Giới trẻ miền Bắc học hỏi về Công Đồng Vaticanô II
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lm Phạm Thanh Quang
GIỚI TRẺ MIỀN BẮC HỌC HỎI VỀ CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II
Lm. Giuse Phạm Thanh Quang CSsR
LỜI NÓI ĐẦU
Các bạn trẻ thân mến, người ta bảo:” Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Ở đây, chúng ta không đi bằng những bước chân dài cụ thể tự nhiên để học những cái khôn ở đời, nhưng đi bằng những “bước chân của tri thức, của sự học hỏi, của sự đào sâu” tinh thần của Công Đồng Vaticanô II để học những cái khôn của Hội thánh dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Một khi đã hiểu sâu về Công Đồng rồi, chắc chắn các bạn rất dễ cảm thông và chia sẻ tất cả những ưu tư, những mối lo và những công việc của Hội Thánh. Từ đó, các bạn dễ dàng cộng tác để góp phần mình xây dựng Hội Thánh Công Giáo mà trong đó chính các bạn là thành phần tích cực, xây dựng thế giới này theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta sẽ lần lượt học hỏi từ đầu cho đến cuối cuốn Công Đồng Vaticanô II. Cách thức học hỏi: chúng ta sẽ tìm hiểu, học hỏi dưới dạng hỏi đáp (theo số) thông thường, dễ hiểu, không quá dài dòng. Chúng ta sẽ tìm hiểu theo chương mục của Công Đồng để tiện bề theo dõi. Chúng ta sẽ chia thành nhiều kỳ. Có thể một tuần một kỳ. Để có thể học hỏi cho hết và cho thấu đáo, đòi mỗi chúng ta phải có sự kiên trì, nhẫn nại, không nóng vội, không buông xuôi nhưng theo đuổi cho đến cùng. “Có công mài sắt có ngày nên kim”.
Chúc các bạn được dồi dào sức khỏe, niềm vui, hạnh phúc, giàu nghị lực và dư tràn ơn Chúa và đặc biệt là thành công trong việc học hỏi Công Đồng Vaticanô II.
Hy vọng những gì các bạn học hỏi được từ Công Đồng Vaticanô II sẽ mang lại thật nhiều lợi ích cho các bạn và như là những hành trang giúp các bạn vững vàng trên đôi chân của người tín hữu với đức tin kiên trung và lòng hăng say nhiệt huyết vô hạn.
Linh Mục Giuse Phạm Thanh Quang CSsR
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ MỤC LỤC TỔNG QUÁT
1. Thưa cha, chúng ta dựa vào đâu để học hỏi về Công Đồng Vaticanô II?
Chúng ta dựa vào văn kiện “Công Đồng Vaticanô II” do Phân Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X dịch, xuất bản năm 1972.
2. Văn kiện của Công Đồng Vaticanô II gồm bao nhiêu trang?
Gồm 1371 trang, kể cả phần chú thích.
3. Thưa cha, nội dung chủ yếu mà Công Đồng Vaticanô II đề cập đến là gì ạ?
Công Đồng Vaticanô II đề cập đến khá nhiều lĩnh vực. Nội dung chủ yếu bao gồm:
- Phụng Vụ.
- Truyền thông xã hội.
- Giáo Hội Công Giáo.
- Giáo Hội Công Giáo Đông Phương.
- Sự hiệp nhất.
- Giám mục.
- Dòng tu.
- Đào tạo Linh mục.
- Giáo dục Kitô giáo.
- Các tôn giáo ngoài Kitô giáo.
- Mạc khải của Thiên Chúa.
- Tông đồ giáo dân.
- Tự do tôn giáo.
- Truyền giáo.
- Linh mục.
- Mục vụ.
- Các sứ điệp (gửi đến tất cả mọi người; gửi đến toàn thể nhân loại).
4. Vậy nếu phải định nghĩa, thì chúng ta định nghĩa Công Đồng là gì?
Công Đồng là một hội nghị gồm các Giám mục và một số vị trong Giáo Hội chính thức nhóm họp với mục đích bàn luận và quyết định những vấn đề thuộc giáo lý hoặc quy luật của Giáo Hội.
5. Thưa cha, có mấy cấp bậc Công Đồng?
Có hai cấp bậc: Công Đồng phổ quát (tức Công Đồng Chung) và Công Đồng Riêng.
6. Thế nào là Công Đồng Chung và thế nào là Công Đồng Riêng?
- Công Đồng Chung: là một Hội nghị toàn thể các Giám mục trên thế giới của Giáo Hội được triệu tập do và dưới quyền của Đức Giáo Hoàng.
- Công Đồng Riêng (Đại Công Đồng): là một Hội nghị gồm các Giám mục của khu vực nào đó trong Giáo Hội.
7. Chắc Công Đồng phải có thẩm quyền chứ thưa cha?
Có chứ. Công Đồng có thẩm quyền tối thượng trong Giáo Hội.
8. Xin cha cho biết trong lịch sử Giáo Hội có bao nhiêu Công Đồng?
Chính thức có 21 Công Đồng, ngoài ra còn có 7 Công Đồng đầu tiên nữa.
9. Kính chào cha! Xin cha vui lòng cho chúng con biết tên từng Công Đồng, năm nào, do ai triệu tập, nhằm mục đích gì?
* 7 Công Đồng đầu tiên:
- Công Đồng Giêrusalem, là hội nghị của các Tông Đồ vào khoảng năm 48-50.
- Công Đồng Elvira Tây Ban Nha, đời vua Constantinô đầu thế kỷ thứ IV: công bố luật độc thân giáo sĩ.
- Công Đồng Arles Pháp được nhóm họp để chống lại lạc giáo Đonatô.
- Công Đồng Carthagô năm 256 do thánh Cyprianô khởi xướng.
- Công Đồng Tôlêđô.
- Còn lại 2 Công Đồng nữa đều do hoàng đế Constantinô hay nữ hoàng triệu tập.
9.1. Công Đồng Nicea I (Nikaia) năm 325: lên án lạc giáo Ariô và định tín Ngôi Lời đồng bản tính với Đức Chúa Cha.
9.2. Công Đồng Constantinopla I năm 381, do hoàng đế Theodosiô triệu tập: lên án lạc giáo Macedoniô và tuyên bố thiên tính của Chúa Thánh Thần.
9.3. Công Đồng Êphêsô năm 431, do hoàng đế Theodosiô II triệu tập. Công Đồng lên án 2 thủ lãnh lạc giáo: Nestoriô và Pelagiô; tuyên bố Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa; xác định sự Ngôi hiệp nơi Chúa Kitô.
9.4. Công Đồng Calcedonia (Khalkedon) năm 451, do Hoàng đế Marcianô triệu tập: lên án thủ lãnh lạc giáo Eutiches và tuyên bố Chúa Kitô có một ngôi vị và hai bản tính.
9.5. Công Đồng Constantinopla II năm 553, do hoàng đế Giustianô I triệu tập: lên án “Ba giảng thuyết” tức các tác giả Origenes, Theodoretô và Ibas.
9.6. Công Đồng Constantinopla III năm 680: lên án lạc giáo “nhị - tính - nhất - ý” và dạy rằng Chúa Kitô có 2 ý chí.
9.7. Công Đồng Nicea II (Nikaia) năm 787: lên án phái chủ trương bác bỏ việc tôn kính ảnh tượng.
9.8. Công Đồng Constantinopla IV năm 870 do Hoàng đế Basiliô triệu tập: lên án Đức Thượng Phụ Photios. Sau này Công Đồng này bị hủy bỏ bởi Công Đồng năm 880.
9.9. Công Đồng Lateranô I năm 1123 do Đức Giáo Hoàng Callistô II triệu tập: bàn luận về vấn đề “ban chức”.
9.10. Công Đồng Lateranô II năm 1139 do Đức Giáo Hoàng Innocentiô II triệu tập: lên án các giáo phái ly khai và đề cập tới vấn đề quy luật.
9.11. Công Đồng Lateranô III năm 1179 do Đức Giáo Hoàng Alexandrô III triệu tập: bàn về việc bầu Giáo Hoàng và lên án lạc giáo Albigenses (Cathari).
9.12. Công Đồng Lateranô IV năm 1215 do Đức Giáo Hoàng Innocentiô III triệu tập: lên án lạc giáo Albigeois và các lạc giáo do P. de Vaux và do Joachim khởi xướng.
9.13. Công Đồng Lyon I năm 1245 do Đức Giáo Hoàng Innocentiô IV triệu tập: nhằm cách chức Hoàng đế Frederic II.
9.14. Công Đồng Lyon II năm 1274 do Đức Giáo Hoàng Gregoriô X triệu tập (có thánh Tôma và thánh Bônaventura dự): bàn luận về vấn đề hiệp nhất giữa Giáo Hội Đông Phương và Giáo Hội Tây Phương.
9.15. Công Đồng Vienne năm 1321 do Đức Giáo Hoàng Clêmentê V triệu tập: nhằm hủy bỏ Dòng tu Đền Thờ và lên án lạc giáo do Lambert de Bègue chủ xướng.
9.16. Công Đồng Constance năm 1414 đến năm 1418 do Hoàng đế Segismunđô triệu tập: nhằm bãi nhiệm 3 Đức Giáo Hoàng đang tranh chấp nhau, chấm dứt tình trạng ly khai ở Tây Phương, lên án Wiclef và Huss. Công Đồng bầu chọn Giáo Hoàng Martinô V.
9.17. Công Đồng Firenze năm 1438 đến 1445 do Đức Giáo Hoàng Eugeniô IV triệu tập (3 nơi: Basel, Ferrara và Firenze): Đưa ra một bản công thức hiệp nhất.
9.18. Công Đồng Lateranô V năm 1512 đến 1517 do Đức giáo Hoàng Giuliô II triệu tập: bàn về vấn đề canh tân Giáo Hội và lên án những người chủ xướng tân thuyết Aristoteles (Neo-aristotelismô).
9.19. Công Đồng Triden năm 1545 đến 1563 do Đức Giáo Hoàng Phaolô III triệu tập: lên án giáo phái Tin Lành và tuyên bố nhiều định tín khác; ra lệnh canh tân Giáo Hội.
9.20. Công Đồng Vaticanô I năm 1870 do Đức Giáo Hoàng Piô IX triệu tập: lên án thuyết duy lý và thuyết chủ trương Giáo Hội Pháp độc lập; tuyên bố tính cách “bất khả ngộ” của Đức Giáo Hoàng.
9.21 Công Đồng Vaticanô II: ngày 11.10.1962 khai mạc và ngày 8.12.1965 kết thúc. Công Đồng do Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII triệu tập (ngài từ trần ngày 3.6.1963) và Đức Giáo Hoàng Phaolô VI bế mạc.
10. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII loan báo triệu tập Công Đồng Vaticanô II khi nào?
Ngài loan báo triệu tập Công Đồng vào ngày 25.1.1959, làm cả thế giới ngạc nhiên. Ngài kêu gọi: “Chúng ta hãy hiệp nhất với nhau và chúng ta hãy chấm dứt mọi bất hòa”.
11. Việc triệu tập Công Đồng Vaticanô II đã đem lại sự tiến bộ gì?
Việc triệu tập ấy đã đưa Giáo Hội thoát xa “duy giáo hoàng thuyết” (tức định tín về ơn bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng và coi quyền giáo huấn thông thường của Đức Giáo Hoàng là “mực thước của đức tin”), để đến gần với “nguồn Phúc Âm” hơn.
12. Vậy xin cha cho biết điều mới mẻ cụ thể của việc triệu tập Công Đồng Vaticanô II là gì?
Điều mới mẻ không phải phát sinh từ việc học hỏi các tài liệu, nhưng từ những nhu cầu cấp bách thực tế của Giáo Hội. Và đó cũng là hướng đi đặc biệt của Công Đồng Vaticanô II.
13. Vậy vào năm 1959, Giáo Hội có gặp phải những khó khăn nào không ạ?
Không, Giáo Hội không phải bận tâm về một khó khăn nào: không có lạc giáo, không có bách hại. Ngược lại, khi đó uy thế của Giáo Hội lớn mạnh hơn lúc nào hết. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn thẳng vào thực tế của xã hội và Giáo Hội lúc đó: sau Công Đồng Vaticanô I, thế giới đã thay đổi còn nhanh hơn 19 thế kỷ qua! Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã có hấp lực lớn hướng nhân loại về viễn ảnh tương lai, trong tầm tay của mình. Dường như con người đặt trọn niềm hy vọng của mình nơi thế giới vật chất này. Bởi lẽ, đối với họ, những hứa hẹn của các tôn giáo đều tan vỡ?!
14. Thưa cha, hóa ra con người đánh mất chính mình vì mất niềm tin, niềm hy vọng và sống vô định sao?
Không phải thế, Giáo Hội lúc đó phải đương đầu với vấn nạn cực kỳ khó khăn đó, nhưng thật may, hơn bao giờ hết, con người lại cảm thấy chính bản thân mình luôn bị đe dọa do chính những khám phá của họ: mối lo âu tột độ của hiểm họa tiêu diệt của bom nguyên tử, bầu khí thiếu lành mạnh và nhiễm độc của môi trường văn minh, các cuộc chiến tranh liên lỉ,…
15. Nãy giờ cha toàn nói về vấn nạn của xã hội, còn về phía Giáo Hội thì sao cơ?
À, đúng rồi! Còn về phía Giáo Hội, các Kitô hữu, thành phần thiểu số của thế giới lại chia rẽ hơn bao giờ hết. Giáo Hội Công Giáo lại mất đi những cơ hội truyền giáo hứa hẹn nhất, và đau đớn vì những rạn nứt nội bộ không ngừng xảy ra nơi các xứ Kitô giáo lâu đời. Bởi thế, sự hiệp nhất Kitô hữu là hết sức cần thiết.
Những vấn đề ấy là những lý do đủ để khai mở Công Đồng.
16. Xin cha cho biết cách sơ lược về giai đoạn chuẩn bị cho Công Đồng Vaticanô II?
Phải nói rằng, người ta đã dành ra thời gian khá dài để chuẩn bị cho Công Đồng Vaticanô II (từ 17.5.1959 đến 11.10.1962), chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn tiền chuẩn bị và giai đoạn chuẩn bị.
16.1 Giai đoạn tiền chuẩn bị (từ 17.5.1959 đến 5.6.1960):
Người ta đã không dùng phương pháp là tiếp tục công trình của Vaticanô I, nhưng đã khởi đi từ những vấn đề mới. Người ta có thể bàn luận những chủ đề do Tòa Thánh đề nghị hoặc là hỏi ý kiến các Giám Mục về những đề mục. Lần đầu tiên trong lịch sử, các Nghị Phụ Công Đồng tương lai được tham khảo ý kiến. Ngay cả các trường Đại Học cũng được thăm dò. Hơn nữa, một sự kiện chưa từng có là không có vấn đề giới hạn các đề mục. Con số trả lời lên đến 2109 làm thành 8 quyển. Người ta tổng kết được gồm có 8972 đề nghị.
Còn về tên gọi của Công Đồng thì sao? Người ta bàn thảo sôi nổi không biết đó có phải là một Công Đồng khác hay chỉ là kế tiếp của Công Đồng Vaticanô I. Cuối cùng, vào ngày 7.12.1959, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII chính thức đặt tên là Công Đồng Vaticanô II.
16.2 Giai đoạn chuẩn bị (từ 14.11.1960 đến 11.10.1962):
Ngày 14.11.1960, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đọc diễn văn khai mạc giai đoạn chuẩn bị trước 33 Hồng Y và hàng trăm Giám Mục. Ngài nói: “Mục đích của Công Đồng là đem lại chân giá trị cho tư tưởng con người, cũng như cho đời sống nhân loại và Kitô giáo”, trong một tinh thần biết tìm về nguồn và biết vâng theo Chúa Thánh Thần.
Công việc chuẩn bị thật chu đáo, đầy vất vả. Các Ủy Ban phải làm việc ngày đêm, soạn thảo các lược đồ, phải họp nhau liên tục, bên cạnh luôn có các nhà chuyên môn tài giỏi,… Thành quả của những công việc lâu dài này là 70 dự án được chấp thuận, làm thành 2060 trang giấy in. Các bạn khó có thể mường tượng ra được công việc chuẩn bị đầy khó khăn và vất vả như thế nào. Tuy nhiên, với những dự án, lược đồ cũng như các chất liệu có trong tay, như là những “nắm bột” để “gột nên hồ” nghĩa là hình thành nên một Công Đồng Vaticanô II nổi tiếng và giá trị mà chúng ta sẽ thấy sau này. Tôi và các bạn sẽ tiếp tục tìm hiểu sau.
17. Thưa cha, Công Đồng Vaticanô II có bao nhiêu kỳ họp? Nội dung sơ lược như thế nào ạ?
Công Đồng Vaticanô II có bốn kỳ họp.
