý niêm nghe hơn là tin và nghe phải dẫn tới chấp nhận và vâng phục.
Tảng đá nền tảng của niềm tin trong cựu ước là Thiên Chúa.
Lời đáp trả đức tin vì vậy ưu tiên là lời đáp trả tín thác và vâng phục hơn là tin thôi.
Niềm tin của cựu ước chính yếu là liên hệ tới giao ước (x, Đnl 6, 17 ; 7,11) và lời đáp trả của con người đưa tới việc tuân giữ các lề luật.
Đức tin trước hết là tin tưởng vào Thiên Chúa (Mc 5, 34, 36 ; 9, 23 ; 11, 22-23; Lc 7, 16), nhưng nó cũng hướng tới Chúa Giêsu.
Đức tin là một sự chấp nhận Tin mừng (Cv 8, 13-14) và những tín hữu là những người chấp nhận lời rao giảng của các sứ đồ và gia nhập cộng đồng Kitô hữu. Đối tượng của niềm tin là lời rao giảng của các sứ đồ và niềm tin này tập trung vào Chúa Giêsu như là vị Chúa phục sinh (5,14 ;9, 42 ; 11, 17 ;15, 11).
Đức tin thời Kitô giáo sơ khai đòi buộc một sự đoạn tuyệt với quá khứ.
Đức tin là chìa khoá giao hoà cùng Thiên Chúa và giải thoát khỏi tội. Người ta chỉ cần thú nhận sự bất lực của mình và mở ra cho ơn thánh Chúa (Ep 2, 8-9). Đức tin là nguyên tắc sống cho người công chính (Rm 1,7 ; Gal 3, 11 ; Philip 3, 9-10)., và liên kết với bí tích thanh tẩy tạo thành một sáng tạo mới (2Cor 5,7). Đối tượng trung tâm của đức tin là Đức Kitô (Gal 2,20).
Người có thể thông ban đời sống mới cho những kẻ tin và chịu thanh tẩy
Nhưng ngay cả khi đức tin ban cho chúng ta một sự đảm bảo và trông cậy, nó vẫn còn giữ lại một mức độ tối tăm. (2Cor 5,7).( Vì đức tin có những điều thuộc quá khứ xa xôi, trừu tượng, vô hình. Đức tin lại thường đòi hỏi rất cao. Nếu có cái nhìn “thiển cận” chắc không thể tin được. Chính vì vậy đức tin phải là ân huệ Thiên Chúa ban !)
Đức tin, theo Phaolô, cũng là vâng phục (Rm 1,5 ; 16, 26), đòi hỏi một sự dâng trọn cho Chúa Kitô. Và chẳng phải chỉ gói gọn trong một cử chỉ mà thôi. Đức tin phải lớn lên dần (2Cor 10, 15). Bởi vậy nó cũng có thể trở nên yếu và chết đi (1 Thes 10, 15 ; Rm 14,1). Nguyên lí làm cho nó lớn lên luôn luôn là tình yêu.”
Tin vào Chúa Kitô là nhận biết Người
Lãnh nhận sự sống đời đời (Ga 3, 16-17 ; 5, 24 ; 1Ga 3, 15 ; 5, 12-13) là điều đã gồm trong sự nhận biết Chúa Kitô (Ga 17,3) và cuối cùng là hướng tới hưởng kiến Thiên Chúa (Ga 17, 24,26 ; 1Ga 3, 1-2).
Đức tin gồm trong việc tiếp nhận bằng chứng và lại đến lượt sự tiếp nhận nêu lên vấn dề dấu hiệu đi kèm theo bằng chứng. Địa vị của những chứng nhân đức tin đã được nhấn mạnh.
Đức Giêsu làm một phép lạ để đáp lại lòng tin. Nơi Gioan phép lạ được thể hiện để khơi dậy lòng tin (17, 6-8).
Đức tin mang đến cuộc sống (3, 36) không tin đem đến hư vong (3, 18-20). Đối với Gioan thảm kịch nặng nề nhất là tội không tin (1, 10+11 ;16,9).
Niềm tin vào quyền lực chúa tể của Chúa Kitô là phần trung tâm lời rao giảng của các sứ đồ, vì vậy nó là tâm điểm của chính niềm tin.
