Nhảy đến nội dung

Minh Họa Lời Chúa: Chúa Nhật 1 Phục Sinh

MINH  HỌA LỜI CHÚA - TAM NHẬT VƯỢT QUA

THỨ BẢY TUẦN THÁNH VỌNG PHỤC SINH

(Chung cho các năm A.B.C)

Download Powerpoint Slide Show 

(Mc.16,1-8)

 

1.    Ngôi mộ trống

Có người thanh niên hỏi ông Giuse thành A-ri-ma-thê (người đã cho mượn ngôi mộ chôn xác Chúa Giêsu):

-Chúa đã sống lại ra khỏi mồ. Chúa trả ngôi mộ đã mượn lại cho ông. Ông định làm gì với ngôi mộ trống đó.

Ông Giuse vui vẻ đáp:

-Ngài không cần dùng nó nữa. Ngài trả lại ngôi mộ cho tôi. Tôi sẽ đặt một ghế băng đối diện với ngôi mộ trống. Mỗi chiều tôi tới ngồi đó và suy nghĩ: “Giêsu Nadarét đã ngủ trong ngôi mộ này và Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại.

Giuse Arimathê cũng sẽ nằm trong ngôi mộ này, và điều Chúa làm cho tôi là gì? Chúa Giêsu đã nói:”Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga.11,25). Tôi tin lời đó của Chúa. (Theo “Minh họa Lời Chúa).

------------

Chúa Giêsu đã chịu chết chuộc tội loài người và đã sống lại vinh quang. Người cũng đã cho chúng ta sống lại hưởng phước với Người, nếu chúng ta tin Người, làm theo Lời Người. “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin Thầy sẽ không phải chết bao giờ” (Ga.11,25-26).

 

2.    Tin Người sống lại được

Có hai thanh niên da đen làm nô lệ cho một ông chủ Hồi giáo ở Bắc Phi.

Ông thường dạy hai đứa phải tin tiên tri Mahomet. Ông cũng kể cho hai đầy tớ nghe biết thi hài của Mahomet hiện còn giữ trong một chiếc hòm ở thành Mê-đin bên Ả-rập.

Ngày nọ hai đứa nghe một nhà truyền giáo nói về sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Đêm đó, hai đứa bàn tán với nhau:

-Anh nghĩ sao? Ông chủ chúng ta bảo phải tin tiên tri Mahomet, và nói xác của ngài còn đang được giữ trong một chiếc hòm. Còn vị giáo sĩ Công giáo dạy chúng ta Đức Giêsu là Con Thượng Đế. Ngài đến trần gian chịu chết cho chúng ta và đã sống lại ra khỏi mồ, hiện đang ngự bên hữu Thượng đế ở trên trời. Vậy chúng ta nên tin ai?

Anh kia trả lời:

-Tôi nghĩ, chúng mình nên tin vị chết mà sống lại ra khỏi mồ. Vị đó chắc chắn sẽ cho chúng ta sống lại được. Còn tiên tri Mahomet chết mà cứ nằm mãi trong hòm, thì làm sao cho chúng mình ra khỏi hòm được. (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).

 

3.  Phép lạ nào?

        “Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ… Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không còn ở đây, vì Người đã chổi dậy như Người đã nói” (Mt.28,5-6).

        Sự phục sinh của Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận phép lạ của một đời sống mới. Sự phục sinh cũng mời gọi chúng ta để cho Chúa Giêsu làm cho chúng ta những gì Ngài đã làm cho hàng tỷ người trước ta. Sự phục sinh mời gọi chúng ta cứ yêu thương, cho dù tình yêu chúng ta bị chối từ. Sự phục sinh mời gọi chúng ta cứ tin tưởng, cho dù niềm tin bị che khuất. Tin mừng Phục sinh là Chúa đã sống lại ở giữa chúng ta. Tin mừng phục sinh là Chúa Giêsu muốn thực hiện phép lạ trong chúng ta.

        Tôi muốn Chúa Giêsu thực hiện phép lạ nào cho tôi trong lễ Phục sinh.

        “Quyền năng của Chúa Giêsu hoạt động trong chúng ta có thể làm được nhiều hơn những gì chúng ta cầu xin hay nghĩ tới (Ep.3,20) (Trích”Viễn tượng 2000”)

 

4.    Chúa Giêsu là Đấng sống

Trong một cơ hội tình cờ, ba người tín đồ của ba tôn giáo lớn là Phật giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo ngồi chung với nhau và nói chuyện về những bằng chứng thật của Giáo chủ mình.

Người Phật tử nói:

-Khi Phật Thích Ca chết, nguời ta thiêu ngài và đem cốt để trong chùa, nên gọi là chùa xá lợi (xương Phật). Điêu đó chứng tỏ Phật Thích Ca từng hiện hữu.

Môn đồ Hồi giáo bảo:

-Khi Giáo chủ chúng tôi chết, còn để lại một nắm tóc và đang được bảo vệ kỹ lưỡng tại đền thờ. Điều đó chứng minh Giáo chủ chúng tôi cũng đã từng hiện hữu.