- Kỳ họp thứ nhất (từ 11.10 đến 8.12.1962). Ngày 2.2.1962, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII chính thức khai mạc Công Đồng Vaticanô II với tự sắc Concilium. Các Nghị Phụ hiện diện nhiều nhất trong kỳ họp là 2449 vị. Đức Giáo Hoàng đã nhấn mạnh những vấn đề quan trọng trong diễn văn khai mạc của mình:
+ Cởi mở với thế giới;
+ Thông cảm chứ không lên án tuyệt thông;
+ Xót thương hơn là khắt khe;
+ Nhận chân ra rằng, thế giới cũng rất nhạy cảm, không chấp nhận sai lầm;
+ Loan truyền Tin Mừng với niềm hy vọng hơn là với tâm trạng của “những ngôn sứ loan báo sự dữ”.
Trong kỳ họp này, người ta đã bàn về các lược đồ như “Phụng Vụ, nguồn Mạc Khải, chân lý, linh hứng, thánh truyền, phương tiện truyền thông xã hội, hiệp nhất các Kitô hữu, Giáo Hội,… Hầu hết đều bị bác bỏ vì chưa đạt yêu cầu. Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng đã rút lại còn 20 lược đồ.
Trong thời gian này, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã qua đời. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI (tức Đức Hồng Y Montini) lên kế vị.
- Kỳ họp thứ hai (từ 29.9 đến 4.12.1963)
Đức giáo Hoàng Phaolô VI đã mạnh dạn cải tổ lại các quy tắc của Công Đồng Vaticanô II để đem đến hiệu năng hơn. Ngài mạnh mẽ tuyên bố chỉnh đốn lại giáo triều Rôma vào ngày 21.9.1963, điều mà Đức Gioan XXIII không dám nghĩ tới.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tuyên bố và nhấn mạnh các vấn đề trong bài diễn văn khai mạc của mình:
+ Thánh Công Đồng phải đào sâu Giáo lý về chức Giám mục, về những nhiệm vụ và những liên lạc của chức vụ đó với Phêrô. Giáo lý cần trở nên thiết thực và thích ứng hơn.
+ Ngài nói đến những anh em bất hòa (chứ không phải “ly khai”) là những người được mời gọi để trở nên đồng tâm nhất trí với Giáo Hội”
+ Một điều táo bạo và chưa từng có từ trước đến nay là chính Đức Giáo Hoàng lên tiếng cầu xin sự tha thứ của Thiên Chúa và của những anh em bất hòa này vì những lỗi lầm của Giáo Hội Rôma trong việc chia rẽ Kitô giáo.
Các lược đồ được đề cập đến là: Giáo Hội, các Giám mục và sự điều khiển Giáo phận, vấn đề hiệp nhất, người Do Thái, tự do tôn giáo, giáo dân, Mạc Khải,…
Chúng ta thấy có sự thay đổi lớn về cách nhìn của công thức ban hành của Đức Giáo Hoàng. Trước kia: “Ta ra sắc lệnh, thiết lập và phê chuẩn… với sự chấp thuận của Thánh Công Đồng”. Nghĩa là Đức Giáo Hoàng công bố và Công Đồng chỉ có việc chấp nhận. Như thế “cộng đoàn tính” của các Giám mục vẫn còn là một vấn nạn. Nhưng nay đã khác, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã sử dụng một công thức khác: “Tất cả và từng điều được ban bố trong Hiến Chế… này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, dùng quyền Tông Đồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính… Chúng tôi phê chuẩn…”. Đây là một bước tiến rất lớn thể hiện tính cách cộng đoàn của các Giám mục.
+ Theo ý kiến của Đức Giáo Hoàng, tất cả các lược đồ của Công Đồng sẽ được bố cục lại dựa theo trục chính là Giáo Hội.
- Kỳ họp thứ ba (từ 14.9 đến 21.11.1964)
Kỳ họp được khai mạc bằng một thánh lễ đồng tế, là kết quả đầu tiên của việc canh tân phụng vụ (các bạn biết đó, trước Công Đồng, các linh mục dâng lễ một mình và quay lên chứ không quay xuống phía giáo dân như ta thấy bây giờ, và như thế, không có chuyện đồng tế). Đức Giáo Hoàng đã đề cao tính cách cộng đoàn tính của các Giám mục.
Người ta bàn nhiều về Giáo Hội, nhiệm vụ mục vụ của các Giám mục, tự do tôn giáo, Mạc Khải, Tông đồ giáo dân (lần đầu tiên Công Đồng Vaticanô II đề cập đến vấn đề này), Linh mục, các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, mục vụ của Giáo Hội trong thế giới ngày nay (đây cũng là vấn đề quan trọng nhất của kỳ họp thứ ba này và được thế giới hồi hộp theo dõi), truyền giáo (do Đức Giáo Hoàng giới thiệu nhưng do quá giản lược nên đã bị các Nghị Phụ thẳng tay bác bỏ! Qua đó cho các bạn và tôi thấy tính nghiêm minh và dân chủ của Công Đồng như thế nào), Dòng tu, Chủng Viện, giáo dục Kitô giáo, các Bí tích, hiệp nhất,…
- Kỳ họp thứ tư (từ 14.9 đến 8.12.1965)
Trong bài diễn văn khai mạc kỳ họp này, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI loan báo quyết định thành lập Thượng Hội Đồng Giám mục, gây ngạc nhiên cho mọi người. Đây quả là một bước tiến lớn trên con đường canh tân Giáo Hội.
Người ta đã bàn về các vấn đề như Tự do tôn giáo, Giáo Hội trong thế giới ngày nay (hay còn gọi là Hiến chế mục vụ), truyền giáo, chức vụ và đời sống Linh mục, đào tạo Linh mục, Giám mục, Dòng tu, giáo dục Kitô giáo, các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Mạc Khải, Tông đồ giáo dân,…
Ngày 28.10.1965, khóa VII được khai mạc. Trong dịp này, Đức Giáo Hoàng đã cử hành thánh lễ đồng tế cùng với 24 Nghị Phụ (trong đó có Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình) và chính thức công bố 5 văn kiện đã được chấp thuận.
Những ngày cuối của Công Đồng được đánh dấu bằng những sự kiện mang ý nghĩa hiệp nhất đáng nhớ. Chẳng hạn, tại Vương cung Thánh đường thánh Phaolô, cùng với các quan sát viên ngoài Công Giáo, Đức Giáo Hoàng đã dự một lễ nghi cầu cho hiệp nhất. Một sự kiện khác cũng đáng chú ý, đó là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ở Rôma và Đức Thượng Phụ Athenagoras ở Istanbul đã cùng một lúc xóa bỏ án tuyệt thông lẫn nhau vào ngày 7.12.1965 (mà các bạn biết rồi, vì lên án tuyệt thông lẫn nhau nên đã gây ra sự ly khai vào năm 1054). Chính những bước đi xa như thế này đã đem lại cho Công Đồng Vaticanô II luồng sinh lực mới, niềm vui mới, kết quả lớn và giá trị bậc nhất!
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II
18. Thưa cha, tựu trung lại thì đâu là những đặc điểm đặc sắc của Công Đồng Vaticanô II?
Đúng rồi, chúng ta cũng cần tóm lược những đặc điểm đặc sắc của Công Đồng Vaticanô II. Từ đó, chúng ta có thể thấy rõ những ưu điểm nổi bật tuyệt vời của Công Đồng. Vậy, những đặc điểm đặc sắc đó là:
18.1 Công Giáo tính:
Từ trước đến giờ, chúng ta chưa thấy có một Công Đồng nào mang tính Công Giáo đầy đủ như Công Đồng Vaticanô II. Cụ thể như sau:
- Về các vấn đề: Công Đồng đã đề cập đến rất nhiều vấn đề phức tạp và phong phú, rộng rãi và sâu sắc.
- Về các Nghị Phụ: gồm hầu hết các Nghị Phụ toàn thế giới có mặt tại Công Đồng. Có 3058 vị được triệu tập, trong đó có 129 Bề Trên Tổng Quyền các Dòng. Châu Âu 1060 vị, Châu Á 408 vị, Châu Phi 351 vị, Châu Mỹ 1036 vị, Châu Úc 74 vị.
- Về lần phát biểu: Các ngài đã phát biểu tổng cộng 2234 lần. Trong đó các Nghị Phụ Việt Nam lên tiếng 16 lần.
- Về các nhà chuyên môn: Có tới 460 vị; gồm 235 linh mục Triều, 125 tu sĩ Dòng và một số giáo dân.
- Về các cha sở: họ được mời với tư cách dự thính viên, tuy nhiên vẫn có thể lên tiếng trước Công Nghị. Có tất cả 39 vị tham dự.
- Về giáo dân: Có 42 tham dự viên. Trong đó có cả 2 vợ chồng người Mêxicô là J.Alvares Icaza. Giáo dân đã lên tiếng đóng góp ý kiến 6 lần.
18.2 Tinh thần hiệp nhất:
Thực sự, Công Đồng Vaticanô II đã đáp lại nguyện vọng của Đức Gioan XXIII là tạo nên được tinh thần hiệp nhất sâu sắc: đối với Giáo Hội, đối với những người khác tôn giáo, đối với thế giới,… Thậm chí chúng ta còn thấy có cả các quan sát viên của Công Đồng ngoài Công Giáo (con số cao nhất lên tới 106 vị).
19. Vậy còn về tài liệu, văn bản và ấn loát như thế nào ạ?
Ủy Ban ấn loát của Tòa Thánh đã phải làm việc ngày đêm. Họ đã phát hành 19 quyển sách, mỗi quyển 2000 bản. Con số ấn loát các văn bản lên tới 40 triệu trang! Ngoài ra còn 16 triệu trang khác được in cho các Nghị Phụ sử dụng riêng. Người ta đã sử dụng đến 150 tấn giấy! Các chuyên viên Đài phát thanh đã tiêu thụ tới 712 cuốn băng, dài khoảng 284.000 mét! Các bạn thấy đó, đúng là Đại Công Đồng!
NHỮNG Ý HƯỚNG CHÍNH CỦA CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II
20. Thực sự, chúng con chưa rõ lắm về ý hướng chính của Công Đồng Vaticanô II là gì, vậy cha có thể cho chúng con biết rõ được không?
À được chứ. Công Đồng Vaticanô II có những ý hướng chính sau đây:
20.1 Công Đồng nói về chính Giáo Hội:
Giáo Hội là trung tâm điểm cho giáo lý của Công Đồng Vaticanô II. Lần đầu tiên trong lịch sử có một Công Đồng đi tìm định nghĩa về chính mình.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã bận tâm lớn về sự hiệp nhất các Kitô hữu. Nhưng điều này không dễ chút nào. Vậy, trước tiên cần phải đổi mới chính bộ mặt của Giáo Hội. Công Đồng phải làm linh động và hiệu quả mọi cơ cấu của Hội Thánh. Bởi thế, các bạn đừng ngạc nhiên khi thấy Hiến chế Tín lý về Giáo Hội ra đời. Hiến chế này cũng soi sáng cho các văn kiện khác của Công Đồng.
Các bạn biết đó, Công Đồng đã dựa vào các hình ảnh trong Kinh Thánh mà định nghĩa về chính mình: chẳng hạn như “Dân Thiên Chúa” (ý nhấn mạnh về lĩnh vực lịch sử và xã hội của Giáo Hội); “Thân thể Chúa Kitô” (nhấn mạnh về Kitô học, huyền nhiệm Hội Thánh); “Nước Thiên Chúa” (nhấn mạnh khía cạnh cánh chung); “Đoàn chiên”; “”Cánh đồng”; “Công trình kiến trúc”; “Gia đình” của Thiên Chúa; “Đền thờ” của Chúa Thánh Thần; “Hiền thê” của Chúa Kitô.
Tóm lại, chúng ta có thể nói tất cả các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II đều xoay quanh vấn đề Giáo Hội. Hay chúng ta có thể quả quyết rằng: Giáo Hội là tâm điểm của Công Đồng Vaticanô II.
20.2 Công Đồng nói mạnh về tự do và đối thoại:
Các bạn rất quý mến, chúng ta hãy xem điểm thứ hai này Công Đồng nói như thế nào. Công Đồng Vaticanô II được coi là Công Đồng đầu tiên biết sử dụng sự tự do (có căn cứ từ Thánh Truyền) như một chủ đề để dạy dỗ và lấy tinh thần đối thoại với người ngoài làm chương trình.
Các bạn biết đó, Công Đồng Vaticanô II là Công Đồng “mở”. Vì thế, Giáo Hội không e ngại khi đề cập tới tự do. Bởi khi nói đến phẩm giá của con người thì không thể không nói đến sự tự do. Giáo Hội cũng muốn thoát ra khỏi “pháo đài” của mình giống như các bạn muốn thoát khỏi “lũy tre làng” để bay đến các phương trời xa xôi, thoát khỏi chủ trương “khép kín huy hoàng” của mình để đối thoại, cảm thông, chia sẻ với những người anh em khác như Kitô hữu ngoài Công Giáo, với những tôn giáo khác, với những anh em được coi là “vô thần” (thực chất ra chẳng có ai vô thần cả. Vô thần chỉ là một cách nói biện minh thôi).
Giáo Hội nhìn nhận và kính trọng những giá trị, các nền văn hóa khác nhau cũng như các hệ thống chính trị (không đi ngược lại xu thế chung của loài người) khác nhau của thế giới.
Các bạn hãy chú ý kỹ điểm son và độc đáo của Công Đồng Vaticanô II nhé: Vaticanô II là Công Đồng đầu tiên không có đề mục nào lên án tuyệt thông.
20.3 Công Đồng Vaticanô II nhấn mạnh về mục vụ:
Nếu các bạn nghiên cứu kỹ, sẽ thấy được tấm lòng của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.: ngài mong mỏi Công Đồng này là Công Đồng “mục vụ”. Cuối cùng Công Đồng Vaticanô II đã đáp lại lòng mong mỏi của ngài.
Công Đồng xem tầm quan trọng của các khía cạnh với mức độ của nó: Thánh Kinh – Thánh Truyền, quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng – cộng đoàn tính của các Giám Mục, Hàng Giáo Phẩm – Hàng Giáo Dân, Giáo Hội phổ quát – Giáo Hội địa phương, giá trị tu trì – giá trị trần thế,…
Tinh thần mục vụ thể hiện rõ nhất khi Công Đồng Vaticanô II chủ trương không chống lại một phần tử nào song vì lợi ích của mọi người. Giáo Hội chỉ với tinh thần của “kẻ được sai đến với muôn dân” để phục vụ, yêu thương, tha thứ và đem ơn cứu độ cho nhân loại.
20.4 Công Đồng Vaticanô II đem đến những điểm sáng mới:
Các bạn cố gắng nhớ những điểm sáng mới này nhé:
- Công Đồng đã trình bày một nền thần học về Chúa Thánh Thần mà lâu nay bị xem nhẹ hay bị lãng quên.
- Công Đồng đã đưa ra quan niệm mới về “chân lý” của Thánh Kinh và về “linh hứng” trong thần học về Mạc Khải.
- Công Đồng nhấn mạnh về cộng đoàn tính của các Giám Mục, Giáo Hội như bí tích cứu rỗi, thái độ mới đối với thế giới, Bí tích Hôn Phối được nhấn mạnh hơn ở khía cạnh tình yêu nhân loại và các mục đích chính yếu, đổi mới các nghi thức trong Thánh Lễ (như các linh mục làm lễ quay xuống giáo dân chứ không còn quay lên như trước kia, dâng lễ bằng tiếng địa phương chứ không bằng tiếng Latinh nữa,…, tính cánh chung của Giáo Hội lữ hành, của hoạt động truyền giáo, của đời sống Dòng tu,…
21. Để kết thúc buổi trao đổi học hỏi hôm nay, chúng con xin hỏi cha một câu cuối nhé, câu này hơi lạ tai. Vậy có thể có thêm Công Đồng Vaticanô III, Vaticanô IV,… không ạ?
Các bạn hỏi cũng hay đấy! Chúng ta đã thấy trong lịch sử đã có rất nhiều Công Đồng rồi. Tôi thiết nghĩ trong tương lai có thể có thêm Công Đồng. Nếu các bạn chú ý một chút sẽ thấy rõ một Công Đồng phải được xem như là một sự bổ túc cho Công Đồng trước đó và như là nhịp cầu để kết nối Công Đồng mới trong tương lai. Các bạn cũng thừa biết là thế giới biến đổi nhanh chóng lắm, lối sống và quan điểm của con người cũng thay đổi nên Giáo Hội cần phải thích ứng ngay tức khắc theo dòng lịch sử của nhân loại để phục vụ đắc lực và hữu hiệu nhất hầu đem lại ơn cứu độ cho con người và được con người dễ dàng đón nhận.
Tôi và các bạn hãy phó thác Giáo Hội cho Chúa Thánh Thần. Chúng ta xin Ngài hướng dẫn, biến đổi để Giáo Hội không ngừng trở nên “cánh tay nối dài của Chúa Kitô”, đem tình thương và ơn cứu độ đến cho mọi người.
* Xin cha tiếp tục nghiên cứu để có thể cung cấp cho chúng con những kiến thức bổ ích về Công Đồng Vaticanô II nhé?!
Tôi sẽ cố gắng, các bạn cũng phải cố gắng để tất cả chúng ta cùng học hỏi về Công Đồng Vaticanô II hầu có thể áp dụng vào cuộc sống người Kitô hữu và góp phần xây dựng Hội Thánh trong lòng thế giới hiện đại hôm nay.