Chấp nhận Chúa Giêsu như là chúa tể được diễn tả qua sự thống hối và điều này được chứng tỏ qua bí tích thanh tẩy. Trong đó có được sự bảo đảm sự thứ tha và việc đổi mới do Thần khí.
C. NHỮNG CÂU HỎI THƯỜNG THỨC
1. H. Đức tin là gì ?
T. Là việc con người đáp trả lại chương trình của Thiên Chúa được thực hiện trong thời gian. (Điển ngữ THTK). Đức tin là sự đáp trả của con người đối với Thiên Chúa là Đấng tự tỏ mình và trao ban chính mình cho họ, đồng thời ban cho họ một ánh sáng tràn đầy để con người tìm kiếm ý nghĩa tối hậu của cuộc đời mình. (GLCG).
2. H. Làm sao để có đức tin ?
T. Đức tin là sự gặp gỡ giữa sự vươn lên (tìm kiếm của con người) và việc Thiên Chúa đến gặp gỡ con người (ân huệ của Chúa chứ con người không có công gì để xứng đáng được ơn đó !)
3. H. Thế nào mới là đức tin thật ?
T. Thưa phải tin thật trong lòng và tuyên xưng ra bên ngoài. Hơn nữa cũng cần có việc làm để minh chứng : Đức tin không việc làm là đức tin chết.
4. H. Những điều phải tuyên xưng là những diều nào, sẽ gặp ở đâu ?
T. Để thâu gọn và dễ nhớ Giáo hội đã tóm lại những điều phải tuyên xưng trong kinh Tin kính.
5. H. Ngoài việc tuyên xưng ngoài miệng thì những việc làm để minh chứng niềm tin là gì ?
T. Gồm ba việc này :
* Một là cử hành mầu nhiệm cứu độ qua cử hành các bí tích và các cử hành phụng vụ khác.
* Hai là thực hành đời sống Kitô hữu theo gương Đức Kitô.
* Ba là sống đời cầu nguyện.
6. H. Để nhận ra một người sống đức tin dấu hiệu nào dễ nhận ra ?
T. Có ít là 2 dấu này :
- Một là chăm chú lắng nghe Lời Chúa và mau mắn đem ra thực hành.
- Hai là kết hợp với Chúa, năng gặp gỡ Chúa, nhất là nơi bí tích Thánh thể. Tức là cầu nguyện
7. H. Đức tin có cần thiết cho cuộc sống con người không?
T. Rất cần thiết, bởi vì không có đức tin không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa. Hơn nữa đức tin như ngọn đèn chiếu sáng dẫn đưa con người đi tới quê trời bình an.
8. H. Không có đức tin con người sẽ gặp những khó khăn trở ngại nào trên đường đời ?
T. Như người mù đi trong đêm tối, giữa sóng gió cuộc đời, họ sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm, nhất là bị ma quỉ xác thịt thế gian làm cho sai đường, lạc lối.
9. H. Trong Tin mừng Chúa Giêsu thường đòi hỏi gì nhất nơi con người ?
T. Lòng tin. Mỗi lần để thực hiện một phép lạ Chúa đều đòi lòng tin !
10. H. Người tin và không tin khác nhau thế nào?
T. Người tin và không tin có cái nhìn hoàn toàn khác nhau. Người tin thấy cái người không tin không thấy, làm điều người không tin không làm. Người không tin sống không có tương lai, nghĩa là họ chỉ thấy những gì trước mắt, cụ thể. Những gì ở thế giới bên kia đối với họ là giả dối, sai lạc và vô ích !
11. H. Tại sao có những người nói là tin mà lại sống như người không tin?
T. Những người đó có cái vỏ “bề ngoài” như người tin, nhưng thực chất không sống niềm tin. Vì vậy đức tin của họ là đức tin giả.
12. H. Có dễ phân biệt người có đức tin giả và người có đức tin thật không?
T. Cũng không khó lắm nếu chúng ta để ý một chút. Những người đó chỉ nói mà không làm. Người ta nói rất đúng : “Thùng rỗng kêu to !” Họ có thể nói về đạo đức rất hay, nhưng Chúa nói chỉ nên nghe lời nó nói mà đừng làm theo việc nó làm.