Rồi hai người hỏi tín đồ Thiên Chúa giáo:

-Còn Chúa Giêsu của anh khi chết có gì để lại chứng minh không?
Người tín đồ Thiên Chúa giáo trả lời:

-Khi Chúa chúng tôi chết không để lại cái gì cả, vì Người không chết luôn như Giáo chủ các anh, nhưng Người đã sống lại ra khỏi mồ. Do đó chúng tôi không có mảnh xương cốt nào như Phật Thích Ca hay sợi tóc nào như của Giáo chủ Mahomet. Nếu Chúa Giêsu cũng để lại những vật tương tự, thì chúng tôi không tin thờ Người. Nhưng Người đã sống lại từ cõi chết, và hiện đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà cầu bầu cho chúng tôi… (Trích “Chuyện hay ý đẹp”).

 

5. Chỉ là giấc ngủ

 

Không phải là cái chết, nhưng chỉ là giấc ngủ”. Đó là lời nói sau cùng của Cha Bernađô Longô, vị thừa sai truyền giáo tại Congô, bị bách hại bởi tay thù địch ngay tại nhà xứ Lovê, nơi cha đã tận hiến tất cả sinh lực để phục vụ anh em nghèo hèn nhất trong suốt 25 năm trường.

Cha Bernađô chào đời ngày 25 tháng 8 năm 1907 tại một làng nhỏ thuộc miền bắc nước Ý. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo với 10 anh em, cha đã sớm làm quen với dụng cụ nghề nông. Không ngờ trong chương trình của Chúa, những dụng cụ đó đã góp phần chuẩn bị cách tốt đẹp cho sứ mệnh tông đồ của cha sau này.

Năm 1936 chỉ sau vài ngày thụ phong linh mục, cha đã tự nguyện đi truyền giáo tại Congô bên Phi Châu. Thế nhưng Chúa lại đổi hướng, và cha lại được phái đi truyền giáo tại Achentina thuộc Châu Mỹ Latinh.

Sau ba năm trời đầy gian khổ, cuối cùng ước nguyện của cha đã thành sự thật, cha đươc gởi sang Ramba nước Congô. Cha bắt tay vào việc hoạt động không biết mệt mỏi. Cha thường đi bộ tới thăm viếng các gia đình thuộc các điểm truyền giáo lân cận…

Cuộc các mạng năm 1960 kéo theo thảm cảnh bạo lục, bài trừ ngoại kiều và bách hại các giáo sĩ. Hai năm sau đó, nhiều tín hữu và 21 giáo sĩ thừa sai bị sát hại dã man. Nhiều người ngoại quốc ra đi, nhưng cha nhất quyết ở lại với đàn chiên. Và cha đã chết thảm thương ngày 29 tháng 10 năm 1964 với những lưỡi gương đâm thẳng vào tim !...

 

Vụ án phong thánh cho cha đã được bắt đầu ngày 8 tháng 9 năm 1994.

 

Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Kitô không sống lại thì việc giảng dạy của chúng tôi là uống công, và đức tin của anh chị em cũng vô ích” (Thư gởi tín hữu Corintô.

 

Niềm hân hoan phấn khởi của cha Bernađô trước cái chết chính là chứng tá hùng hồn cho niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Nếu chết là hết theo như một số người chủ trương thì cái chết của các vị thừa sai truyền giáo hẳn là điều điên dại. Nhưng vì Chúa Kitô đã sống lại và hằng sống mãi cho nên cai chết vì tình yêu Chúa Kitô chính là bảo đảm sự sống muôn đời.

 

Đây là bí quyết hạnh phúc và niềm vui vô tận của nhân loại, đặc biệt của những người tin theo Chúa. Chúa Giêsu đã sống lại vinh quang, kẻ tin theo Người bảo đảm sẽ được sống lại vinh hiển với Người. (Trích “Thiên đàng là thế đó”).

6.    Anh khùng

Một tín đồ của Chúa bị người trong làng gọi là khùng, vì lúc nào anh cũng để thời giờ thờ phượng Chúa và làm chứng Tin mừng Phục sinh cho đồng bào. Để trả lời cho sự cười nhạo dó, anh kể cho họ câu chuyện sau đây.

Ngày nọ, khi tôi đi xuyên qua cánh rừng, tôi thấy rất nhiều người đang đào một cái huyệt lớn chôn sống ba người đang bị trói nằm gần đó. Tôi tìm cách cứu ba người đó, nên chạy về làng cầu cứu. Dân làng nghe tiếng kêu cứu của tôi thì nhanh chân đến giúp và không ai cho tôi là khùng cả.

Vậy mà khi tôi thấy nhiều người sắp bị chôn vùi trong chết chóc đau khổ, tôi lớn tiếng cảnh tỉnh họ, kêu gọi mọi người cứu giúp họ thoát khỏi cảnh nguy hại khủng khiếp thì tôi lại bị nhạo là mất trí!