- Hẹn gặp các bạn trong số tới nhé.
- Vâng ạ! Chúng con cám ơn cha nhiều!
NHỮNG THỜI HIỆU ĐÁNG NHỚ CỦA CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II
22. Thưa cha, xin cha cho chúng con biết về những thời hiệu được xem là quan trọng nhất của Công Đồng Vaticanô II để chúng con dễ nhớ và dễ mường tượng ra sự tiến triển của Công Đồng?
Đề nghị của các bạn thật chính đáng. Các bạn nên chú ý niên hiệu và sự kiện diễn ra nhé. Tổng cộng có 4 kỳ họp, nhưng trước đó đã có những khâu chuẩn bị rất kỹ:
22.1 Ngày 25.1.1959: Tại Đền thờ thánh Phaolô ngoại thành, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã loan báo cho các Hồng Y biết về ý định sẽ triệu tập Công Đồng.
22.2 Giai đoạn chuẩn bị:
- Từ 17.5.1959 đến ngày 29.6.1959 (Chuẩn bị xa): Ủy Ban Tiền chuẩn bị được thành lập; những lá thư xin góp ý được gửi đi khắp nơi; Thông điệp “Ad Petri cathedram” (Bên Tòa thánh Phêrô) được gửi đi để nói rõ về mục đich của Công Đồng.
- Từ 5.6.1960 đến 11.9.1962 (Chuẩn bị gần): 15 Ủy Ban và Văn phòng chuẩn bị cho Công Đồng được thành lập; Tông hiến Humanae Salutis (Ơn cứu độ con người) công bố (25.12.1961) quyết định triệu tập Công Đồng vào năm 1962; Ngày 2.2.1962 với Tự Sắc Concilium (Công Đồng) ấn định ngày 11.10.1962 là ngày khai mạc Công Đồng.
- Từ 11.10.1962 đến 8.12.1962: Kỳ họp đầu tiên của Công Đồng. Công Đồng thảo luận về Phụng vụ, Mạc Khải, Truyền thông xã hội, Hiệp nhất Kitô hữu và về Giáo Hội. Tuy nhiên, kỳ họp đầu tiên này không công bố bất cứ một văn kiện nào.
Các bạn biết đó, trong thời điểm này, một biến cố làm cho Hội Thánh mất mát và thương tiếc vô cùng: ngày 3.6.1963 Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã từ trần. Song để bù đắp và tiếp nối công trình lớn của Công Đồng còn dở dang, Hội Thánh đã ngay lập tức bầu Đức Giáo Hoàng mới: ngày 21.6.1963, Đức Phaolô VI được bầu làm Giáo Hoàng. Ngài đã tiếp nối công việc bằng việc chủ trì cuộc họp thứ hai vào ngày 29.9.1963. Người ta bảo, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tiếp nối công trình của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII một cách xuất sắc, thậm chí còn hơn. Các bạn nên nhớ, đây là công trình của Chúa Thánh Thần, nên Ngài có cách của Ngài.
- Từ 29.9.1963 đến 4.12.1963: Kỳ họp thứ hai được diễn ra. Các chủ đề được thảo luận như: Giáo Hội, Giám Mục, Hiệp nhất. Kết thúc kỳ họp thứ hai này, Công Đồng đã công bố Hiến chế về Phụng Vụ thánh, Sắc lệnh về Truyền thông xã hội.
- Từ 14.9.1964 đến 21.11.1964: Kỳ họp thứ ba được nhóm họp. Công Đồng đã thảo luận rất nhiều vấn đề như Đức Maria, nhiệm vụ của các Giám Mục, tự do tôn giáo, người Do Thái, các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Mạc Khải, tông đồ giáo dân, linh mục, các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, Giáo Hội trong thế giới ngày nay, truyền giáo, tu sĩ, chủng viện, giáo dục Công Giáo, các Bí Tích. Trong ngày bế mạc, Công Đồng đã công bố Hiến chế về Giáo Hội, sắc lệnh về Hiệp Nhất, sắc lệnh về Công Giáo Đông Phương. Chính Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên bố “Đức Maria là Mẹ của Giáo Hội”.
- Từ 14.9.1965 đến 8.12.1965: là thời điểm diễn tiến của kỳ họp cuối cùng của Công Đồng. Cũng trong thời điểm này, ngày 15.9.1965 Thượng Hội Đồng Giám Mục được thành lập với Tông hiến “Apostolica sollicitudo” (Sự chăm lo tông đồ).
Công Đồng đã thảo luận về các chủ đề như tự do tôn giáo, Giáo Hội trong thế giới ngày nay, truyền giáo, các linh mục.
Cuối cùng Công Đồng đã công bố Sắc lệnh về Nhiệm vụ Giám Mục, về canh tân thích nghi đời sống Dòng tu, đào tạo các linh mục; tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo, về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Hiến chế về Mạc Khải, Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân, Sắc lệnh về Tự do tôn giáo, về linh mục, về Truyền giáo, Hiến chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay.
Ngày 8.12.1965, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã long trong đọc diễn văn bế mạc Công Đồng tại Quảng Trường thánh Phêrô.
Trong Khóa họp cuối cùng này, các bạn nên chú ý những điểm son, tinh thần mới của Công Đồng: Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã loan báo việc cải tổ Giáo Triều Vatican; Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Viện Phụ Athenagoras cùng ban bố một bản tuyên ngôn chung, hủy bỏ vạ tuyệt thông giữa Rôma và Constantinopla để chứng tỏ dấu hiệu của sự hiệp nhất Hội Thánh trong tương lai.
Nói chung, Công Đồng Vaticanô II đã thành công một cách mỹ mãn.
Chúng ta cùng nhau sốt sắng cầu nguyện cho Hội Thánh nhé.
HIẾN CHẾ VỀ PHỤNG VỤ THÁNH (SACROSANCTUM CONCILIUM)
23. Thưa cha, Phụng Vụ là gì?
Phụng Vụ là việc thờ phượng, phụng tự công khai của Hội Thánh, được cử hành cùng với Chúa Kitô và triều thần thiên quốc.
24. Vậy Hiến chế về Phụng Vụ thánh của Công Đồng Vaticanô II nhằm mục đích gì?
Nhằm hướng dẫn “Phong trào Phụng Vụ” mới cũng như toàn thể Hội Thánh đến chỗ tuyệt đỉnh và mở ra một kỷ nguyên mới cho đời sống cầu nguyện của Giáo Hội được hoàn hảo và hữu hiệu.
25. Cha vừa nói đến “Phong Trào Phụng Vụ”. Vậy xin cha nói rõ hơn về phong trào này?
Nếu các bạn nghiên cứu sẽ thấy những người tiên phong trong phong trào này, vào cuối thế kỷ 20, là các tu sĩ Dòng Benedicto Solesmes, Beuron, Maria Laach,… Tuy nhiên, người tiên phong của phong trào này chính là Đức Giáo Hoàng Piô X (được mênh danh là vị Giáo Hoàng của Bí Tích Thánh Thể). Nhưng người có công lớn nhất trong phong trào này là Đức Giáo Hoàng Piô XII. Ngài đã để lại tài liệu quan trọng, có giá trị đến nỗi sau này Công Đồng Vaticanô II đã sử dụng như kho tàng quý giá (qua Thông điệp Mediator Dei – Đấng Trung gian của Thiên Chúa, 1947).
26. Thưa cha, vì những lý do gì mà Công Đồng Vaticanô II thấy cần phải canh tân, cải tiến Phụng Vụ?
Công Đồng canh tân Phụng Vụ vì những lý do sau đây: Công Đồng muốn phát huy đời sống Giáo Hội nơi các tín hữu ngày càng tốt đẹp hơn, thích ứng những định chế sao cho phù hợp với những nhu cầu của thời đại, cổ vũ những gì có thể góp phần tạo nên sự hiệp nhất các tín hữu đã tin vào Chúa Kitô, kiện toàn những gì giúp cho việc dấn thân của tín hữu đối với Giáo Hội.
27. Thưa cha, Phụng Vụ đóng vai trò gì trong mầu nhiệm Giáo Hội?
Phụng Vụ đóng vai trò rất quan trọng trong mầu nhiệm Giáo Hội. Nhờ Phụng Vụ, nhất là trong hiến tế tạ ơn mà công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện. Phụng Vụ giúp các tín hữu diễn tả mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Giáo Hội chân chính. Tất cả quy hướng về thành đô Thiên Quốc, nơi mọi tín hữu đang tìm kiếm. Phụng Vụ kiến tạo mọi thành phần của Giáo Hội thành đền thánh trong Chúa, kiện toàn sức lực sung mãn cho tín hữu để loan báo Chúa Kitô. Phụng Vụ cũng tỏ rõ cho những người ngoài Giáo Hội thấy Giáo Hội như dấu chỉ của sự hiệp nhất, yêu thương, nên một với tư cách là con cái của Thiên Chúa.
28. Vậy đối với các Nghi Lễ khác (như Nghi Lễ Đông Phương) thì sao ạ?
Hội Thánh Mẹ chúng ta coi tất cả những Nghi Lễ đã được chính thức công nhận đều bình đẳng trên pháp lý và được tôn trọng như nhau. Hơn thế nữa, Hội Thánh còn muốn các Nghi Lễ ấy được duy trì trong tương lai và được cổ vũ bằng mọi cách nhưng cố gắng sao cho phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu hiện tại.
NHỮNG NGUYÊN TẮC TỔNG QUÁT ĐỂ CANH TÂN VÀ CỔ VŨ
PHỤNG VỤ THÁNH
29. Thưa cha, bản tính của Phụng Vụ thánh trong đời sống Giáo Hội xuất phát từ đâu?
Xuất phát từ chính bản tính nhân loại của Thiên Chúa, hiệp làm một với Ngôi Lời, đã nên khí cụ phần rỗi chúng ta. Bởi thế, nhờ Chúa Kitô, Thiên Chúa đã hoàn toàn nguôi lòng để chúng ta được giao hòa với Ngài và cho chúng ta được phụng thờ Ngài một cách hoàn hảo.
30. Vậy hiệu quả của việc Hội Thánh cử hành Phụng Vụ thánh là gì?
Hiệu quả hữu hiệu và lớn nhất là công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô được tiếp nối khi Hội Thánh long trọng cử hành Phụng Vụ thánh.
Chẳng hạn như hiệu quả của việc cử hành các Bí Tích: Rửa Tội, Thêm Sức, Thánh Thể (Thánh Lễ),… giúp chúng ta được đón nhận ân sủng của Thiên Chúa cách dồi dào, sung mãn, tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, được đón nhận ơn cứu độ trào tràn ngay giây phút hiện tại.
31. Thưa cha, chúng con hơi do dự một chút, nhưng cũng hỏi luôn. Vậy Chúa Kitô như thế nào trong Phụng Vụ thánh?
Chúa Kitô hằng hiện diện cách sống động trong Giáo Hội, nhất là trong các hoạt động Phụng Vụ. Người hiện diện trong Hy Lễ không những trong con người thừa tác viên, mà nhất là hiện diện thực sự trong hai hình Thánh Thể. Người hiện diện trong các Bí Tích nhờ quyền năng của Người. Thật đúng như lời Chúa nói: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đó giữa họ” (Mt 18,20).
32. Vậy là việc cử hành Phụng Vụ quá tuyệt vời, cao cả, khó có hành vi nào khác của Giáo Hội có thể so sánh vì luôn có Chúa hiện diện?
Đúng vậy. Vì là công việc của Chúa Kitô tư tế và thân thể của Người là Giáo Hội, nên mọi việc cử hành Phụng Vụ đều là hành vi chí thánh và không một hành vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng.
33. Thưa cha, Phụng Vụ có phải là hoạt động duy nhất của Giáo Hội không ạ?
Phụng Vụ thánh không phải là hoạt động duy nhất của Giáo Hội. Bởi lẽ, Hội Thánh còn nhiều hoạt động khác nữa, ví dụ như: hoạt động rao giảng Tin Mừng, kêu gọi con người hoán cải, mời gọi con người tin vào Thiên Chúa,… Hội Thánh luôn rao giảng đức tin và sự thống hối cho người tín hữu, giúp họ sẵn sàng đón nhận các Bí Tích, dạy họ giữ trọn những điều Chúa Kitô đã truyền, thúc giục họ tham gia mọi công việc bác ái, đạo đức và tông đồ,… Tất cả nhằm tôn vinh Thiên Chúa trước mặt mọi người.
34. Xin cho chúng con biết vị trí của Phụng Vụ trong lòng Giáo Hội như thế nào?
Thực sự, Phụng Vụ là tuyệt đỉnh mà hoạt động của Giáo Hội quy hướng về, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội. Phụng Vụ cũng được kể như là nguồn mạch tuôn trào ân sủng trong chúng ta và làm cho con người được thánh hóa trong Chúa Kitô một cách hữu hiệu và Thiên Chúa được tôn vinh. Đây cũng là cứu cánh của mọi công việc khác của Giáo Hội.
35. Vậy thưa cha, khi tham dự Phụng Vụ thánh, người tín hữu cần chuẩn bị những gì?
Để tham dự Phụng Vụ thánh một cách hữu hiệu, người tín hữu cần có một tâm hồn chuẩn bị sẵn sàng, ngay thẳng, hòa hợp tâm trí mình với ngôn ngữ và cộng tác với ân sủng trên trời, tránh nhận lãnh ân sủng một cách lạnh lùng, vô cảm, vô hồn, qua quýt.
36. Con nghĩ rằng, các vị chủ chăn cần phải lo liệu sao cho người tín hữu tham dự cách hữu hiệu nhất?
Bạn nói đúng. Các vị chủ chăn không những chỉ chú tâm vào việc tuân giữ các lề luật trong các hoạt động Phụng Vụ để cử hành thành sự và hợp pháp mà thôi, nhưng còn lo cho các tín hữu tham dự Phụng Vụ một cách ý thức, linh động và hiệu quả.
37. Tham dự Phụng Vụ thánh rồi có được chuẩn miễn cho việc cầu nguyện cá nhân không, thưa cha?
Một câu hỏi hay! Thực sự ra đời sống thiêng liêng của người tín hữu không chỉ giới hạn trong việc tham dự Phụng Vụ thánh, cùng với cộng đoàn cầu nguyện chung, mà còn phải cầu nguyện riêng cách âm thầm, kín đáo, liên lỉ. Vậy, không thể chuẩn miễn cho việc cầu nguyện cá nhân khi người tín hữu đã tham dự Phụng Vụ thánh. Hay nói mạnh hơn, người tín hữu càng tham dự Phụng Vụ thánh nhiều bao nhiêu, càng thấy nhu cầu cầu nguyện cá nhân lớn lao bấy nhiêu, thậm chí yêu mến việc cầu nguyện cá nhân.
38. Chúng ta phải nói thế nào giữa Phụng Vụ và các việc đạo đức?
Các việc đạo đức được khơi nguồn từ Phụng Vụ. Những việc đạo đức của người tín hữu một khi còn hợp với các lề luật và các quy tắc của Hội Thánh thì còn được khích lệ duy trì. Song phải dựa theo các mùa Phụng Vụ mà sắp xếp sao cho phù hợp với Phụng Vụ thánh để có thể được coi là xuất phát từ Phụng Vụ và dẫn chúng đến Phụng Vụ. Bởi lẽ, tự bản chất, Phụng Vụ vượt xa các việc đạo đức ấy.
NHỮNG NGUYÊN TẮC TỔNG QUÁT ĐỂ CANH TÂN VÀ CỔ VŨ PHỤNG VỤ THÁNH
39. Thưa cha, việc huấn luyện nhằm giúp người tín hữu tham dự Phụng Vụ cách linh động như thế nào?
Mẹ Giáo Hội luôn ước mong mọi tín hữu được hướng dẫn tham dự các việc cử hành Phụng Vụ cách trọn vẹn, ý thức và linh động. Bởi lẽ Phụng Vụ là nguồn mạch thiết yếu để các tín hữu múc lấy tinh thần Kitô giáo đích thực. Do đó, nếu các chủ chăn nhiệt tâm trong mọi hoạt động mục vụ để lo việc huấn luyện thích hợp, sẽ giúp người tín hữu gặt hái được kết quả to lớn khi tham dự Phụng Vụ.
Điều trước tiên, các chủ chăn phải thấm nhuần sâu rộng tinh thần và năng lực của Phụng Vụ, đồng thời có khả năng giảng dạy Phụng Vụ. Do đó, các vị chủ chăn và các nhà đào tạo cần huấn luyện cho hàng giáo sĩ về Phụng Vụ thánh cách chuyên sâu.
40. Vậy trước tiên phải đào luyện giáo sư Phụng Vụ chứ, thưa cha?
Đúng vậy. Ban đào tạo trong Giáo Hội phải lo liệu sao cho có những người được đào tạo đầy đủ về phận vụ của họ tại các trường chuyên môn đặc biệt về Phụng Vụ. Chính những người đó sau này đảm nhiệm giảng dạy Phụng Vụ thánh trong các Chủng Viện, các Học Viện Dòng Tu, các Phân Khoa Thần Học.