13. H. Phải có đức tin bao nhiêu mới đủ ?
T. Không bao giờ có thể nói là đủ. Chúa nói chỉ cần có đức tin bằng hạt cải đã chuyển núi dời non được. Thế nhưng thực tế đã có mấy ai làm được chuyện đó. Bằng hạt cải mà chưa có thì sao đã dám cho là đủ ?
14. H. Một người tín hữu “bình thường” : đọc kinh, dâng lễ hằng ngày đã đủ chưa ?
T. Không có người tín hữu bình thường mà chỉ có người tín hữu. Hãy làm những gì một người tín hữu cần phải làm.
15. H. Người tín hữu nghĩa là gì ?
T. Người tín hữu là người Kitô hữu, nghĩa là :
* Là người có Chúa Kitô trong mình (hữu là có).
* Là bạn của Chúa Kitô (hữu là bạn).
Hãy làm những gì một người bạn phải làm ; và hơn nữa ý thức rằng có Chúa Kitô trong mình sẽ hành động ra sao thì đó là một người Kitô hữu.
16. H. Người Kitô hữu đích thực và người Kitô hữu giả danh khi nghe Lời Chúa sẽ khác nhau thế nào ?
T. Người Kitô hữu đích thực nghe Lời Chúa như những lời vô giá đem lại sự sống đời đời. Họ chăm chú lắng nghe và không để rơi rớt một lời nào như Samuel. Trái lại người Kitô hữu giả danh nghe như một sự bắt buộc chẳng đặng đừng, không lưu tâm để ý và nhất là chẳng thèm áp dụng !
17. H. Khi cử hành những mầu nhiệm cứu độ ngưởi Kitô hữu phải có tâm tình và thái độ nào ?
T. Trước hết phải coi như mình được mời gọi tham dự để tái hiện lại công trình cứu độ mà Chúa Kitô cứu thế đã làm. Mình phải hết sức chủ động và sốt sắng như là “diễn viên” có vai trò thực thụ chứ không phải là khán giả đứng nhìn rồi vỗ tay.
18. H. Khi người tín hữu cầu nguyện (tức là gặp gỡ Thiên Chúa, đặc biệt là Chúa Kitô) cảm nhận của họ phải thế nào ?
T. Họ phải cảm thấy sung sướng như gặp gỡ cha mình, vui vẻ như gặp bạn hữu, an tâm như gặp bạn đường dẫn lối. Người thiếu đức tin sẽ làm như máy để trả nợ, cho xong việc nên nhàm chán, vô bổ !
19. H. Có cách nào làm cho đức tin tăng thêm ?
T. Có nhiều cách, nhưng một trong những cách hữu hiệu là tìm cách chia sẻ đức tin cho người khác. Đức tin có đặc tính kỳ lạ là càng san sẻ càng tăng thêm. Bởi vì để có đức tin san sẻ cho người khác tất nhiên mình phải có đức tin, chưa nói là phải có đức tin mạnh mẽ !
20. H. Để san sẻ đức tin cho người khác có thể có những hình thức nào ?
T. Trước hết là chính đời sống gương mẫu của minh : việc làm nói to hơn lời nói. Thứ đến việc tiếp xúc : gần mực thì đen, gần đèn thì sáng ! Xa hơn là lời nói : lời nói lung lay. Đức tin đến nhờ lời rao giảng. Và còn nhiều hình thức khác, nhất là ở thời đại thông tin bùng nổ như thời nay. Những người nhiệt thành với việc Loan báo Tin mừng thì có rất nhiều phương cách để xử dụng như : báo chí, điện ảnh, ti vi v.v…
21. H. Thiên Chúa có tỏ ý muốn gì về việc san sẻ đức tin hay Loan báo Tin mừng không ?
T. Chắc chắn là có, đặc biệt trước khi Đức Giêsu về trời, Ngài đã ra lệnh cách long trọng : “Hãy đi Loan báo Tin mừng …”
22. H. Người Kitô hữu có thể không Loan báo Tin mừng được không ?
T. Nếu không tích cực Loan báo Tin mừng, đương nhiên không còn là Kitô hữu. Như vậy không một người nào mang danh Kitô hữu lại có thể lơ là, bỏ qua sứ mạng vô cùng quan trọng này.
