Đức Mẹ khóc vì ta lãng quên Kinh Thánh
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lm Hoàng Minh Tuấn
ĐỨC MẸ KHÓC VÌ TA LÃNG QUÊN THÁNH KINH
Bài giảng của L.m. Ph. Hoàng Minh Tuấn,
Nhà thờ Huyện Sỹ, ngày 30-01-2013
(Phần I : )
Đố anh chị em biết : Đức Mẹ thương người Công giáo hơn hay người Tin Lành hơn ?
<để họ trả lời… .đương nhiên họ sẽ nói : Đức Mẹ thương người Công giáo hơn…>
Hỏi : Tại sao ?
< họ sẽ trả lời : vì người Công giáo yêu mến Đức Mẹ !>
Đó là ý kiến của anh chị em. Nhưng phần tôi, tôi thấy không chắc !
Anh chị em nói Mẹ yêu thương người Công giáo hơn vì họ yêu mến Đức Mẹ à ! Có chắc họ yêu mến Đức Mẹ thật không ? Thực tế chúng ta thấy gì ? Chạy đến cầu xin Đức Mẹ hết ơn này đến ơn kia, thường chỉ là những ơn vật chất… , phải chăng như vậy là yêu mến Đức Mẹ? Xin kể cho anh chị em “Chuyện thùng thư Đức Mẹ trên trời” : Các Thiên thần mỗi ngày có phận sự mở các thùng thư, từ dưới đất người ta gửi lên cho Đức Mẹ, và duyệt trước các thư để trình lên Đức Mẹ. Các ngài ngao ngán lắc đầu vì buồn thay cho Đức Mẹ : trong hàng triệu lá thư ấy thấy toàn là thư xin ơn. Còn họa hoằn mới gặp một bức thư tạ ơn, hay biểu lộ tình mến đối với Đức Mẹ ! Những người gửi thư đó chắc tưởng mình yêu mến Đức Mẹ lắm ! Nhiều người khác cũng yên trí mình yêu mến Mẹ khi họ đọc vài kinh, hát vài bài kính Đức Mẹ, dâng Mẹ vài bó hoa !
Muốn biết như thế là đúng hay sai, ta hãy so với lời dạy của Thánh Công Đồng Chung Vatican II, tức là quyền giáo huấn tối thượng của Hội Thánh :
Một đàng “khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Đức Nữ Trinh”, nhưng đàng khác cũng căn dặn :
“Phần các tín hữu, hãy nhớ rằng : Lòng tôn sùng Đức Mẹ chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin chân thật ấy dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta.” (Hiến Chế Giáo Hội, “Ánh sáng muôn dân”, chương VIII, số 67)
Chúng ta có lấy “đức tin chân thật mà tìm hiểu địa vị, các đặc ân và vai trò của Mẹ Thiên Chúa” chưa ? - Chưa ! Ta “đã lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” chưa ? - Cũng chưa nốt. Mà Công Đồng bảo đó mới là lòng tôn sùng Đức Mẹ chân chính, đó mới là yêu mến Đức Mẹ thật. Nếu cái gì cũng chưa, thì sao dám bảo người Công giáo tôn sùng yêu mến Đức Mẹ thật sự, để cậy vào đó mà cho rằng ta được Đức Mẹ thương hơn người Tin Lành.
Dám nói rằng : Ngay cả việc chúng ta yêu mến Đức Mẹ, Mẹ cũng không cần, điều Mẹ cần là chúng ta yêu mến Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu mới là Thiên Chúa, là Đấng ta phải tôn thờ, là nguồn gốc và là cứu cánh đời ta. Đức Mẹ chỉ là một tạo vật, không là cùng đích đời ta. Sau khi qua khỏi đời này ta về với Thiên Chúa, chỉ Thiên Chúa mới là Thiên đàng của ta chứ không phải Đức Mẹ. Vì thế, ai yêu mến Chúa, Đức Mẹ sẽ quí yêu người ấy.
Mà mến Chúa thì không phải chỉ bằng lời nói, mà bằng việc làm. Những lời tán dương, xưng tụng hay ho không thay thế được việc làm cụ thể. Chỉ có một cách duy nhất chứng minh lòng chân thành của một người, đó là hành động, là cách sống của họ. Đứa trẻ nào nói với mẹ: “Má ơi! con thương má lắm!” Mẹ nó sẽ mỉm cười và bảo : “Tốt ! Song để mẹ xem con có ngoan không đã !” Chúa đối với chúng ta cũng vậy. Chính Chúa Giêsu đã phán :
“Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”(Ga 14.21).