41. Việc giảng dạy Phụng Vụ sẽ như thế nào ạ?
Thực sự, môn Phụng Vụ thánh được đặt vào hàng các môn học cần thiết và quan trọng trong các Chủng Viện, Học Viện Dòng Tu. Còn trong các Phân Khoa Thần Học thì môn Phụng Vụ được xếp vào môn chính.
Phụng Vụ được giảng dạy dưới nhiều khía cạnh khác nhau: thần học, lịch sử, tu đức, mục vụ, luật pháp. Ngoài ra, các giáo sư của các môn khác khi giảng dạy thì cách này hay cách khác cũng đễ cập đến Phụng Vụ nhằm làm nổi bật mầu nhiệm Chúa Kitô và mầu nhiệm cứu rỗi.
Nhờ việc chú trọng đến vấn đề huấn luyện đào tạo Phụng Vụ như thế, Hội Thánh nhắm đến đào tạo những chủng sinh có được đời sống thiêng liêng sâu sắc hầu tham dự nghi lễ thánh với trọn tâm hồn. Sau này, khi đã ra trường, họ có khả năng chia sẻ và truyền đạt đời sống Phụng Vụ cho các tín hữu được ủy thác cho họ.
42. Thưa cha, công việc huấn luyện Phụng Vụ cho các tín hữu được tiến hành ra sao?
Các chủ chăn phải chú trọng và có trách nhiệm lớn duy trì việc huấn luyện Phụng Vụ cho các tín hữu. Các ngài phải dẫn dắt đoàn chiên mình bằng cả lời nói lẫn gương lành.
43. Vậy Hội Thánh có được phép sử dụng các phương tiện truyền thông trong Phụng Vụ thánh không ạ?
Thực sự việc sử dụng phương tiện truyền thông trong Phụng Vụ thánh, đặc biệt trong Thánh Lễ phải được thực hiện cách thận trọng, cách xứng đáng dưới sự chỉ dẫn và bảo lãnh của những người có khả năng do các Giám Mục ủy thác.
44. Con thiết nghĩ, việc canh tân Phụng Vụ thánh phải tuân theo một số quy tắc nào đó chứ, thưa cha?
Đúng vậy. Hội Thánh dựa trên những nguyên tắc sau đây:
44.1 Việc điều hành Phụng Vụ thuộc thẩm quyền hàng Giáo Phẩm. Nghĩa là việc điều hành Phụng Vụ thánh chỉ tùy thuộc thẩm quyền của Giáo Hội, cũng có nghĩa là thuộc quyền Tông Tòa và chiếu theo quy tắc luật pháp thì thuộc quyền Giám Mục. Điều này tùy thuộc các loại Hội Đồng Giám Mục khác nhau, được thiết định hợp pháp, có thẩm quyền trong từng địa phương.
Tuyệt đối không ai (ngay cả linh mục) được tự quyền thêm bớt hay thay đổi một điều gì trong Phụng Vụ. Bởi lẽ chính là công cuộc của Chúa Kitô và Giáo Hội phổ quát, chứ không thuộc về một Giáo Hội địa phương hay đoàn thể đặc biệt nào. Do đó, tất cả mọi sự liên quan tới việc điều hành Phụng Vụ chỉ lệ thuộc thẩm quyền tối cao của Giáo Hội mà thôi. Các Hội Đồng Giám Mục và các Giám Mục nói chung chỉ có thẩm quyền do Giáo Hội ủy thác và trao việc thừa hành.
44.2 Phải tuân theo nguyên tắc truyền thống và tiến bộ. Nghĩa là việc canh tân không phá bỏ truyền thống, mang nét tiến bộ nhưng luôn nhắm đến lợi ích thiết thực và chắc chắn của Giáo Hội đòi hỏi. Việc canh tân cũng nên tránh tối đa những gì gây ra sự dị biệt về nghi lễ giữa các vùng xung quanh.
44.3 Thánh Kinh và Phụng Vụ luôn gắn kết với nhau cách chặt chẽ. Thánh Kinh luôn giữ vai trò quan trọng trong Phụng Vụ. Chẳng hạn khi cử hành các giờ Phụng Vụ, các bài đọc, dẫn giải trong bài giảng, lời kinh, lời nguyện, ca vịnh, bài hát,… đều khởi nguồn từ Thánh Kinh. Bởi vậy, để canh tân Phụng Vụ hiệu quả, Hội Thánh luôn dựa vào Thánh Kinh.
44.4 Việc tu chỉnh sách Phụng Vụ cần phải nhờ đến các chuyên viên và tham khảo ý kiến các Giám Mục mọi nơi để hiệu chỉnh sách Phụng Vụ cách nhanh chóng, kịp thời.
44.5 Xét về mặt phẩm trật và cộng đoàn thì dân thánh được quy tụ, tổ chức, cử hành cách cộng đồng, công khai đông đảo dưới quyền của các Giám Mục. Các bạn nên nhớ, Thánh Lễ là đỉnh cao và có giá trị đặc biệt, rồi đến giá trị của các Bí Tích.
44.6 Phải cử hành Phụng Vụ một cách nghiêm chỉnh, trang trọng, sốt sắng, linh động. Nói chung, khi cử hành Phụng Vụ thánh, ai lãnh phận vụ nào thì phải chu toàn xuất sắc trọn vẹn phận vụ ấy, từ thừa tác viên (Giám Mục, Linh Mục) đến Giáo Dân; từ những người đọc sách, dẫn giải, ca đoàn đến giúp lễ,… Tất cả phải thi hành với lòng đạo đức chân thành trong trật tự, nghiêm túc, nghiêm trang, đồng thời phải tuân theo luật “chữ đỏ” được hướng dẫn trong “Sách Lễ Roma”. Để chu toàn trọn vẹn, mọi người cần phải được học hỏi và thấm nhuần tinh thần của Phụng Vụ.
45. Con thấy trong khi cử hành Phụng Vụ, người tín hữu đóng vai trò không nhỏ, có đúng vậy không, thưa cha?
Bạn nói chính xác. Đoàn dân tín hữu đóng vai trò rất lớn trong việc cử hành Phụng Vụ. Vì vậy, trong Phụng Vụ, luôn luôn cần phải cổ vũ những lời tung hô, những lời đối đáp, những bài ca vịnh, tiến khúc, thánh ca, những động tác, cử chỉ,… của dân chúng.
46. Thưa cha, có một vấn đề hơi khó nói và tế nhị, trong khi cử hành Phụng Vụ thì có những người anh em lương dân hay những viên chức dân sự tham dự thì sao?
Thực sự, ngoài sự ưu đãi đặc biệt đối với phận sự Phụng Vụ và Chức Thánh, cũng như vinh dự dành cho các viên chức dân sự hợp theo quy luật Phụng Vụ, sẽ không có một thiên vị nào đối với các tư nhân hay địa vị. Nếu là lương dân, họ sẽ tham dự cách thụ động vì nơi họ chưa có niềm tin trong khi việc cử hành Phụng Vụ dành đặc biệt cho những người có niềm tin vào Chúa (chẳng hạn như phần rước lễ, anh em lương dân sẽ không được tham dự vào phần này).
47. Thưa cha, Công Đồng Vaticanô II đã canh tân về Bí Tích cũng như Á Bí Tích như thế nào ạ?
Các bạn rất thân mến, nói chung việc canh tân của Công Đồng Vaticanô II về các Bí Tích cũng như Á Bí Tích nhằm nhấn mạnh tính ý nghĩa và hiệu quả; vắn tắt, đơn giản nhưng trong mọi hoàn cảnh luôn phải thích ứng với nghi lễ của Hội Thánh.
- Canh tân Bí Tích:
- Canh tân nghi lễ Rửa Tội: Ưu tiên cho các xứ truyền giáo, đương nhiên duy trì các yếu tố gia nhập đạo theo truyền thống, nhưng cũng chấp nhận yếu tố dân tộc hay địa phương. Tuy nhiên những yếu tố đó phải phù hợp với nghi lễ Công Giáo. Công Đồng đề cao vai trò và bổn phận của cha mẹ và người đỡ đầu. Đối với xứ truyền giáo và trong trường hợp nguy tử thì cần có nghi thức rửa tội ngắn gọn khi vắng mặt linh mục hay phó tế.
- Đối với nghi lễ Thêm Sức: Công Đồng khuyên nên lặp lại lời hứa Rửa Tội ngay trước khi lãnh Bí Tích Thêm Sức. Cũng nên cử hành Bí Tích Thêm Sức trong thánh lễ.
- Đối với Bí Tích Giải Tội: Công Đồng nhấn mạnh và diễn tả rõ hơn bản tính và hiệu quả của Bí Tích Giải Tội.
- Đối với Bí Tích Xức Dầu bệnh nhân: Bí Tích Xức Dầu không chỉ dành riêng cho người hấp hối mà cho bệnh tật hay già yếu. Lời nguyện được soạn sao cho phù hợp với từng trường hợp.
- Đối với Bí Tích Truyền Chức Thánh: được xét lại cả về nghi thức lẫn bản văn. Lời huấn dụ của Đức Giám Mục được dùng tiếng bản quốc. Còn trong nghi lễ tấn phong Giám Mục, tất cả các Giám Mục hiện diện đều được đặt tay.
- Đối với Bí Tích Hôn Phối: Công Đồng nhấn mạnh hơn đến ý nghĩa ân sủng và bổn phận của vợ chồng trong Bí Tích này. Nếu nơi nào có tập tục và nghi lễ xứng hợp khác trong khi cử hành Bí tích Hôn Phối, Công Đồng mong họ giữ nguyên. Nghĩa là Công Đồng tôn trọng tính bản địa. Bí Tích Hôn Phối thường được cử hành trong thánh lễ.
- Canh tân Á Bí Tích:
- Công Đồng cho chúng ta biết phải làm sao để các Á Bí Tích giúp cho tín hữu tham dự cách ý thức và linh động, chú ý đến nhu cầu của thời đại. Các Giám mục hay Đấng Bản Quyền có vai trò tích cực và quan trọng đối với các Á Bí Tích.
48. Thưa cha, con thấy có vấn đề canh tân về nghi lễ khấn Dòng nữa đó?
Đúng rồi, Công Đồng nhấn mạnh tính đồng nhất, đơn giản, trang nghiêm trong nghi lễ khấn Dòng. Công Đồng khuyên và hoan nghênh việc cử hành khấn Dòng trong thánh lễ.
49. Còn về nghi lễ an táng, Công Đồng Vaticanô II có canh tân gì không, thưa cha?
Công Đồng có canh tân đấy, các bạn! Đối với nghi lễ an táng, Công Đồng nhấn mạnh yếu tố “Vượt Qua” của cái chết của người Kitô hữu. Như Chúa Kitô, người Kitô hữu sẽ được vượt qua cái chết để đi đến sự sống đời đời. Cũng nên tôn trọng truyền thống của địa phương, kể cả về màu sắc phụng vụ. Công Đồng quan tâm đến nhi đồng và soạn thảo nghi lễ an táng riêng cho nhi đồng.
Chúng con cám ơn cha!
Hẹn các bạn kỳ sau nhé!
KINH NHẬT TỤNG
50. Kính chào cha! Thưa cha, hằng ngày, con thấy các Giáo Sĩ, Tu Sĩ đọc kinh rất hay và ý nghĩa, đó là kinh gì và đó có phải là luồng gió mới được thổi từ Công Đồng Vaticanô II không ạ?
Mến chào các bạn! Kinh mà bạn hỏi chính là Kinh Nhật Tụng. Đúng như bạn nói, Công Đồng đã thổi một luồng gió mới dịu mát vào Hội Thánh hầu giúp Hội Thánh sống cách sinh động và linh hoạt, sống chan hòa với Thiên Chúa và cộng đồng nhân loại. Vì khi đọc Kinh Nhật Tụng, Hội Thánh được sống mật thiết với Thiên Chúa, kín múc nguồn ân sủng từ Thiên Chúa, từ đó đem ơn mình nhận được chia sẻ cho anh chị em đồng loại.
51. Vậy nếu phải định nghĩa về Kinh Nhật Tụng thì phải định nghĩa như thế nào, thưa cha?
Kinh Nhật Tụng được ví như lời nguyện của Đức Kitô và Hội Thánh. Thật vậy, chính cuộc đời của Chúa Kitô Thượng Tế là bản thánh ca hoàn hảo dâng lên Thiên Chúa Cha. Hội Thánh “nối nghiệp” Chúa Kitô thi hành chức vị tư tế đó. Hội Thánh không chỉ cử hành Lễ Tạ Ơn, mà còn không ngừng ca tụng Thiên Chúa và cầu bầu cho phần rỗi của cả nhân loại bằng nhiều cách khác nhau, đặc biệt là việc chu toàn Kinh Nhật Tụng.
52. Xin cha diễn giải thêm một chút nữa được không ạ?
Được chứ! Thực sự, theo truyền thống tốt đẹp của Hội Thánh, Kinh Nhật Tụng được lập ra để ca tụng ngợi khen Thiên Chúa và nhờ ơn Chúa thánh hiến bản thân. Những lời ca tụng, cầu nguyện tuyệt hảo đó được thực hiện theo sự thiết định của Hội Thánh cũng chính là tiếng của Hiền Thê đối với Phu Quân mình, tức là tiếng của Hội Thánh nói với Đức Kitô, đồng thời cũng là lời cầu nguyện của Chúa Kitô cùng với Hội Thánh dâng lên Thiên Chúa Cha.
Vậy tất cả mọi người khi đọc Kinh Nhật Tụng đều mang vinh dự cao cả, nhân danh Hội Thánh mà ca tụng Thiên Chúa.
53. Thưa cha, giữa việc mục vụ của các Giáo Sĩ, Tu Sĩ và việc đọc Kinh Nhật Tụng có liên hệ gì không ạ?
Chắc chắn là có liên quan, liên hệ rồi. Các bạn biết đó, các Giáo Sĩ, Tu Sĩ đọc Kinh Nhật Tụng là thực hiện việc cầu nguyện “bài bản” của Hội Thánh. Ví dụ, một Linh Mục “say mê” việc đọc Kinh Nhật Tụng thì cũng rất yêu mến và chu toàn công việc mục vụ. Ngược lại, một Linh Mục hăng say làm việc tông đồ mục vụ thì chắc chắn cũng yêu mến các giờ Kinh Nhật Tụng. Thậm chí nếu vì lý do nào đấy không thể đọc được thì lòng cảm thấy áy náy và tiếc nuối! Vì Linh Mục ấy ý thức rằng mình cần sống mật thiết với Chúa, kín múc nguồn ân sủng từ nơi Chúa ngang qua các giờ Kinh Nhật Tụng quý giá.
54. Tuyệt vời quá, thưa cha! Vậy Công Đồng cải tổ và sắp xếp Kinh Nhật Tụng như thế nào ạ?
Công Đồng sắp xếp theo trật tự logic hợp lý, theo giờ giấc (kinh sách, kinh sáng, kinh trưa, kinh chiều, kinh tối. Hai giờ kinh chính là kinh sáng và kinh chiều). Trước đó có giờ kinh nhất nhưng Công Đồng đã bãi bỏ rồi. Công Đồng sắp xếp thật là hợp lý và phù hợp với công việc tông đồ mục vụ của các Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ.
55. Thưa cha, chẳng lẽ chỉ có các Giáo Sĩ, Tu Sĩ đọc Kinh Nhật Tụng sao? Giả như Giáo Dân chúng con muốn đọc có được không ạ?
Các bạn rất mến! Kinh Nhật Tụng không chỉ dành cho các Giáo Sĩ, Tu Sĩ mà cho cả Giáo Dân nữa. Vậy các bạn cứ tự nhiên đọc, không ai ngăn cản đâu! Thậm chí còn khuyến khích các bạn năng đọc Kinh Nhật Tụng là đàng khác! Trong điều khoản 100 của chương nói về Kinh Nhật Tụng này, Công Đồng còn nhấn mạnh Linh Mục phải lo liệu sao để các Giáo Dân có thể tham dự đọc Kinh Nhật Tụng. Vì khi tất cả chúng ta đọc Kinh Nhật Tụng, chúng ta sẽ được khơi nguồn đạo đức, sống đạo đức thánh thiện, được tiếp cận với các thánh vịnh, thánh thi, thánh ca, những lời nguyện sâu sắc, đặc biệt là chúng ta được tiếp cận với cả một kho tàng Lời Chúa vô cùng quý giá đã được Hội Thánh công phu chọn lựa sao cho thật phù hợp. Khi đọc Kinh Nhật Tụng như thế, chắc chắn sẽ có lúc các bạn sẽ được Lời Chúa đánh động và biến đổi đấy!
56. Đối với việc đọc Kinh Nhật Tụng, Công Đồng có bắt buộc không, thưa cha?
Có chứ. Công Đồng bắt buộc cách cụ thể như sau:
56.1 Các Hội Dòng Kinh Sĩ, Đan Sĩ nam, nữ và các Tu Sĩ khác có bổn phận kinh hội (đọc chung), do Giáo Luật hay Hiến Pháp của Dòng quy định phải cử hành trọn Kinh Nhật Tụng.
56.2 Các Kinh Sĩ Nhà thờ Chính Tòa hoặc Nhà thờ Kinh Sĩ sẽ đọc những phần Kinh Nhật Tụng nào mà luật chung hay luật riêng ấn định.