23. H. Niềm tin nói chung và đức tin nói riêng rất cần cho cuộc sống, tại sao đức tin lại hiếm hoi như ta vẫn thấy ?
T. Trước hết niềm tin (nhất là đức tin) đòi một sự mạo hiểm và can đảm nên không dễ có. Riêng đức tin lại đặt vào một Đấng vô hình và những điều tin không dễ kiểm soát bằng giác quan nên cần phải có ơn của Chúa mới có được.
24. H. So sánh với thực tế cuộc sống, niềm tin có là điều xa lạ mà cuộc sống không cần không ?
T. Nếu cuộc sống thiếu niềm tin sẽ xụp đổ. Rất nhiều lãnh vực của cuộc sống đều dựa trên niềm tin.
25. H. Điều trở ngại cho niềm tin là gì ?
T. Đó là sự từ bỏ những gì mà con người vì sai lầm cố bám vào dó như chiếc phao cứu sống. Sau đó lại phải dấn bước đi theo một con đường hẹp thường nghịch với bản tính đã hư hỏng của con người.
26. H. Những đòi hỏi đó là gì và thường gặp ở đâu ?
T. Trước hết cuộc sống của con người đã sẵn những đòi hỏi đôi khi khắc nghiệt, nhưng nếu không thỏa mãn sẽ nguy hiểm và không thể thành công. Đức Kitô đã nghiêm chỉnh báo trước : “Ai muốn theo Ta hãy bỏ mình, vác lấy thập gia rồi đi theo Ta !”
27. H. Chúng ta nghĩ sao về lời than phiền của Đức Giêsu Kitô : “Không biết khi Con người trở lại có còn gặp đức tin trên mặt đất nầy hay không ?”
T. Đó là lời tiên báo u ám nhất đe doạ con người. Thế nhưng Thiên Chúa là tinh thương Người sẽ không bỏ rơi con người, nếu con người biết đáp lại tình thương của Người. Thiên Chúa trông đợi những người con hiếu thảo, những con người đã nếm được tinh yêu của Chúa, họ sẽ là chứng nhân để thuyết phục những người còn ngồi trong bóng tối tăm sự chết. Chỉ những người đã và đang sống trong niềm tin tràn đầy mới làm cho những con người ưa hồ nghi bước vào niềm tin. (chứng nhân)
28. H. Đức tin đem lại cho chúng ta điều gì ?
T. Đức tin đem lại cho chúng ta điều cao quí nhất là “sự sống đời đời”!
29. H. Sự sống đời đời là gì ?
T. Đó là “nhận biết Chúa Cha và Đấng Ngài sai đến, chính là Đức Giêsu Kitô.”
30. H. Nhận biết nghĩa là làm sao ?
T. Chắc chắn không phải là cái biết trí thức của trí óc con người. Nhưng là cái “biết” toàn diện, nhất là sự cảm nhận tận đáy tâm hồn.
31. H. Để có được cái biết (cảm nhận) đó phải làm gì ?
T. Phải có sự “giao tiếp trực tiếp” với Đấng là nguồn sự sống đó.
32. H. Có những cách giao tiếp nào ?
T. Trước hết phải nghe được tiếng nói của Ngài (Ngài nói khắp nơi, nhưng ưu tiên là trong Kinh thánh). Thứ đến phải “trông thấy” như Môsê “thấy Đấng vô hình”. Có thể lúc đầu chúng ta chưa nghe hay thấy được, nhưng dần dần Chúa sẽ tỏ ra cho ta được “biết”.
33. H. Những nguy cơ nào làm suy yếu hay mất đức tin ?
T. Một là không ý thức sự quan trọng và cao quí của đức tin để bảo vệ.
Hai là không nuôi dưỡng đức tin bằng việc làm mỗi ngày.
Ba là để cho những yếu tố gây phương hại cho đức tin đến gần hay xâm nhập vào mình : như giao du với những người xấu, sách báo, nhất là phim ảnh xấu v.v…
Lm. Giuse Nguyễn Đình Hoè