Ai là kẻ yêu mến Chúa ? Chúa bảo : Đó là người “có” và “giữ” các điều răn, tức là các lời Chúa dạy. Phải “có” trước đã, sau đó mới “giữ”, không có thì giữ cái gì ! Vậy nghĩa là phải có các điều răn, có lời Chúa dạy, rồi sau đó mới giữ, mới thi hành. Nhưng làm sao có lời Chúa dạy nếu không học hỏi Thánh Kinh ? Vì lời Chúa dạy nằm ở đâu nếu chẳng phải là ở trong Thánh Kinh.
Thế mà câu chuyện rất cảm động sau đây cho ta biết một việc đáng buồn : Anh chị em biết cha Jozo Zovko, là cha sở Giáo xứ Mễ Du khi Đức Mẹ hiện ra tại Mễ Du những ngày tháng đầu tiên, ngài là tông đồ của Mẹ, luôn giảng về các sứ điệp của Mẹ, và bênh vực các thị nhân, đến nỗi nhà cầm quyền hồi đó (thuộc Xã hội chủ nghĩa), bỏ tù ngài. Ngài còn được gọi là Thị nhân thứ 7, vì cũng được Đức Mẹ hiện ra với ngài nhiều lần, khi thì chung với giáo dân trong nhà thờ Thánh Giacôbê, khi thì riêng… Vậy mà – theo chính lời cha Jozo kể lại – trong 5 lần Mẹ hiện ra riêng với cha và khóc, thì 3 lần khóc vì Thánh Kinh. Khóc một cách sầu não, đến nỗi cha nói rằng : tôi thường chứng kiến những đám tang người mẹ mất con, các bà khóc lóc thảm thương, nhưng tôi chưa từng thấy bà mẹ nào khóc thảm sầu như Đức Mẹ khóc khi hiện ra với tôi và nói: “Các con đã lãng quên Thánh Kinh rồi !”
Đức Mẹ khóc vì người Công giáo bỏ Thánh Kinh, (và trong số đó có cả anh chị em đây, Mẹ cũng khóc vì anh chị em đấy), chứ Đức Mẹ có bao giờ khóc như thế vì người Tin Lành đâu. Vì người Tin Lành luôn gắn bó kề cận Kinh Thánh, miệt mài đọc và học Thánh Kinh, nhờ thế đời sống của họ thường đi đúng Lời Chúa dạy. Vậy nếu Đức Mẹ phải khóc vì người Công giáo, thì sao có thể nói Mẹ yêu thương người Công giáo hơn? Vì khi người mẹ phải khóc vì con nhất là khóc đến 3 lần – thì đó có nghĩa là đứa con hư, làm trái ý mẹ, làm mẹ đau đớn, buồn sầu.
Đức Mẹ khóc không phải vì thương quyển Thánh Kinh bị bỏ rơi, nhưng vì lo cho chúng ta, rất có thể bị loại ra khỏi Nước Trời, bởi vì không thi hành lời Chúa dạy. Chính Chúa Giêsu cảnh báo :
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : ‘Lạy Chúa ! Lạy Chúa!’, là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.”(Matthêu 7.21).
Nói câu này, Đức Giêsu muốn nói đến những kẻ đọc kinh thờ phượng ngoài môi miệng, nhưng trong cuộc sống thì không làm theo Thánh Ý Chúa Cha. Điều đó quả là đúng cho người Công giáo VN chúng ta. Không vơ đũa cả nắm, song thực tế là có nhiều người Công giáo tuyên xưng Chúa trên môi miệng, đọc Kinh Lạy Cha, kinh Tin, Cậy, Mến, Lạy Nữ Vương… theo thói quen ; dự Thánh Lễ và Rước Lễ hàng tuần, có khi hằng ngày, nhưng họ lại không thi hành Ý Chúa, dễ dàng xúc phạm đến Người bởi đủ thứ tội lỗi lớn nhỏ: Mê tín dị đoan, bói toán, cầu cơ, cờ bạc, nhậu nhẹt say xỉn, cho vay nặng lãi, đánh nhau chửi nhau, nói hành bỏ vạ, chia phe cánh kình chống nhau, phản bội sự chung thủy vợ chồng, phá thai và biết bao tội khác nữa…
Thật đúng với nhận định của Đức Mẹ : “Các con mang danh là người có đạo, nhưng các con sống như người ngoại đạo.” Hoặc là như người đời thường mỉa mai : “Ở nhà thờ thì như thiên thần, trở về nhà thì như quỉ sứ”. Vậy nếu chỉ biết thưa : ‘Lạy Chúa ! Lạy Chúa!’, mà lại không thi hành Ý của Cha trên trời thì không được vào Nước Trời, mà không được vào Nước Trời thì sẽ vào đâu ?