56.3 Tuy nhiên, các thành phần của các cộng đoàn đó hoặc đã có chức thánh hoặc đã khấn trọn, trừ các thầy trợ sĩ, buộc phải đọc riêng (nếu chưa đọc chung) những Giờ Kinh đã thiết định.
Các Giáo Sĩ không buộc giữ giờ kinh chung (vì lý do mục vụ), nhưng bù vào phải đọc kinh riêng.
Nếu đã có chức thánh (Phó Tế, Linh Mục, Giám Mục), người ấy buộc phải đọc Kinh Nhật Tụng hằng ngày, hoặc đọc chung hoặc đọc riêng theo điều khoản 89 của chương này.
57. Thưa cha, có khi nào được chuẩn miễn việc đọc Kinh Nhật Tụng không ạ?
À! Có chứ! Khi có lý do chính đáng, Đấng Bản Quyền có thể chuẩn miễn cho những người dưới quyền mình được bỏ một phần hay cả phần Kinh Nhật Tụng và có khi cho thay thế bằng thứ kinh khác.
58. Như cha đã trình bày, Kinh Nhật Tụng là kinh của Hội Thánh. Vậy chúng ta nên đọc chung hay đọc riêng là tốt nhất?
Bạn hỏi câu hay quá! Đáng tưởng thưởng cho bạn! Các bạn biết rồi, vì Kinh Nhật Tụng là tiếng nói của Hội Thánh, tức là Nhiệm Thể của Chúa Kitô, công khai chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, nên Công Đồng khuyên các Giáo Sĩ (Tu Sĩ thì đương nhiên rồi) hãy đọc Kinh Nhật Tụng chung với nhau. Nếu họ không thể đọc chung toàn bộ, ít là một phần Kinh Nhật Tụng. Do hoàn cảnh hay do công việc mục vụ mà Giáo Sĩ hay Tu Sĩ mới phải đọc riêng thôi. Tóm lại, theo hướng của Công Đồng Vaticanô II thì việc đọc Kinh Nhật Tụng chung với nhau là tốt nhất.
59. Vậy giữa việc chu toàn Kinh Nhật Tụng và chu toàn phận vụ của mình thì phải như thế nào, thưa cha?
Đúng là Giáo Sĩ, Tu Sĩ phải chu toàn song song cả hai, Kinh Nhật Tụng và phận vụ của mình. Các ngài phải thực hiện cách hoàn hảo, nối kết giữa kinh nguyện và đời sống chứng tá.
60. Từ nãy đến giờ, cha toàn nói về “đọc” Kinh Nhật Tụng, vậy có được “hát” Kinh Nhật Tụng không, thưa cha?
Sao bạn nghĩ ra được câu hỏi hay vậy! Đúng là ngoài việc đọc Kinh Nhật Tụng ra, còn có thể hát Kinh Nhật Tụng nữa. Tuy nhiên phải tùy dịp thuận tiện mà hát Kinh Nhật Tụng chung với nhau. Nếu muốn thấy và nghe hát Kinh Nhật Tụng, mời các bạn đến các cộng đoàn Dòng Biển Đức. Miền Bắc chúng ta có Dòng Xitô Châu Sơn - Đan Viện Xitô Châu Sơn - ở Ninh Bình. Khi đến những nơi như vậy, chắc chắn các bạn sẽ được nghe quý cha, quý thầy hát Kinh Nhật Tụng rất hay, bay bổng và tâm tình. Thánh Augustino đã có câu rất nổi tiếng: “Hát là cầu nguyện hai lần” (Tiếng Anh là “He who sings, prays twice”, còn tiếng Latinh là: “Qui bene cantat bis orat”). Vậy hà cớ gì mà không hát Kinh Nhật Tụng chứ?!
61. Thưa cha, giả như chúng con muốn tham dự giờ Kinh Nhật Tụng thì phải làm thế nào, đọc ở đâu, thẩm quyền nào hướng dẫn chúng con?
Công Đồng khuyên các chủ chăn là các Giám Mục, Linh Mục nên lo liệu sao để duy trì được các giờ kinh chính yếu, nhất là Kinh Chiều cho bà con Giáo Dân. Các giờ kinh chính yếu này phải được cử hành trong nhà thờ vào những ngày Chúa Nhật và các ngày lễ trọng. Công Đồng khuyên các Giáo Dân nên tham dự các giờ kinh này cùng với cộng đoàn và các Linh Mục. Như thế, Công Đồng mời gọi các bạn nên tham dự các giờ kinh chính yếu trong nhà thờ Xứ, Họ Đạo của các bạn hoặc nhà thờ nào gần nhất nơi các bạn làm việc hay học tập. Nếu các bạn sốt sắng và có điều kiện đọc được trọn Kinh Nhật Tụng thì tốt quá!
62. Thưa cha, Công Đồng có quy định ngôn ngữ trong Kinh Nhật Tụng không ạ?
Các bạn biết đó, theo truyền thống lâu đời thì tiếng Latinh là ngôn ngữ chính trong Kinh Nhật Tụng. Tuy vậy, Công Đồng Vaticanô II đã mở ra cơ hội lớn cho các địa phương. Do đó, tùy từng nơi, Đấng Bản Quyền có thể cho dùng tiếng Bản Quốc vì lợi ích của các Giáo Sĩ, Tu Sĩ nơi đó, miễn là bản dịch tiếng bản địa được chuẩn thuận. Ở Việt Nam, chúng ta đã được dùng tiếng Việt để đọc Kinh Nhật Tụng. Vì thế, có biết bao ơn ích thiêng liêng đã được đổ xuống trên chúng ta nhờ việc đọc Kinh Nhật Tụng theo tiếng Việt.
* Chúng con cám ơn cha nhiều!
* Cám ơn các bạn đã lắng nghe! Mến chúc các bạn luôn được an mạnh, đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa. Rất mong các bạn hằng yêu mến việc đọc Kinh Nhật Tụng! Hẹn các bạn kỳ sau nhé!
NĂM PHỤNG VỤ
63. Con kính chào cha! Cha cho con hỏi, trong một năm con thấy có rất nhiều ngày lễ, lễ Chúa Nhật, lễ trọng, lễ kính, lễ nhớ,… và được lặp đi lặp lại theo chu kỳ năm. Một năm như vậy con phải gọi làm sao và ý nghĩa của năm ấy như thế nào ạ?
Các bạn quý mến! Tôi rất hoan nghênh các bạn đã chú ý đến vấn đề này! Như bạn nói đó, một năm chúng ta có rất nhiều ngày lễ. Hội Thánh Mẹ chúng ta rất khôn ngoan đã sắp xếp trong một năm những ngày lễ này cách hợp lý và vô cùng ý nghĩa, nhằm mục đích tưởng niệm và ca tụng công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đỉnh cao là mừng Chúa Phục Sinh – Chúa Sống lại.
Hội Thánh giúp chúng ta sống sinh động và trọn vẹn Mầu Nhiệm Cứu Độ của Chúa Kitô qua chu kỳ một năm, khởi đi từ mầu nhiệm Chúa Nhập Thể, Chúa Giáng Sinh, Chúa Thăng Thiên, Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sống niềm hy vọng, tới việc tỉnh thức mong đợi ngày Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang.
Một năm như vậy chúng ta gọi là Năm Phụng Vụ.
Khi sống và cử hành những Mầu Nhiệm Cứu Độ như thế, Hội Thánh giúp người tín hữu không ngừng thăng tiến về nhân đức, sự thánh thiện và được tràn đầy ơn cứu chuộc như Đức Giáo Hoàng Piô XII đã nhấn mạnh trong thông điệp Mediator Dei số 166.
64. Thưa cha, nãy giờ cha nói về Năm Phụng Vụ mà toàn nói về Chúa, vậy còn vị trí của Đức Mẹ Maria và các Thánh trong Năm Phụng Vụ thì sao ạ?
Lại một vấn đề hay nữa bạn đặt ra! Đúng là Hội Thánh không chỉ trưng diễn và cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô mà còn mời gọi con cái mình trong năm sống cách đặc biệt lòng tôn kính, mến yêu đối với Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ Chúa Kitô, Đấng là Thiên Chúa làm người ở giữa nhân loại và các thánh. Chính Mẹ Maria là mẫu gương tuyệt hảo về lòng tin, cậy, mến và cộng tác trực tiếp đắc lực với Con của Mẹ trong công trình cứu độ nhân loại. Vì vậy chúng ta thấy trong năm có rất nhiều ngày lễ về Đức Mẹ với nhiều tước hiệu khác nhau.
Trong Năm Phụng Vụ, Hội Thánh đặt vào đó những ngày lễ về các thánh để kính nhớ các Ngài và nhìn lên các Ngài như mẫu gương tuyệt vời về sự trọn lành, thánh thiện, giúp người tín hữu cũng hãy biết noi theo mà đạt đến sự sống viên mãn đời đời như các Ngài. Hay nói khác đi, Hội Thánh muốn trưng diễn Mầu Nhiêm Phục Sinh nơi các thánh vì các Ngài đã nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và được Phục Sinh với Người. Nhờ các Ngài, ta được lôi kéo đến ơn cứu độ sung mãn và hồng phúc Phục Sinh vinh hiển.
65. Thưa cha, con đoán rằng Công Đồng còn một ẩn ý nào đó khi đưa ra Năm Phụng Vụ thì phải, cha thấy thế nào ạ?
Đúng là còn một điều quan trọng nữa mà Công Đồng muốn nhắm tới. Công Đồng muốn lồng vào Năm Phụng Vụ việc huấn luyện người tín hữu cách thường kỳ theo mùa qua ý nghĩa ngày lễ, qua giảng dạy, cầu nguyện, sám hối, làm việc bác ái, những việc lành hồn xác và ngay cả việc nghỉ ngơi thánh hóa bản thân vào ngày Chúa Nhật. Chẳng hạn, Mùa Chay nhắc ta ăn chay hãm mình đền tội đồng chịu đau khổ với Chúa để được niềm vui Phục Sinh với Người, Mùa Vọng nhắc ta tỉnh thức sẵn sàng dọn lòng đón chờ Chúa đến, tháng 5 là Tháng Hoa nhắc ta yêu mến Mẹ Maria nhiều và noi gương Mẹ trên đàng nhân đức mà nên trọn lành và đạt đến ơn cứu độ, tháng 11 là Tháng Các Linh Hồn nhắc ta nhớ đến các Linh Hồn còn vướng mắc và không ngừng cầu nguyện cho họ, giúp họ được thanh luyện để xứng đáng gia nhập đoàn ngũ các thánh trên trời,…
66. Con thấy hay quá cha ạ! Người trẻ chúng con cũng nằm trong số được Công Đồng ưu ái đấy! Thưa cha, trong Năm Phụng Vụ có rất nhiều ngày lễ, vậy Công Đồng chú trọng đặc biệt đến ngày lễ nào?
Công Đồng chú trọng đặc biệt đến Ngày Chúa Nhật. Theo tông truyền thì Ngày Chúa Nhật bắt nguồn từ ngày Chúa Kitô sống lại. Kể từ đó, Hội Thánh cử hành lễ Chúa Nhật để tưởng niệm cuộc thương khó, cái chết của Chúa Kitô và mừng Chúa Sống Lại. Ngày này được gọi là Ngày Của Chúa. Ngày Chúa Nhật là ngày vui mừng hân hoan vì Chúa đã sống lại để đem lại cho chúng ta niềm hy vọng tràn trề, rằng chúng ta cũng sẽ được cùng Phục Sinh với Chúa trong ngày sau hết. Thế nên các bạn lưu ý cho, tuyệt đối không bao giờ được bỏ lễ Chúa Nhật, trừ những lý do chẳng đặng đừng nhé!
Ngày Chúa Nhật là ngày được dành riêng cho Chúa, ngày nghỉ việc, ngày thánh hóa bản thân, ngày làm việc lành phúc đức, ngày thăm viếng an ủi kẻ ưu phiền sầu khổ. Hội Thánh buộc con cái mình phải đi tham dự lễ Chúa Nhật để sống niềm vui Chúa Phục Sinh và nhận lãnh những ân huệ Chúa ban, từ đó sống cho mình và đem chia sẻ cho người khác.
67. Thưa cha, giả như những ngày lễ trọng, lễ kính, lễ nhớ khác trùng vào Ngày Chúa Nhật thì sao cơ?
Những ngày lễ khác trùng vào Ngày Chúa Nhật nếu không thực sự là rất quan trọng thì không được lấn át Ngày Chúa Nhật, buộc phải cử hành Lễ Ngày Chúa Nhật. Bởi lẽ, Ngày Chúa Nhật là Ngày Của Chúa, là nền tảng và là trung tâm của cả Năm Phụng Vụ.
68. Cha ơi! Nhưng mà con thấy có một số nơi yêu mến các Thánh hơn Chúa thì phải?!
Không biết bạn có nhận định phiến diện không? Nếu có một số trường hợp xảy ra như thế thì không đúng tinh thần của Công Đồng Vaticanô II đâu! Vì trong số 108, Công Đồng nói rất rõ về “cấp bậc” lễ. Công Đồng hướng dẫn, trước tiên phải hướng tâm trí các tín hữu về những ngày lễ kính Chúa, là những lễ ca tụng các Mầu Nhiệm Cứu Chuộc. Vì thế, phần riêng mỗi Mùa phải có một chỗ thích hợp vượt trên lễ các Thánh, để toàn thể chu kỳ các Mầu Nhiệm Cứu Chuộc được kính nhớ đúng mức.
69. Cha có nói đến “Mùa Phụng Vụ”. Vậy có bao nhiêu Mùa và Công Đồng nhấn mạnh đến Mùa nào nhất trong Năm Phụng Vụ, thưa cha?
Bạn hỏi câu đáng nể đấy! Chúng ta thấy một Năm Phụng Vụ có những Mùa sau đây: Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Chay, Mùa Phục Sinh và Mùa Thường Niên.
Công Đồng nhấn mạnh đến Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Tuy nhiên Công Đồng đề cập nhiều hơn về Mùa Chay, vì khâu chuẩn bị quan trọng lắm! Giống như cầu thủ trước khi ra sân thi đấu thì đã có một thời gian thật dài để tập luyện. Các bạn biết đó, Mùa Chay là Mùa Tập Luyện thiêng liêng như trong lời nguyện đầu lễ của Thứ Tư Lễ Tro nói đến, Mùa sám hối và nhắc nhớ ta về biến cố được lãnh Bí Tích Rửa Tội, chuẩn bị cho các tín hữu cử hành Mầu Nhiệm Phục Sinh. Công Đồng khuyên, đối với việc sám hối, khi dạy giáo lý phải khắc ghi vào tâm trí các tín hữu các hiệu quả xã hội của tội và bản chất của sám hối là ghét tội bởi lẽ phạm tội là xúc phạm đến Thiên Chúa. Cần lưu ý vai trò của Hội Thánh trong việc tác động đến sám hối và phải nhấn mạnh đến việc cầu nguyện cho tội nhân.
70. Như Công Đồng nhấn mạnh, việc sám hối trong Mùa Chay rất quan trọng. Phải chăng việc sám hối chỉ mang tính cá nhân?
Trong Mùa Chay thánh, việc sám hối không chỉ ở trong lòng và có tính cách cá nhân, mà còn tỏ lộ ra bên ngoài và có tính cách xã hội nữa. Vậy tùy hoàn cảnh mà khuyến khích việc sám hối cả cá nhân lẫn xã hội. Việc thực hành sám hối phải được các Đấng Bản Quyền cổ võ.
71. Thưa cha, trong Mùa Chay, Công Đồng khuyên phải giữ chay như thế nào và vào thời điểm nào thì phù hợp nhất ạ?
Sống chay tịnh để đón Chúa Phục Sinh phải được giữ cách nhiệm nhặt khắp nơi vào ngày Thứ Sáu Chúa chịu khổ nạn và chịu chết trên thập giá. Công Đồng cũng khuyên nên sống chay tịnh qua ngày Thứ Bảy Tuần Thánh nữa. Nhờ đó, người tín hữu được hưởng trọn vẹn niềm vui Chúa Phục Sinh, tâm hồn được an hòa và thanh thoát.
72. Trong Năm Phụng Vụ, con thấy xen kẽ khá nhiều lễ các Thánh. Vậy về việc sùng kính và cử hành lễ các Thánh, Công Đồng khuyên phải làm như thế nào cho phải, thưa cha?
Theo truyền thống tốt đẹp, các Thánh được tôn kính trong Hội Thánh và các di hài cũng như hình ảnh của các Ngài vẫn được sùng kính. Các bạn biết đó, những lễ kính các Thánh nói lên những điều cao cả lạ lùng của Chúa Kitô nơi đồ đệ của Người đồng thời nêu lên những tấm gương sáng chói rạng ngời rất thích hợp để các tín hữu nhìn vào mà noi theo bắt chước, hầu tiến bước trên đường trọn lành.