Bây giờ chúng ta đã có thể trả lời câu hỏi trên kia : Đức Mẹ thương ai hơn : Người Công giáo hay người Tin Lành ?
*
(Phần II : Tại sao người Công giáo không ham đọc và học Thánh Kinh ?)
Muốn thi hành Ý Chúa thì phải biết Ý Chúa, muốn biết Ý Chúa thì phải đọc và học Thánh Kinh, cách riêng các sách Tin Mừng, vì trong đó Thiên Chúa tỏ bày những Ý muốn của Người ! Không đọc, không học hỏi Kinh Thánh, Lời Chúa thì không biết Thánh Ý Chúa muốn gì, muốn mình sống thế nào ? Thậm chí Công Đồng Vatican II còn nói : “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Là Kitô hữu mà không biết Chúa Kitô thì họ thờ ai ?
Vì thế, từ không biết bao nhiêu đời nay, các Đức giáo Trưởng, các Giám Mục, linh mục, các cha giảng dạy, các sách vở thiêng liêng đạo đức hằng luôn luôn khuyên bảo, thúc giục không biết mỏi mệt các tín hữu siêng năng đọc và học Thánh Kinh, mà sao vẫn không được các tín hữu, cách riêng giáo hữu VN nghe theo ! Tại sao vậy ?
Phải truy tìm những lý do tại sao người Công giáo không ham đọc và học hỏi Thánh Kinh.
Không kể những lý do thường gặp : Nào “không có giờ” ; “bận công việc”, “phải lo sự nghiệp”, “quá bận việc nhà” v.v…; có người còn nói móc : “Học biết nhiều mà không giữ được thì càng thêm tội…”; hay là : “Biết bao nhiêu người Công giáo không học Thánh Kinh, Lời Chúa, song họ vẫn đi lễ, đọc kinh đấy, có phải vì thế mà xuống hỏa ngục cả đâu ?”, thì có lẽ những lý do lớn nhất là :
1.- Tại vì không tin Lời Chúa là vấn đề sinh tử đối với linh hồn của chúng ta !
Khi ta mắc một căn bệnh hiểm nghèo, nguy đến tính mạng, tỉ dụ như ung thư thời kỳ cuối, cái chết đã cận kề, thử hỏi ta và người nhà có đem hết sức, hết tiền của, dù có phải bán tài sản, dù có phải đi vay nợ nặng lãi v.v… để mà chạy thầy chạy thuốc cứu mạng không ? Đấy thì việc linh hồn ta cũng vậy. Nghe và giữ lời Chúa cũng phải được coi như là vấn đề cứu sống, còn không là chết !
Chỉ vì không hiểu như thế cho nên có những người nói : Giữ đạo đọc kinh xem lễ, chịu các Bí tích, giữ 10 Điều Răn Chúa, và 6 điều Luật Hội Thánh dạy cũng đủ để được rỗi linh hồn rồi ! Chẳng phải các cha, thầy vẫn dạy như thế sao, cần chi phải học Thánh Kinh, Lời Chúa nữa cho thêm mệt, đời còn biết bao chuyện khác cần phải lo ? Vì coi Thánh Kinh lời Chúa như chuyện xa xỉ như thế, nên họ rất lơ là khi nghe lời Chúa, ngay cả khi đi dự lễ ở nhà thờ, và khi nghe giảng v.v…Mà nếu có nghe thì cũng lơ đễnh nghe tai này lọt qua tai kia ra ngoài, như “nước đổ lá khoai”…
Nhiều người khác tuy không nói ra, song trong bụng lại nghĩ rằng : Lời Chúa chẳng khác gì lời dạy của các đức Phật, đức Khổng Tử, Lão tử, Mạnh tử, ráng giữ thì được danh tiếng là người “quân tử”, còn nếu không giữ thì cùng lắm là làm kẻ “tiểu nhân” thôi, chứ chẳng chết chóc gì đâu !
Có thật là không chết chóc gì đâu chăng ?
Hãy nghe lời mạnh mẽ đanh thép này của ông Môsê, tuyên bố cho người Do Thái thời xưa :
“Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn : hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ. Hôm nay tôi truyền cho anh em phải yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đi theo đường lối của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh em được sống [….] Nhưng nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp xuống lạy các (ngẫu tượng tà) thần …, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết : chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong […] Hôm nay, tôi lấy trời đất làm chứng cáo tội anh em : tôi đã đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa.” (Đnl 30.15-19).
Và đúng như những lời Môsê cảnh báo, vì dân ấy đã không tuân giữ lời Thiên Chúa dạy, đã phạm đủ thứ tội, nhất là tội thờ ngẫu tượng tà thần, cho nên họ đã bị diệt vong thực sự : Chúa để cho các cường quốc đến đánh phá đến nỗi Nước mất, nhà tan, Đền thờ bị phá hủy bình địa, dân chúng không kể những kẻ bị giết, còn phần lớn bị lưu đày viễn xứ : một quốc gia tiêu vong !
Chúa Giêsu còn biết rõ hơn ông Môsê về tầm quan trọng sinh tử của lời Chúa, vì Người là Con Một Thiên Chúa, từ thuở đời đời vẫn ngự trong cung lòng Chúa Cha, Người biết tất cả sự thật về Thiên Chúa, về loài người, cho nên Người đã xuống trần gian mặc xác thịt làm người để nói cho ta biết những sự thật rất cần thiết, (tức Lời Chúa), để ta khỏi phải lầm lũi sống trong bóng tối lầm lạc và sự chết. Vậy Người dạy rằng :
“ Thật, tôi bảo thật các ông : Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.” (Ga 5.24)
Chúa phán : Ai đón nghe lời Chúa và tin… thì có sự sống đời đời, và đã từ cõi chết mà bước vào cõi sống. Quả thật, tất cả loài người đều đã chết vì sa ngã tội lỗi. Anh chị em chúng ta đây dù là người Công giáo cũng vậy, chúng ta đều là người đã phạm tội lỗi và đã chết :
“… Sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.” (Rm 5.12)
“Anh em đã chết vì những sa ngã và tội lỗi của anh em. Xưa kia anh em đã sống trong đó, theo trào lưu của thế gian này, theo tên thủ lãnh nắm giữ quyền lực trên không trung, tên ác thần hiện đang hoạt động trên những kẻ không vâng phục. (Ep 2.1-2)
Thế mà từ cõi chết đó, chỉ nhờ đón nghe lời Chúa và tin thì có sự sống đời đời và bước vào cõi sống, lại còn không phải qua tòa Chúa phán xét nữa. Lời Chúa là vấn đề sống chết : đón nghe, tin và thi hành thì sống, trái lại thì chết. “Thật vậy, nếu các ông không tin Tôi (là Thiên Chúa), các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết.” (Ga 8.24). Thế mà có người dám bảo chẳng chết chóc gì đâu.
Dám nói liều như thế chỉ vì họ thấy thể xác họ vẫn còn sống, vẫn làm việc, vẫn ăn uống, vui chơi, ngủ nghỉ … Nhưng nên nhớ điều Chúa nói đây là việc sống chết về phần linh hồn. Đừng để đến lúc nhắm mắt lìa đời, ra trước tòa phán xét của Thiên Chúa, mà bị nghe câu phán quyết ghê sợ này thì đã quá muộn, muôn đời không còn cứu gỡ được nữa :
“Ta không hề biết các ngươi ; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác !” (Mt 7.23)
“Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó….” (Mt 25.41)
2.- Tại vì không tin Lời Chúa có sức cải tạo con người :
“Đức Giê-su lại nói với người Do-thái : “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8.12)
Chúng ta đã nhiều lần có kinh nghiệm về bóng tối, qua những lần bị cúp điện. Đang sinh hoạt, bất chợt cúp điện tối om, thế là phải lò mò đi trong tối, tìm cái bật lửa… Đi như thế có lúc va vào cái bàn, xô phải cái ghế, lúc thì đụng vào bình hoa, chén bát làm rơi vỡ tan tành…. Đó là hình ảnh những đổ vỡ, những lầm lỡ mặt thiêng liêng của linh hồn, khi ta không có lời Chúa soi sáng: Biết bao lần ta đi vào đường lầm lạc, lúc thì tin vơ thờ quấy, mê tín dị đoan, kiêng cữ nhảm nhí, vì sợ xui xẻo…Lúc thì làm điều tội lỗi xấu xa xúc phạm đến Thiên Chúa, khi thì làm những điều bậy bạ hại mình, hại người… Rồi thấy mình đầy những tính mê nết xấu, những dục vọng, đam mê, nhiều khi thâm căn cố đế, gia đình, bạn bè khuyên bảo hết lời mà ta chẳng chịu sửa, hay muốn sửa cũng chẳng sửa được ! Ta vốn là con người yếu đuối, không thể tự sửa mình được. Chẳng phải chính Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ :
“Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26.41) - “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15.5)
Không có Chúa thì làm sao có sức thần linh mà vượt thắng yếu đuối của mình ? Không có lời Chúa như đèn soi, làm sao ta biết sai quấy mà tránh ? Nếu cứ kéo dài tình trạng như thế, bao nhiêu lần xưng tội, thì bấy nhiêu lần không chừa, thử hỏi lúc cái chết ập đến, ta sẽ đi về đâu ? Chắc chắn là không phải là về thiên đàng rồi. Vì Thiên đàng là nơi Thiên Chúa vô cùng thánh thiện ngự, Người không chấp nhận một chút tỳ ố, ngay cả một chút bóng mờ tội lỗi cũng không, thì làm sao ta hòng vào được !