Công Đồng cũng tiên liệu để những lễ kính các Thánh không lấn át lễ kính nhớ các Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của Chúa Kitô. Có những lễ các Thánh được dành cho từng Hội Thánh địa phương, hoặc dành cho các Quốc Gia hay các Dòng Tu cử hành. Ví dụ: các bạn tuyệt nhiên không thấy trong lịch Phụng Vụ có ghi lễ kính thánh Giêrađô Majêlla, tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế hay làm phép lạ, vào ngày 16.10, (1726 – 1755), nhưng trong Dòng Chúa Cứu Thế lại là lễ lớn, thậm chí có nơi như ở Italia người ta kính Ngài đến hai ba ngày. Một số nơi ở Miền Bắc chúng ta rất yêu mến Thánh Vinh Sơn kính vào ngày 5.4, tu sĩ Dòng Đaminh cũng hay làm phép lạ. Tuy nhiên trong lịch Phụng Vụ chỉ ghi lễ của Ngài, không ghi bậc lễ “trọng”, “kính”, thậm chí “nhớ” cũng không ghi. Dẫu vậy, có những nơi kính Ngài rất trọng thể vì là Thánh thuộc Dòng Đaminh hoặc có Xứ, Họ nhận Ngài làm Bổn Mạng,…
Hội Thánh chỉ phổ biến những lễ kính các Thánh có tầm quan trọng phổ quát thực sự.
* Chúng con cám ơn cha nhiều lắm đã cho chúng con những kiến thức bổ ích về Năm Phụng Vụ theo Công Đồng Vaticanô II. Chúc cha được dồi dào sức khỏe và ơn Chúa.
* Mến chúc các bạn được đầy tràn ân sủng của Chúa, tinh thần luôn hăng hái, nhiệt huyết trong học tập để không ngừng thăng tiến bản thân trên đường phục vụ Hội Thánh.
THÁNH NHẠC
73. Thưa cha, con thấy đạo Công Giáo chúng ta có Thánh Nhạc tuyệt vời quá! Vậy Thánh Nhạc có giá trị như thế nào và ai đã thúc đẩy mạnh mẽ vai trò của Thánh Nhạc trong phụng tự?
Mến chào các bạn! Âm nhạc trong Hội Thánh có giá trị vô giá được khởi đi từ thời sơ khai. “Nói có sách, mách có chứng” nhé! Các bạn hãy mở Thư của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Êphêsô đoạn 5 câu 19 sẽ thấy rất rõ. Thánh Phaolô đã coi trọng Thánh Nhạc và khuyên nhủ các tín hữu Êphêsô: “Anh em hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa”. Còn các Giáo Phụ và các Đức Giáo Hoàng cũng hết lời khen ngợi những bản thánh ca, đặc biệt là Thánh Giáo Hoàng Piô X đã làm sáng rõ vị trí và vai trò của Thánh Nhạc trong phụng tự.
Thánh Nhạc diễn tả lời cầu nguyện cách dịu dàng, cổ cõ sự đồng thanh nhất trí, và góp phần làm cho các nghi lễ được long trọng. Mục đích của Thánh Nhạc nhằm làm vinh danh Chúa và thánh hóa các tín hữu.
Vì vậy, Thánh Nhạc có giá trị vượt hẳn mọi nghệ thuật khác.
74. Công Đồng hướng dẫn phải sử dụng Thánh Nhạc trong phụng tự như thế nào, thưa cha?
Công Đồng khuyên phải hết sức lo liệu sao để duy trì và cổ võ kho tàng Thánh Nhạc, đồng thời phải nỗ lực đào tạo các ca đoàn, đặc biệt là ở các Nhà Thờ Chính Tòa.
Công Đồng cũng nhắc nhở các Giám Mục và chủ chăn khác hãy nhiệt tâm lo liệu để trong bất cứ nghi lễ nào có ca hát, tất cả cộng đoàn tín hữu đều được tham dự một cách linh hoạt, sinh động trong phần dành riêng cho họ.
75. Thưa cha, Thánh Nhạc có vị trí và vai trò quan trọng như vậy, Công Đồng có nhấn mạnh chương trình đào tạo huấn luyện không cơ?
Có chứ! Công Đồng khuyên phải chú trọng đến việc huấn luyện và thực tập âm nhạc trong các Chủng Viện, các Tập Viện cũng như các Học Viện của các Dòng Tu, và cả trong những Học Viện và Học Đường Công Giáo khác. Vì vậy cần đào tạo huấn luyện các giáo sư chuyên lo và đảm nhiệm trách vụ dạy Thánh Nhạc. Nói về điều này, tôi nhớ lại dịp thăm Hoa Kỳ năm rồi (2012). Một người thân quen của tôi đã chở tôi đến đón đứa con gái nhỏ của anh học tại một Trường Công Giáo cạnh Nhà thờ Thánh Columban [số 10801 Stanford Ave., Garden Grove, CA 92840, (714) 534-1174]. Chúng tôi đã phải chờ hơi lâu vì hôm đó, cháu cùng với “ca đoàn nhí” tập hát, luyện giọng trong một chương trình đào tạo thường niên, cố định. Tôi thấy hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục Công Giáo nói riêng của Hoa Kỳ rất chú trọng đến việc đào tạo huấn luyện về nhạc lý và Thánh Nhạc cho học sinh. Tôi dám chắc các giáo viên, giáo sư ở đây đã được đào tạo bài bản về Thánh Nhạc. Thật đáng nể trọng!
Chúng ta trở lại với Công Đồng. Công Đồng nói, nếu được cũng nên thành lập những Viện Cao Đẳng Thánh Nhạc. Ngoài ra còn phải huấn luyện căn bản phụng vụ cho các nhạc sĩ, ca sĩ, thiếu nhi,…
76. Con nghĩ rằng, Công Đồng cũng phải chọn vài hình thức Thánh Nhạc chứ ạ?
Công Đồng rất coi trọng thể loại bình ca, bởi lẽ bình ca là lối hát riêng của phụng vụ Rôma. Vì thế, trong các hoạt động phụng vụ thì bình ca phải chiếm một địa vị chính yếu giữa các thể loại khác. Như thế không có nghĩa là loại bỏ các thể loại Thánh Nhạc khác. Công Đồng cho rằng cũng có thể dùng thể loại Thánh Nhạc đa âm trong việc cử hành phụng tự miễn là theo tinh thần chung của hoạt động phụng tự.
77. Thưa cha, con chưa mường tượng ra được về thể loại “bình ca”. Xin cha nói một chút về thể loại này được không?
Được chứ! Nhưng hơi miễn cưỡng đấy nhé! Bình ca là cung nhạc lâu đời nhất hiện đang được sử dụng trong Hội Thánh, đặc biệt ở Tây Âu. Sử sách ghi lại, Đức Giáo Hoàng Gregory I (590-604) là người đã thúc đẩy mạnh mẽ thể loại nhạc bình ca này. Ngài nổi tiếng vì những cải cách phụng vụ và đẩy mạnh việc hát thánh ca, đặc biệt là hát bình ca. Sau này người ta gọi là trường phái bình ca Gregorian. Ngài cũng là người đầu tiên khởi xướng hát Haleluia trong Mùa Phục Sinh. Qua thầy Phó Tế Jean (850), người ta biết được vài chi tiết liên quan đến Ngài: “Trong nhà Đức Chúa Trời, Đức Giáo Hoàng như vị vua Salomon khôn ngoan nhờ vào nhiệt tình của một người lĩnh xướng, nhờ vào việc sáng tác và điệu nhạc êm dịu, Ngài đã biên soạn antiphonarium studio sissimus nimis utilier compilavit. Ngài đã cho tiếp tục schola cantorum (một thứ trường dạy nhạc thánh, kiêm nhiệm việc hát thánh ca trong phụng vụ) vẫn còn hát trong các thánh đường La Mã, căn cứ theo những nguyên tắc của Ngài”.
Chúng ta đang nói về thể loại nhạc bình ca. Lúc đầu, bản văn phụng vụ được xướng viên xướng to lên theo một âm điệu, sau biến tấu được hát ngâm theo một cung điệu. Dần dần người ta thấy đơn điệu và nhàm chán nên được biến tấu thành nhấn giọng có thể lên cao hoặc xuống thấp ở cuối câu. Họ hát nốt cao hơn hoặc thấp hơn. Nhac bình ca có một cấu trúc tiết tấu tự do. Các bạn cứ tưởng tượng làn sóng thủy triều thế nào thì cung nhạc bình ca tương tự như thế. Nó có sự uyển chuyển liên tiếp, liên kết với nhau. Những giai điệu ban đầu chỉ gồm một, hai nốt nhạc, sau đó cuối câu có thể là ba bốn nốt.
Tóm lại, bình ca là thể loại nhạc có truyền thống lâu đời trong Hội Thánh. Khi xướng hát nhạc bình ca, đặc biệt theo tiếng Latinh, chúng ta được nghe cung điệu rất quyền quý cao sang, uyển chuyển, tâm tình, sâu lắng dễ dàng đi vào lòng người, hướng tâm hồn chúng ta lên tận trời cao, lên tới Thiên Chúa. Nếu có dịp, các bạn hãy tìm những bản Thánh Ca thể loại bình ca để nghe. Tôi dám chắc các bạn sẽ say mê!
78. Nhất định con sẽ tìm các bài thánh ca thuộc loại bình ca này để nghe! Còn thể loại thánh ca bình thường, bình dân thì sao, thưa cha?
Công Đồng khuyên cần phải khuyến khích và cổ võ loại thánh ca bình dân để các tín hữu có thể ca hát trong những việc đạo đức thường ngày như trong phụng vụ.
79. Con thấy có rất nhiều thể loại nhạc dân tộc, cũng như có quá nhiều nhạc cụ dân tộc khác nhau. Vậy, Công Đồng có những hướng dẫn cụ thể như thế nào ạ?
Công Đồng rất tôn trọng các thể loại nhạc, nhạc cụ dân tộc sẵn có trong các dân tộc trên thế giới, nhất là ở những xứ Truyền Giáo. Vì rằng âm nhạc truyền thống ấy mang đậm nét bản sắc văn hóa, tôn giáo của một dân tộc. Công Đồng khuyên phải hết sức quý trọng và dành cho nó một địa vị xứng hợp, hầu hướng dẫn đem áp dụng và làm cho thích ứng vào việc phụng tự Công Giáo. Công Đồng nhắc nhở các vị thừa sai cũng như các nhà truyền giáo phải làm sao vừa giúp phát triển truyền thống âm nhạc, nhạc cụ của các dân tộc vừa giúp thích ứng cách hài hòa vào trong phụng vụ của Hội Thánh.
80. Thưa cha, Công Đồng coi trọng loại nhạc cụ nào nhất?
Công Đồng rất coi trọng loại nhạc cụ đại phong cầm. Đây là loại nhạc khí cổ truyền có được thứ âm thanh tuyệt diệu có thể làm tăng vẻ huy hoàng mỹ lệ cho các nghi lễ, giúp tâm trí người nghe nâng lên cùng Chúa và triều thần thánh trên trời. Còn các loại nhạc cụ khác thì tùy thuộc vào Đấng Bản Quyền địa phương suy xét và chuẩn nhận sao cho thích hợp với phụng tự thánh giúp nâng tâm hồn người tín hữu nơi thờ phượng.
81. Thưa cha, Công Đồng có đề cập gì đến các nhạc sĩ hay các nhà sáng tác nhạc không?
Có chứ! Công Đồng nhấn mạnh, các nhạc sĩ phải thấm nhuần tinh thần Kitô giáo và phải ý thức mình có trách vụ trau dồi Thánh Nhạc và góp phần phát triển kho tàng Thánh Nhạc vô giá.
Họ được mời gọi hãy sáng tác những bản thánh ca phù hợp cho các ca đoàn lớn nhỏ đồng thời giúp cho các cộng đoàn Kitô hữu được tham dự cách linh hoạt và sinh động trong việc dùng lời ca tiếng hát mà chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa. Đương nhiên những lời của các bản thánh ca phải thích hợp với giáo lý Công Giáo, không sai thần học.
82. Vậy các nhạc sĩ Công Giáo thường có cảm hứng và nguồn sáng tác ở đâu cơ?
Các nhà sáng tác thánh ca thường lấy ý tưởng và có cảm hứng từ Kinh Thánh, Giáo Lý hoặc Phụng Vụ.
* Hẹn các bạn kỳ sau nhé! Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về “Nghệ thuật thánh và dụng cụ thánh”. Cám ơn các bạn!
* Chúng con cám ơn cha nhiều.
NGHỆ THUẬT THÁNH VÀ DỤNG CỤ THÁNH
83. Thưa cha, nghệ thuật nói chung có giá trị rất cao, phương chi nghệ thuật thánh, giá trị còn cao biết chừng nào. Vậy xin cha cho biết Công Đồng Vaticanô II đã nói về nghệ thuật thánh như thế nào và giá trị của nghệ thuật thánh ra sao?
Mến chào các bạn! Nghệ thuật nói chung (như mỹ thuật, hội họa, điêu khắc, kiến trúc,…) là hoạt động cao quý nhất của tài trí con người. Chúng ta đề cập cách đặc biệt ở đây là nghệ thuật tôn giáo hay còn gọi là nghệ thuật thánh.
Tự bản chất, nghệ thuật thánh nhằm diễn tả những vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa qua những tác phẩm nhân loại. Một khi các tác phẩm đó chỉ nhằm mục đích hướng tâm trí con người về cùng Chúa cách đạo đức thánh thiện thì nghệ thuật này càng làm cho Thiên Chúa rạng rỡ, được ca tụng, yêu mến và tôn vinh hơn. Vì thế nghệ thuật thánh có chỗ đứng và giá trị to lớn trong Hội Thánh.
84. Để có được những tác phẩm giá trị hợp đạo đức, hợp với đức tin, hợp với truyền thống, chắc Hội Thánh phải có chương trình huấn luyện hay có sự thẩm định như thế nào đó chứ, thưa cha?
Đúng thế, để có được những tác phẩm nghệ thuật giá trị cao và xứng hợp trong việc phụng tự, Hội Thánh luôn lo liệu để huấn luyện các nghệ sĩ, đồng thời coi mình như vị thẩm phán về mỹ thuật, xem xét, “cân đo đong đếm” tác phẩm nào của các nghệ sĩ thích hợp với đức tin, với lòng đạo đức và với những luật lệ truyền thống trong đạo, xứng đáng dùng vào việc thánh?
Các Giám Mục Giáo Phận có trách nhiệm trong việc huấn luyện các nghệ sĩ. Giám Mục có thể tự mình hoặc nhờ các Linh Mục có khả năng về nghệ thuật lưu tâm và hướng dẫn các nghệ sĩ để họ thấm nhuần tinh thần nghệ thuật thánh và Phung Vụ thánh. Các Ngài cũng có trách nhiệm trong việc mở những trường hay học viện về nghệ thuật thánh ở những nơi cần thiết để huấn luyện đào tạo các nghệ sĩ.
85. Thưa cha, Công Đồng có khuyên các nghệ sĩ điều gì không?
Công Đồng khuyên, các nghệ sĩ có tài năng nếu muốn phụng sự Thiên Chúa, làm vinh danh Ngài trong Hội Thánh thì phải nhớ kỹ họ phần nào bắt chước Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo trong việc sáng tạo. Họ sáng tác những tác phẩm nghệ thuật Công Giáo để dùng vào việc thờ phượng, vào việc cảm hóa các tín hữu, giúp họ tăng thêm lòng đạo đức thánh thiện và huấn luyện bồi bổ giáo lý cho họ nữa.
86. Xin cha cho biết Công Đồng đề cập đến các kiểu nghệ thuật thánh nào?
Công Đồng không bao giờ coi một kiểu nghệ thuật nào là của riêng song công nhận các kiểu của bất cứ thời đại nào, theo đặc tính, hoàn cảnh của các dân tộc, vùng, miền hay tùy theo nhu cầu của các nghi lễ. Các tác phẩm nghệ thuật phải được tự do phô diễn trong Hội Thánh miễn sao giữ được vẻ trang trọng tôn kính và không sai đức tin hay phong hóa.
Các Giám Mục có vai trò quan trọng trong việc thẩm định và lo liệu sao để trong các ngôi thánh đường không bao giờ được trưng bày những tác phẩm nghệ thuật nghịch với đức tin Công Giáo và phong hóa, nghịch với lòng đạo đức Kitô giáo. Loại trừ hẳn những tác phẩm làm tổn hại ý nghĩa tôn giáo đích thực, có thể là hình thức tồi bại, thiếu tính nghệ thuật hay mang hình thức giả tạo.
Các Đấng Bản Quyền trong việc thẩm định các tác phẩm nghệ thuật nên lắng nghe ý kiến của Ủy Ban Giáo Phận đặc trách nghệ thuật thánh hoặc lắng nghe những người am hiểu sâu sắc về lĩnh vực này.
Các Ngài cũng phải lo liệu sao để việc xây cất nhà thờ mang lại tính thiết thực, hiệu quả, xứng hợp trong việc giúp Kitô hữu chu toàn các hoạt động phụng vụ và tham dự cách linh động.
Còn về dụng cụ thánh, các Ngài phải bảo vệ giữ gìn những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao. Tránh tối đa các tác phẩm nghệ thuật giá trị cao ấy bị di dời, chuyển nhượng hay bi tiêu hủy.
87. Còn việc trang trí các ảnh tượng trong các nhà thờ thì sao, thưa cha?
Công Đồng khuyên phải kiên quyết duy trì thói quen đặt ảnh tượng thánh trong các nhà thờ cho các Kitô hữu tôn kính. Song số lượng các ảnh tượng ấy chỉ vừa phải thôi và phải được sắp xếp sao cho thích hợp, không nên làm cho giáo dân chia trí và gây nên lòng tôn kính thiếu đúng đắn.
88. Thưa cha, hàng giáo sĩ có được huấn luyện về nghệ thuật không ạ?
Có chứ! Chắc chắn khi đang theo học chương trình triết học và thần học, các ngài đã được học hỏi về lịch sử và sự biến chuyển của nghệ thuật thánh rồi. Các ngài cũng được học để am hiểu về nguyên tắc lành mạnh mà các tác phẩm nghệ thuật thánh phải dựa theo để họ biết quý trọng duy trì hay bảo trì những công trình đáng kính của Hội Thánh. Họ cũng có thể đưa ra những sáng kiến hoặc ý kiến thích hợp cho các nghệ sĩ hầu giúp nghệ sĩ thực hiện các tác phẩm nghệ thuật của mình.
89. Con thấy các Giám Mục có huy hiệu riêng. Vậy Công Đồng nói gì về điều này, thưa cha?
Công Đồng khuyên nên dành riêng việc sử dụng phẩm phục hay huy hiệu Giám Mục cho những ai trong Hội Thánh có chức Giám Mục hoặc có thẩm quyền đặc biệt nào đó.
* Chúng con chân thành cám ơn cha!
* Mến chúc các bạn luôn vui khỏe! Hẹn gặp lại trong số tới nhé!
SẮC LỆNH VỀ CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
90. Thưa cha, con thuộc thế hệ trẻ mãi sau này, cách xa Công Đồng Vaticanô II hơn 50 năm! Con không rõ lắm xã hội lúc bấy giờ. Con nghĩ rằng thời kỳ Công Đồng diễn ra chắc có sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông và nhu cầu rất lớn về thông tin đại chúng. Vậy Công Đồng đề cập đến vấn đề này ra sao cơ?
Các bạn biết rồi đó, Công Đồng được nhóm họp để “điều chỉnh” những vấn đề trong Hội Thánh và “cập nhật” những vấn đề mới mẻ của xã hội, kể cả cởi mở và đối thoại với thế giới, hầu giúp Hội Thánh thích ứng kịp thời. Nghĩa là Hội Thánh vận dụng mọi khả năng, sức lực có được để sống đạo hữu hiệu và loan báo Tin Mừng cho muôn dân cách tốt nhất.
Đúng là vào thời kỳ Công Đồng diễn ra, truyền thông xã hội đã phát triển và nhu cầu thông tin đại chúng cao lắm. Hội Thánh ý thức về sự lợi hại của các phương tiện truyền thông, mở ra một giai đoạn lịch sử mới, nhằm tổ chức lại những cơ quan cũng như các nhân viên Công Giáo đang hoạt động trong các lĩnh vực truyền thông.
Chính vì thế, Công Đồng mau chóng nắm bắt “vận hội” và đã soạn thảo công phu cả một Sắc Lệnh đặc biệt, nói về các phương tiện truyền thông xã hội cách long trọng. Đây là tài liệu quá mới mẻ và tương đối đầy đủ nói lên lập trường của Hội Thánh. Tài liệu này được gọi là “Sắc Lệnh” về các phương tiện truyền thông xã hội vì nó ngắn và mang tính mục vụ cụ thể.
91. Thưa cha, cha vừa nói đến “Sắc Lệnh về các phương tiện truyền thông xã hội”. Xin cha cho biết đặc tính của Sắc Lệnh này ạ?
Mục đích của Sắc Lệnh có tính mục vụ cụ thể. Sắc Lệnh được chia thành hai phần: phần một đề cập đến các nguyên tắc luân lý để sử dụng và kiểm soát các phương tiện truyền thông; phần hai hướng dẫn cách tổ chức sử dụng những phương tiện này trong các công việc mục vụ tông đồ của Hội Thánh. Sắc Lệnh này thiên về phần luân lý, cảnh báo và đề phòng trong lĩnh vực truyền thông.
92. Thưa cha, Sắc Lệnh về các phương tiện truyền thông có ảnh hưởng gì đối với Hội Thánh Công Giáo Việt Nam chúng ta?
Các bạn thân mến! Hội Thánh Việt Nam chúng ta đã trải qua nhiều thế kỷ đầy khó khăn và thách thức để loan báo Tin Mừng bằng nhiều phương tiện khác nhau: bằng giá máu của các vị Tử Đạo, bằng gương sáng của người Kitô hữu, bằng kinh nguyện và lời cầu nguyện chân thành, bằng công việc từ thiện bác ái, bằng các sinh hoạt rước sách nơi các ngôi nhà thờ, những thánh lễ được diễn ra không ngừng nối tiếp nhau,… Tuy nhiên có khi còn giới hạn, hạn hẹp và khép kín lắm! Chính Công Đồng Vaticanô II đã thổi luồng gió mới vào Hội Thánh Công Giáo Việt Nam theo chiều hướng thuận lợi cởi mở thay cho thái độ co cụm tự vệ, đối thoại liên tôn thay vì coi họ là “dân ngoại” hay “lương dân”.
Chính vì thế, các phương tiện truyền thông xã hội giúp con người vươn tới nhau, liên hệ, liên đới với nhau cách dễ dàng. Vậy không có cớ gì mà Hội Thánh Việt Nam hôm nay cũng như chính các bạn lại không “nắm” ngay lấy “vận hội” là các phương tiện truyền thông xã hội để loan báo Tin Mừng trong tinh thần phổ quát, cảm thông chia sẻ đức ái của đạo Công Giáo chúng ta.
93. Thưa cha, từ nãy đến giờ con nghe cha nói nhiều về các phương tiện truyền thông xã hội. Vậy các phương tiện đó gồm những loại nào?
Các phương tiện truyền thông xã hội là những phát minh hết sức diệu kỳ nhờ trí tuệ, tài năng Thiên Chúa phú ban cho con người. Tất cả những phương tiện truyền thông xã hội đều nhằm truyền tải những tin tức, tư tưởng, mệnh lệnh, hình ảnh, sự kiện biến cố diễn ra trên thế giới. Những phương tiện trổi vượt phải kể đến như: báo chí, truyền thanh, truyền hình, điện ảnh, kịch nghệ, internet và những loại khác tương tự. Hội Thánh rất chú ý đến phương tiện trổi vượt có tầm ảnh hưởng lớn đến con người như vệ tinh nhân tạo được dùng để thu phát tín hiệu, điện tín, điện thoại, phát thanh, truyền hình, định vị toàn cầu.
94. Con hơi tò mò một chút! Thưa cha, lý do nào mà Công Đồng quan tâm đặc biệt đến các phương tiện truyền thông xã hội như vậy?
Bạn có lý khi hỏi câu này! Hội Thánh Mẹ chúng ta luôn xác định rằng phải luôn đồng hành cùng nhân loại trên mọi nẻo đường để dẫn nhân loại về cùng Thiên Chúa. Vì thế Hội Thánh không thể không dùng các phương tiện truyền thông xã hội, là thành quả phát minh của con người để đem lại những lợi ích thiêng liêng, tinh thần, cũng như củng cố, loan truyền mở rộng Nước Chúa.
Hội Thánh cũng cảnh tỉnh, cảnh báo con người phải sử dụng đúng mục đích và hữu hiệu các phương tiện truyền thông này, nếu không chúng sẽ đi nghịch lại ý định của Đấng Tạo Hóa hoặc gây nguy hại cho chính con người. Chắc chắn Hội Thánh sẽ quặn đau khi thấy con người sử dụng sai hoặc lợi dụng các phương tiện truyền thông để làm những điều dối trá, xấu xa, đồi bại, dẫn đến thiệt hại và gây ra hậu quả khôn lường cho xã hội và Hội Thánh.
Vậy Công Đồng quan tâm đặc biệt đến các phương tiện truyền thông cũng là chí lý! Chính qua Sắc Lệnh quý báu này, Công Đồng muốn giúp ích cho phần rỗi nhân loại và giúp cho sự tiến bộ của cộng đồng loài người.
PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
95. Thưa cha, với các phương tiện truyền thông trong tay, Hội Thánh phải thực hiện những nhiệm vụ gì?
Hội Thánh luôn xác định phải bằng mọi cách mang lại phần rỗi cho tất cả mọi người qua việc loan báo Tin Mừng. Vì thế Hội Thánh nhận thấy mình có bổn phận dùng cả phương tiện truyền thông xã hội để truyền giáo và dạy con người biết sử dụng chúng cách đúng đắn. Hội Thánh có quyền sử dụng và làm chủ bất cứ loại phương tiện truyền thông xã hội nào, tùy theo mục đích và ích lợi cho việc giáo dục các Kitô hữu và cho việc mưu cầu phần rỗi các linh hồn.
Các vị chủ chăn đáng kính có nhiệm vụ huấn luyện và hướng dẫn các tín hữu hầu giúp họ biết dùng các phương tiện này để trau dồi lẽ đạo, học hỏi Giáo Lý, Kinh Thánh,… hướng đến hoàn thiện chính mình và nhân loại.
Các Kitô hữu cũng có bổn phận làm cho các phương tiện này thấm đượm tinh thần nhân đạo, bác ái và Kitô giáo.
96. Luật luân lý có được áp dụng trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội không, thưa cha?
Có chứ! Rõ ràng Công Đồng nhấn mạnh cần phải giúp những người sử dụng các phương tiện truyền thông hiểu biết về những nguyên tắc luân lý và áp dụng triệt để vào lĩnh vực truyền thông. Những người làm công việc truyền thông cần phải cân nhắc xem nội dung nào được phép truyền thông. Họ cũng phải xét về mục đích, hoàn cảnh, khán thính giả, nơi chốn, thời gian liên quan đến việc truyền thông này. Bởi lẽ chính những nội dung truyền thông xác đáng đều có thể làm biến cải hoặc đổi mới hoàn toàn tính cách luân lý của sự truyền thông. Nhờ đó, thông điệp hay nội dung truyền thông đó có sức mạnh thuyết phục cao của mỗi phương tiện, làm cho người nhận thông tin có thể nhận thức, chế ngự hay không thể từ khước.
97. Thưa cha, cha vừa nói về “thông tin”. Vậy ai được quyền thông tin?
Công Đồng xác định mọi người đều có quyền thông tin. Họ có quyền thông tin với tư cách cá nhân hoặc liên kết với nhau trong đoàn thể, tùy từng hoàn cảnh mỗi người hay mỗi đoàn thể. Nhờ các thông tin, cá nhân hay các dân tộc dễ dàng quen biết nhau, hiểu nhau và đi đến sự hiệp nhất.
Khi sử dụng các phương tiện truyền thông để phổ biến thông tin, cá nhân hay đoàn thể phải tuân theo những nguyên tắc sau đây:
- Cần phải tự đào tạo cho mình có được một lương tâm ngay thẳng, nhất là những gì liên quan đến một số vấn đề “nhạy cảm” mà người ta đang bàn cãi sôi nổi. Ví dụ như hôn nhân đồng tính, nạo phá thai, nạn tham nhũng, tội ác chiến tranh, nạn buôn người xuyên biên giới,…
- Thông tin đúng lúc, đúng chỗ, kịp thời, liên tục, đầy đủ các sự kiện biến cố cho từng cá nhân hay đoàn thể hẳn sẽ mang lại nhiều hữu ích, hữu hiệu, giúp mọi người đóng góp phần mình vào việc thăng tiến xã hội loài người.
- Truyền thông phải luôn xác thực, trình bày nội dung phải đầy đủ, trung thực (không bị cắt xén, thêu dệt, bóp méo,…) nhằm giữ sự công bình, bác ái vì “bác ái thì mang tính xây dựng” (x. 1 Cr 8,1).
- Cách thức truyền thông phải mang tính lương thiện và thích hợp trong cả việc săn tin lẫn loan tin.
- Tuyệt đối phải tuân giữ luật luân lý, các quyền lợi chính đáng và tôn trọng phẩm giá con người. Bởi lẽ chỉ có lĩnh vực luân lý mới liên hệ đến bản tính con người toàn diện – một thọ tạo có lý trí đã được Thiên Chúa tạo dựng và mời gọi vào đời sống siêu nhiên. Một khi con người trung thành tuân giữ trọn vẹn luật luân lý, con người sẽ đạt tới hoàn thiện và hạnh phúc tròn đầy.
98. Thưa cha, con xin chuyển đề tài nhé! Đây là một vấn đề hơi khó nói và rất “nhạy cảm”. Vậy khi phải phơi bày tội ác thì nhà truyền thông phải làm thế nào?
Khi phải phơi bày tội ác hay điều xấu, nhà truyền thông phải tuyệt đối tuân theo luật luân lý để đem lại lợi ích cho các tâm hồn. Đặc biệt khi họ phải đề cập đến những vấn đề đòi phải thận trọng hay đến những gì dễ khiêu khích, kích động dục vọng xấu xa của con người – mầm mống của tội nguyên tổ. Nếu không con người sẽ trở thành phóng đãng và gây nên những tai họa khôn lường.
Vì lẽ đó, nhà truyền thông nên trình bày song song những giá trị, vẻ huy hoàng của Chân, Thiện, Mỹ với những điều ác, điều xấu hầu vạch trần tội ác hướng con người đến những giá trị cao quý của Tin Mừng.
99. Còn về vấn đề dư luận dân chúng thì sao, thưa cha?
Các bạn nên biết rằng, dân chúng ngày càng có uy lực rất lớn trong đời sống xã hội nói chung và trong lĩnh vực truyền thông nói riêng. Thế nên mọi người trong xã hội, nhất là giới truyền thông cần phải sống công bình, bác ái. Họ phải dùng những phương tiện truyền thông xã hội để bằng mọi cách tạo nên dư luận dân chúng ngay chính, trung thực và nỗ lực phổ biến những dư luận đó.
100. Thưa cha, còn bổn phận của những người tiếp nhận thông tin thì sao cơ?
Mọi người tiếp nhận thông tin đều phải có bổn phận đặc biệt sau đây:
- Họ có quyền tự do lựa chọn thông tin.
- Những thông tin mà họ lựa chọn cần hội đủ các giá trị đạo đức, khoa học, nghệ thuật.
- Họ phải tránh tối đa những gì gây thiệt hại về mặt thiêng liêng hoặc vì gương mù mà dẫn người khác đến sự nguy hiểm.
- Tránh ngăn cản những việc truyền thông tốt và cổ vũ việc truyền thông xấu chỉ vì một món lợi nào đó về kinh tế.
- Người tiếp nhận thông tin cũng cần tuân thủ luật luân lý, giữ vững lập trường ngay chính theo tiêu chuẩn lương tâm ngay thẳng, trung thực.
- Họ cần chú tâm vào việc tự đào luyện lương tâm mình bằng những phương cách thích hợp.
101. Về phía thanh thiếu niên, giới trẻ như chúng con cũng như các bậc phụ huynh thì phải có bổn phận gì trong lĩnh vực truyền thông?
Vấn đề này có liên quan trực tiếp đến các bạn đấy nên cần lắng nghe cho kỹ nhé! Những người sử dụng, nhất là thanh thiếu niên, giới trẻ như các bạn phải tập quen với tính kỷ luật, sự điều độ trong việc dùng những phương tiện truyền thông. Các bạn cần phải thấu hiểu những điều các bạn thấy, nghe, đọc, tiếp nhận những thông tin. Nếu cần, các bạn phải thảo luận với những người có kinh nghiệm, những nhà giáo chân chính, những nhà chuyên môn đồng thời phải tập luyện sao cho có sự phán đoán chuẩn xác, đứng đắn.
Còn bổn phận của các bậc phụ huynh thì cần phải quan tâm, coi sóc, theo dõi, để ý, và ngăn chặn những loại thông tin như kịch nghệ, phim ảnh, sách báo,… nào nghịch với đức tin, nghịch với thuần phong mỹ tục nhằm khống chế không cho thâm nhập vào đời sống gia đình, nhất là nơi con cái mình. Họ cũng nên hướng dẫn cho con cái để khỏi sa đà vào những sự hư hỏng do tiếp cận với những nguồn thông tin xấu và nguy hiểm.
102. Còn bổn phận của chính tác giả trong lĩnh vực truyền thông nữa chứ, thưa cha?
Các bạn thân mến! Trong lĩnh vực truyền thông xã hội, trách nhiệm luân lý chính yếu phải kể đến những hạng người sau đây: nhà báo, nhà văn, diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất, “ông bầu” tức người xuất vốn, người phân phối, quản đốc, thương nhân, nhà phê bình và những ai góp phần vào việc thực hiện hay phổ biến những phương tiện truyền thông này. Thực sự trách nhiệm của những hạng người trên hết sức quan trọng vì khi họ thông tin hay cổ động một vấn đề nào đó có thể hướng dẫn nhân loại một cách ngay chính hoặc sai lạc.
Họ có trách nhiệm phối hợp giữa yếu tố kinh tế, chính trị, nghệ thuật để chúng không bao giờ đi ngược lại ích chung.