Vậy, cần thiết phải chạy đến Chúa ngay từ bây giờ khi chưa quá trễ, và Người sẽ dùng lời Người để uốn nắn, sửa dạy, biến đổi chúng ta, vì lời Người có một sức mạnh nhiệm mầu, ta không thể đo lường được :
“Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi : xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người.” (Dt 4.12)
Tiểu sử Thánh Antôn ẩn tu là một ví dụ minh họa : Sau khi cha mẹ Antôn chết được sáu tháng, một hôm cậu đi đến nhà thờ như thường lệ, vừa đi vừa nghĩ đến những bổn đạo trong sách Công vụ tông đồ bán hết của cải mình, đem đặt tiền dưới chân các tông đồ để các Ngài phân phát cho những anh chị em nghèo, vì hy vọng được phần thưởng lớn trên trời. Đang nghĩ như thế, cậu bước vào nhà thờ, ngay lúc đang đọc Tin Mừng, ở đoạn Chúa Giêsu nói với người thanh niên giàu có : “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, hãy đi bán hết tài sản anh có và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Đoạn hãy đến theo Ta” (Mt 19.21). Antôn có cảm tưởng Thiên Chúa nói câu đó với mình. Thế là cậu về nhà, ruộng nương đất đai cha mẹ để lại, cậu đem cho người trong làng, rồi bán hết đồ đạc, phân phát tiền cho kẻ nghèo, trừ một khoản dành lại để nhờ các sơ nuôi nấng và giáo dục cô em gái của mình. Còn Antôn, từ đó chọn một nơi thanh vắng, sống đời khổ hạnh nghiêm ngặt, trong cầu nguyện liên lỉ, và luôn lắng nghe lời Chúa, không muốn để mất một lời nào của Kinh Thánh, đến nỗi sau này, trí nhớ của ngài thuộc lòng hầu hết các câu Kinh Thánh, không cần phải nhờ đến sách nữa. Tất cả những ai lui tới với ngài, đều coi ngài là bạn của Thiên Chúa. (Lược tóm Bài Kinh sách lễ T.Antôn ẩn tu, ngày 17 tháng giêng).
3.- Tại vì không có phương pháp đọc Kinh Thánh.
Chắc chắn có nhiều anh chị em “thiện chí”, sau khi nghe các cha các thầy khuyến khích đọc và học hỏi Thánh Kinh, cũng muốn thi hành. Song họ thấy mình như “chim chích lạc vào rừng” trước pho Thánh Kinh dầy cộm mênh mông, với bao nhiêu khó khăn khó hiểu, nên không biết làm thế nào, không biết bắt đầu từ đâu, đọc làm sao…, riết rồi đâm nản chí, và cuối cùng bỏ cuộc !
Đúng vậy, khuyến khích đọc Thánh Kinh thì nhiều, nhưng đưa ra phương pháp đọc Thánh Kinh thì ít, hay đúng hơn ít được phổ biến, hoặc quá phức tạp, cho nên tình trạng không ham đọc và học hỏi Thánh Kinh vẫn cứ tồn tại qua bao năm tháng rồi. Dầu đã biết có những phương pháp rất hay, chúng tôi vẫn thấy có một cách đọc và học hỏi Thánh Kinh khá đơn giản để đem giới thiệu cho anh chị em! Đây không phải là phương pháp theo đúng nghĩa, chỉ là một cách thức bình dân dẫn dắt những ai đi những bước đầu vào việc đọc và học hỏi Thánh Kinh, được cảm thấy dễ dàng, nhẹ nhàng không khó khăn như thường tưởng tượng!
·
Chúng tôi biết có một quyển sách, nhan đề là “100 BÀI GIÁO LÝ THÁNH KINH”, nó sẽ giúp anh chị em làm quen với Kinh Thánh được dễ dàng, vì :
nội dung của nó thì học hỏi về 10 Điều Răn ; sau đó thì trình bày về mấy điểm trụ cột của Đạo Chúa ; còn hình thức thì chia thành từng bài ngắn, đầu mỗi bài sẽ trích dẫn một đoạn Thánh Kinh Cựu Ước hay Tân Ước, tiếp theo là lời dẫn giải cụ thể, dễ hiểu, áp dụng vào đời sống thực tế…, và kết thúc là một tích truyện ngắn.
·
Sau việc trên này, bây giờ xin giới thiệu thêm một cách đọc và học hỏi Thánh Kinh khác tiếp theo cách trên đây, song qui củ hơn, nên cần cố gắng hơn một chút, đó là hai quyển nhan đề “LỐI SỐNG ĐẠO MỚI” :
Nội dung chính của hai quyển này là “Bài Giảng Trên Núi” của Chúa Giêsu được Thánh sử Matthêu ghi lại trong sách Tin Mừng của ông. Bài giảng này rất quan trọng, nó hầu như gồm tóm những điều Chúa Giêsu dạy để sống Đạo Chúa theo đúng tinh thần của Chúa, tuy nó không phải là bản tổng hợp đầy đủ hết mọi chân lý trong Đạo.
Hình thức của hai quyển này là chia từng đoạn, rồi giải nghĩa từng câu lời Chúa. Nếu một câu lại có nhiều chữ quan trọng, thì lại giải nghĩa từng chữ.
Lấy ví dụ cụ thể :
Tập II, Chương V, câu 3, Chúa bảo : “Phúc cho những kẻ có tinh thần khó nghèo, vì Nước Trời là của họ.”
Chúng ta muốn tìm hiểu “Phúc cho…” là cái phúc gì ? Rồi “cho những kẻ có tinh thần nghèo khó” là ai ? Mà sao lại phải có tinh thần khó nghèo mới được phúc ? Còn “Nước Trời là của họ”, Nước Trời là Nước nào ? Ở đâu ? Đời này đã được chưa hay là sau khi chết mới được ?
Tất cả những câu ấy và từng chữ sẽ được giải nghĩa đầy đủ. Chỉ cần anh chị em mở Mục Lục ở cuối sách, tìm Chương V, sẽ thấy bày ra từng câu lời Chúa, có đánh số thứ tự (C.1 ; C.2; v.v…)
Vậy cụ thể kết quả tìm kiếm là như thế này :
- câu 3 này : “Phúc cho…” sẽ được giải nghĩa ở trang 214 ;
- “kẻ có tinh thần nghèo khó” … ở trang 234
- “Nước Trời là của họ” … ở trang 244
Anh chị em sẽ thấy cách làm này giống như tra Tự Điển.
Tập đọc và học Thánh Kinh nhờ mấy quyển sách trên này như vừa trình bày, hóa ra làm “một công hai chuyện” : vừa tập đọc Thánh Kinh, lại vừa học được những bài Chúa dạy quí báu về cách sống Đạo Chúa !
Cầu chúc anh chị em thành công.
Nhất là cầu xin Chúa ban cho anh chị em được hưởng Sự sống bởi lời Chúa, vì có lời Chúa Giêsu phán rằng :
“Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là Sự Sống.” (Ga 6.63)
Và cùng với tông đồ Si-môn Phê-rô, anh chị em thưa lại với Người :
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6.68)
--- o 0 o ---
N.B. Các sách giới thiệu trên, có thể tìm ở mấy nhà sách Công giáo lớn, nhất là
NHÀ SÁCH HÒA BÌNH, bên cạnh Nhà Thờ Chánh Tòa Đức Bà Sàigòn, Q.1.
hay NHÀ SÁCH ĐỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP, Dòng Chúa Cứu Thế, 38, Kỳ đồng, Q.3.
V.v…