Để luôn tôn trọng luật luân lý dễ dàng và giữ được đạo đức nghề nghiệp, họ có thể tham gia vào các hiệp hội liên quan đến nghề nghiệp của mình, đồng thời có sự thỏa thuận hay cam kết sẽ tuân giữ luật luân lý cách nghiêm ngặt.
103. Thưa cha, đối tượng lớn nhất của lĩnh vực truyền thông xã hội là lớp người nào?
Một câu hỏi hay quá và cũng rất khó trả lời! Thực sự, Công Đồng xác định đối tượng lớn nhất của lĩnh vực truyền thông xã hội phải kể đến là chính giới trẻ, thanh thiếu niên như các bạn đấy! Chính những lớp người này rất cần đến báo chí, phim ảnh, kịch nghệ,… để giúp giải trí lành mạnh và thăng hoa đời sống, nâng cao tâm hồn. Vậy rất cần có những nhà chuyên môn, những người có kinh nghiệm sâu sắc trong lĩnh vực truyền thông liên quan đến tôn giáo để chuyên lo cho việc truyền thông được hoàn thiện với sự tôn trọng xứng hợp hầu dẫn dắt mọi giới, nhất là giới trẻ đến những điều Chân, Thiện, Mỹ và cùng đích của cuộc đời mình nơi Thiên Chúa.
104. Một vấn đề cũng rất “nhạy cảm”, con xin hỏi cha luôn, không úp mở! Công Đồng đã đề cập đến bổn phận của chính quyền trong lĩnh vực truyền thông xã hội ra sao?
Các bạn thân mến! Tôi cho đây là vấn đề bình thường! Vấn đề trở nên “nhạy cảm” khi ta tránh né nó thôi. Làm sao ta có thể tránh né khi đó là vấn đề bình thường của xã hội? Chính quyền mang một trách nhiệm đặc biệt do những công ích mà các phương tiện này nhắm tới. Công Đồng khẳng định, vì nhiệm vụ, chính quyền các quốc gia có bổn phận phải bênh vực và bảo đảm sự tự do đích thực và chính đáng của việc thông tin, sự tự do mà xã hội ngày nay rất cần để tiến bộ, nhất là những gì thuộc về báo chí.
Chính quyền cũng có bổn phận nâng đỡ tôn giáo, văn hóa, những nghệ thuật chân chính, và phải bảo đảm cho những người sử dụng có thể tự do hưởng thụ quyền lợi chính đáng.
Ngoài ra, chính quyền cũng có bổn phận giúp đỡ những sáng kiến không thể thực hiện được nếu không có sự trợ giúp của chính quyền, nhất là những sáng kiến đặc biệt hữu ích cho giới trẻ.
Cuối cùng, chính quyền – cơ quan chính thức lo lắng cho sự an toàn của dân chúng, có bổn phận xem xét công minh và cẩn thận, bằng cách ban hành luật lệ và thi hành nghiêm chỉnh, đừng để cho những phương tiện này bị lạm dụng mà gây thiệt hại nặng nề cho thuần phong mỹ tục và sự tiến bộ xã hội. Kiểm soát cẩn thận như thế không phải là đàn áp tự do cá nhân hay đoàn thể, nhất là đối với những người vì nghề nghiệp phải dùng các phương tiện này nhưng lại không có sự thận trọng phải lẽ.
Chính quyền cũng phải có những biện pháp đặc biệt để bảo vệ thanh thiếu niên, giới trẻ khỏi những báo chí và kịch nghệ làm hại lứa tuổi họ. Chẳng hạn như những hình ảnh, phim ảnh, kịch nghệ khiếm nhã, thô tục làm mất đi vẻ thuần phong mỹ tục trong sáng.
PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI VÀ VIỆC TÔNG ĐỒ
105. Thưa cha, Công Đồng Vaticanô II đã đề cập đến hoạt động của các vị chủ chăn và tín hữu về lĩnh vực truyền thông như thế nào ạ?
Công Đồng đã nhấn rất mạnh về hoạt động của các vị chủ chăn và tín hữu. Tất cả con cái của Hội Thánh phải đồng tâm hiệp lực, hăng say bắt tay ngay vào việc sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội cách đắc lực và tham gia vào các công việc tông đồ khác nhau tùy hoàn cảnh, điều kiện, thời gian,… Họ cũng có trách nhiệm ngăn ngừa những dự tính gây ra tai hại ở những nơi cần họ can thiệp kịp thời.
Công Đồng còn dùng từ rất mạnh “cấp tốc” mang tính khẩn cấp, khẩn thiết khi nói về nhiệm vụ quan trọng của các vị chủ chăn trong lĩnh vực truyền thông này. Công Đồng viết rằng, các vị chủ chăn đáng kính phải cấp tốc chu toàn phận sự trong lĩnh vực này, vì nó liên hệ chặt chẽ với nhiệm vụ thông thường của các ngài giảng dạy. Những giáo dân đang sử dụng những phương tiện này cũng phải cố gắng làm chứng về Chúa Kitô: trước hết bằng cách hoàn tất mọi công tác cho thành thạo với tinh thần tông đồ, rồi tùy khả năng kỹ thuật, kinh tế, văn hóa và nghệ thuật mà trực tiếp trợ giúp hoạt động mục vụ của Hội Thánh theo phận sự của mình.
Công Đồng đã nhấn mạnh và hết sức coi trọng truyền thông, coi trọng nhiệm vụ của cả chủ chăn và giáo dân. Vậy hà cớ gì mà các bạn lại không mau mắn cộng tác với các vị chủ chăn, với các thành phần trong Hội Thánh tận dụng các phương tiện truyền thông xã hội có được mà làm chứng cho Chúa, loan báo Tin Mừng cho mọi người, nhất là cho lớp trẻ như các bạn?
106. Chẳng hạn người Công Giáo như bản thân chúng con đây có được đóng góp những sáng kiến gì không trong lĩnh vực truyền thông này?
Được chứ! Người Công Giáo chúng ta, chẳng hạn như các bạn phải cổ vũ báo chí lành mạnh, giúp độc giả thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, cũng phải thúc đẩy báo chí chính thức của Công Giáo. Báo chí này có thể do giáo quyền hoặc do những người Công Giáo đề xướng và điều hành, xuất bản với tinh thần xây dựng, củng cố và cổ vũ những dư luận phù hợp với quy luật tự nhiên, với giáo lý và quy luật Công Giáo, phổ biến, giải thích những sự kiện liên quan đến đời sống Hội Thánh.
Người Công Giáo cũng cần động viên khuyên bảo mọi người đọc và phổ biến báo chí Công Giáo để họ biết phán đoán mọi biến cố theo quan niệm Kitô giáo.
107. Xin cha nêu rõ cụ thể những cách thức truyền thông nào ạ?
Người Công Giáo có thể phát động và hỗ trợ sản xuất và trình chiếu những bộ phim hữu ích, giá trị, phong phú về nội dung hoặc có tính giáo dục cao, có khả năng giải trí lành mạnh, mang tính văn hóa và nghệ thuật cao.
Người Công Giáo cũng phải giúp đỡ những buổi phát thanh, phát hình lành mạnh, nhất là những chương trình thích hợp với gia đình. Dần dần dẫn khán thính giả tham dự sâu sắc vào đời sống của Hội Thánh, làm cho mọi người thấm đượm chân lý Kitô giáo. Nếu đã có báo chí, phát thanh, truyền hình mạng, website,… thì phải lo sao cho chương trình được phong phú và hữu hiệu.
Chúng ta cũng nên cổ vũ nền kịch nghệ cao quý và đậm nét bản sắc dân tộc để qua các phương tiện truyền thông xã hội, hướng về việc giáo dục khán thính giả và xây dựng những giá trị cao quý nền văn hóa, văn minh, vẻ đẹp mỹ miều của thuần phong mỹ tục.
Để thực hiện được những sáng kiến trên, Hội Thánh rất cần đến những chuyên viên giỏi, những người có chuyên môn cao, kỹ thuật viên, những “cây viết” sắc sảo, những đạo diễn tài ba, những người giàu kinh nghiệm,…
108. Con đoán chắc là Công Đồng phải có sự hướng dẫn nào đó về việc huấn luyện các tác giả, soạn giả, nhà sản xuất chứ?
Đúng thế. Công Đồng nhấn mạnh, để có thể đáp ứng những nhu cầu, những sáng kiến kể trên, cần phải đào tạo kịp thời những Linh Mục, Tu Sĩ, và Giáo Dân để họ có đủ những kiến thức, kinh nghiệm, khả năng thích đáng trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội vào việc tông đồ mục vụ.
Hội Thánh cần phải huấn luyện Giáo Dân nắm bắt vững chắc về kỹ thuật, giáo thuyết, phong hóa, thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, nắm chắc học thuyết xã hội của Giáo Hội, hiểu rõ luật luân lý, hướng dẫn, linh hướng, giúp đỡ các diễn viên, nhà báo, nhà văn, nhà phê bình, đạo diễn, nhà làm phim ảnh, kỹ thuật viên các trang web hay các trang mạng xã hội để họ hăng say đóng góp phần mình trong lĩnh vực truyền thông xã hội hầu đem lại “món ăn tinh thần” cũng như loan báo Tin Mừng cho mọi người.
109. Đối với người sử dụng, người tiếp nhận thông tin thì sao, thưa cha?
Những người này, đặc biệt là giới trẻ như các bạn cần được huấn luyện về lý thuyết, thực hành cách thích hợp để có thể sử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông xã hội. Họ phải được hướng dẫn về các nguyên tắc luân lý Công Giáo. Ngay cả trong các lớp giáo lý cũng phải được trình bày hay giải thích về giáo thuyết, hay các vấn đề liên quan về lĩnh vực này.
110. Thưa cha, con thấy chắc cần có những phương tiện hỗ trợ hay sự giúp đỡ cụ thể, đắc lực từ phía mọi thành phần trong Hội Thánh chứ?
Công Đồng nhận thấy rất lấy làm tiếc và đáng hổ thẹn khi thấy con cái Hội Thánh đã có thái độ lãnh đạm, dửng dưng, làm trì trệ, cản trở công việc loan báo Tin Mừng chỉ vì không đầu tư về kỹ thuật hay phương tiện tài chính mà các phương tiện truyền thông đòi hỏi. Vì thế, đã là con cái Hội Thánh, trong tư cách và khả năng của mình, mọi người cần phải nâng đỡ và trợ giúp đắc lực các nhật báo Công Giáo, các tạp chí, các tổ chức thuộc các loại phương tiện truyền thông nhằm mục đích cùng nhau bảo vệ sự thật, sự sống (Xin xem kỹ số 17 của Phần này), cung cấp đầy đủ nền giáo dục Công Giáo cho nhân loại. Mọi người đều có quyền dùng những khả năng, kinh nghiệm, tài chính, của mình để nâng đỡ phát triển các phương tiện truyền thông phục vụ cho công việc tông đồ và nền văn hóa đích thực.
111. Con nghĩ rằng Công Đồng phải đặt ra một ngày nào đó cụ thể để nhắc nhở hay cầu nguyện cho việc truyền thông xã hội chứ ạ?
Thực sự, Công Đồng chỉ khuyên và nhắc nhở các vị chủ chăn trong các Giáo Phận rằng, hằng năm các Giám Mục phải cử hành một ngày lễ, để nhắc nhở, hướng dẫn, dạy dỗ mọi thành phần dân Chúa hãy cố gắng đóng góp tích cực phần mình với tinh thần trách nhiệm cao trong lĩnh vực truyền thông, đồng thời cầu nguyện cho công việc này được phát triển tốt đẹp.
Như thế, Công Đồng không chọn một ngày nào cụ thể. Tôi theo dõi và được biết, Hội Thánh chọn ngày lễ Chúa Thăng Thiên làm ngày Truyền Thông Thế Giới. Nghĩa là ngày này rơi vào khoảng giữa tháng Năm hằng năm, có khi rơi cả vào tháng 6. Ví dụ Ngày Truyền Thông Thế Giới năm 2010 là 16.5; năm 2011 là ngày 5.6; năm 2012 là ngày 20.5; năm 2013 là ngày 12.5.
112. Thưa cha, xét về mặt tổ chức, Công Đồng có đưa ra hướng dẫn cụ thể nào không ạ?
Công Đồng đã thành lập ngay một Ủy Ban Truyền Thông của Tòa Thánh, trực thuộc Đức Giáo Hoàng, để thi hành mục vụ “tối cao” về những phương tiện truyền thông xã hội.
113. Thưa cha, con nghĩ rằng, vai trò về các phương tiện truyền thông xã hội của Đức Giám Mục trong các Giáo Phận rất quan trọng. Cha thấy thế nào ạ?
Đúng thế. Đức Giám Mục trong các Giáo Phận có vai trò đặc biệt quan trọng về các phương tiện truyền thông xã hội. Các ngài có bổn phận lưu tâm và hỗ trợ những sáng kiến thuộc lĩnh vực truyền thông trong Giáo Phận mình. Các ngài phải không ngừng cổ vũ phát triển các phương tiện truyền thông, đặc biệt có liên quan đến việc mục vụ tông đồ chung trong Giáo Phận; đồng thời phải hết sức khôn khéo phối hợp nhịp nhàng mọi thành phần, kể cả những tổ chức hay các Dòng Tu thuộc quyền điều khiển của các tu sĩ miễn trừ.
114. Thưa cha, con hơi tò mò một chút. Trong mỗi quốc gia có Hội Đồng Giám Mục. Vậy Hội Đồng Giám Mục này có một Ủy Ban nào về truyền thông xã hội không cơ?
Công Đồng khuyên và truyền một cách khẩn thiết rằng, trong mỗi Hội Đồng Giám Mục của mỗi quốc gia phải thiết lập khắp nơi các cơ quan quốc gia về báo chí, điện ảnh, truyền thanh, truyền hình và phải dùng mọi phương thế để giúp đỡ, hỗ trợ các cơ quan đó. Do đó cần phải có sự đào tạo bài bản, đúng đắn lương tâm tín hữu trong việc sử dụng những phương tiện đó, củng cố và phối hợp nhịp nhàng mọi hoạt động của người tín hữu trong lĩnh vực này.
Vậy phải trao phó cho một Ủy Ban Giám Mục về lĩnh vực này để điều hành, đồng thời mời gọi những giáo dân am hiểu sâu sắc giáo lý Công Giáo, thuần thục lĩnh vực truyền thông tham dự vào Ủy Ban đặc biệt này nhằm đẩy mạnh, phát triển việc truyền thông xã hội, nhất là góp phần đem Tin Mừng đến cho muôn dân.
115. Mỗi quốc gia đều có một Ủy Ban Giám Mục về Truyền Thông, còn quốc tế thì sao, thưa cha?
Các bạn biết đó, các phương tiện truyền thông xã hội đâu chỉ gói gọn trong một quốc gia, nhưng đã vươn ra toàn thế giới, khiến mỗi người trở thành “công dân của toàn thể xã hội nhân loại”. Các bạn quá quen với từ “công dân mạng” hay “cư dân mạng” rồi còn gì?! Vì vậy, Công Đồng khuyên Ủy Ban Giám Mục các quốc gia phải phối hợp chặt chẽ với nhau trong lĩnh vực này trên bình diện quốc tế. Từ đó tạo nên một “Hiệp Hội Truyền Thông Công Giáo Quốc Tế”. Hiệp Hội này sẽ do Tòa Thánh xem xét và chuẩn nhận.
116. Thưa cha, từ nãy đến giờ, con đã hiểu rõ tại sao mà Công Đồng lại dành cả một Sắc Lệnh trang trọng với nội dung hết sức đề cao các phương tiện truyền thông, cụ thể, rõ ràng và mang tính cấp bách khẩn thiết như vậy. Vậy khi phải đưa ra lời khuyên cuối cùng về vấn đề này, thì Công Đồng đã khuyên gì ạ?
Công Đồng khuyên mọi con cái hãy giữ gìn và thực hành giáo huấn của Sắc Lệnh này. Hãy trở nên muối và ánh sáng cho trần gian. Hãy chăm lo và quy hướng tất cả các phương tiện truyền thông xã hội về một mục tiêu duy nhất là giúp ích cho xã hội loài người. Bởi lẽ vận mệnh của xã hội loài người càng ngày càng lệ thuộc vào việc sử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông xã hội. Tất cả phải phục vụ cho ơn cứu độ trần gian và làm cho Danh Thánh Thiên Chúa được cả sáng.
Các bạn là một trong các thành phần mà Công Đồng tha thiết khuyên nhủ đấy! Hãy nắm lấy cơ hội là các phương tiện truyền thông xã hội để loan báo tin Mừng và dẫn đưa muôn dân về cùng đích của mình là Thiên Chúa Tình Yêu.
* Chúng con cám ơn cha nhiều lắm! Chúng con hy vọng sẽ được học hỏi tiếp vào kỳ sau. Kính chúc cha được dồi dào sức khỏe và hăng say làm việc tông đồ, nhất là tận dụng các phương tiện truyền thông để loan truyền Chúa cho muôn dân.
* Các bạn cũng phải nắm lấy “vận hội” là các phương tiện truyền thông để truyền giáo đấy! Cám ơn các bạn. Hẹn các bạn kỳ sau nhé!