-------------

      Thánh Phaolô đã nói: “Lời rao giảng về Thập giá là một sự điên rồ đối với kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa… Bởi thế, anh em thân mến, anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anhh em sẽ không trở nên vô ích” (1Cr.1.18.15,58) (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).

7.    Hai bức tranh

Tàu Titanic bị chìm ở ngoài biển khơi Bắc Đại Tây Dương đêm 15 tháng 4 năm 1912, làm ho 1500 người thiệt mạng luôn là đề tài cho các tác phẩm văn chương nghệ thuật.

Titanic có nghĩa là vĩ đại. Nó nói lên niềm kiêu hãnh của nhân loại. Nhân loại muốn tỏ ca mình không thua gì Thiên Chúa và như thế không cần đến Thiên Chúa. Nhưng kỳ thực những cái vĩ đại con người nhờ khoa học kỹ thuật đem lại không là gì trước sức mạnh của thiên nhiên. Sau khi tày Titanic chìm, một tờ báo tại Anh quốc cho đăng 2 bức tranh hí họa như sau:

Trong bức 1, người ta thấy cảnh tàu Titanic chạm vào tảng băng bên dưới có dòng chữ: “Sự yếu đuối của con người và sức mạnh của thiên nhiên”.

Trong bức 2, người ta thấy một người đàn ông nhường chiếc phao cấp cứu của mình cho một người đàn bà đang bồng con. Và bức tranh được chú thích:

“Sự yếu đuối của thiên nhiên và sức mạnh của con người”.

-------------

Sức mạnh thực sự và sự vĩ đại đích thực của con người không phải khả năng chinh phục hay chế ngự thiên nhiên nhưng là khả năng chế ngự được chính mình, vượt thắng sự ích kỷ để hiến thân cho tha nhân.

Mahatma Gandhi, người đã dành được độc lập cho Ấn Độ đã nói: “Sức mạnh vĩ đại nhất mà nhân loại có trong tay chính là tình yêu”. Đó chính là đường Chúa Giêsu đã biểu dương qua cuộc sống và cái chết của Người: vì thương nhân loại, Người đã sinh ra nghèo hèn, Người đã sống 33 năm kham khổ, Người đã chịu chết cho mọi người được so61ng. Người đã xin Chúa Cha tha cho kẻ hành hạ, Người đã hứa thiên đàng cho người trộm lành.

Qua cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta thất rõ con người chỉ dđược sức mạnh và vĩ đại thực sự bằng hiến thân cho tha nhân, vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Tình yêu. Càng yêu thương, con người càng giống Thiên Chúa và càng vĩ đại. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập II).

 

8. Ý nghĩa cuộc sống

Một Kitô hữu đi hành hương. Sau mấy ngày đi bộ, anh lạc vào rừng khô cằn nguy hiểm. Tuy vậy, hai bên đường vẫn có nhiều người thợ đá đang vất vả đục đẽo và vác những tảng đá to. Anh thấy một người thợ mồ hôi nhễ nhãi, thân gầy còm rất đáng thương. Anh liền đến gợi chuye65y, nhưng thấy người đó có vẻ không vui, trả lời nhát ngừng:

-Không thấy tôi lao động vất vả đây sao mà còn hỏi !...

Anh tìm đến người thứ hai. Người này có vẻ mệt nhọc hơn. Anh hỏi:

-Này bác, bác làm cho đông trình nào:

-Ai thuê thì tôi làm. Làm đổ mồ hôi xót con mắt kiếm tiền nuôi vợ con !...

Lên đến đỉnh đồi, anh thấy một người khác. Người này có dáng vẻ mệt nhọc tiều tụy hơn hai người trước, nhưng trông thấy thanh thản vui vẻ. Thấy vậy, anh hỏi:

-Thưa bác, bác đang làm gì đó?

Người đó ngẩng đầu lên mỉm cười nói:

-Tôi đang đẽo đá để đem về xây dựng thánh đường.

Rồi bác đưa tay chỉ chỗ đang xây dựng ngôi thánh đường đó cho tôi.

-----------

Cùng sống và cùng lao động như nhau, nhưng có người cảm thấy nặng nhọc vất vả vì họ không có lý tưởng sống, chẳng nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Họ sống mà không biết mình sống để làm gì, và sẽ đi về đâu ?!...

Chúa Giêsu đã đến thế gian và Người đã sống một cuộc sống vô cùng sung mãn. Qua cuộc sống và cái chết của Người trên khổ giá, Người muốn nói với chúng ta rằng: “Tình yêu mạnh hơn sự chết, rằng cái chết cũng như mọi khổ lụy trên đời không phải là ngõ cụt, nhưng là cửa dẫn đến vinh quang, và sự sống. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập IV).

 

8.    Cứu người thì được sống

Một linh mục thừa sai ở vùng băng tuyết lạnh lẽo đi xuống núi với một người Tây Tạng. Dọc đường cha gặp một người nằm lạnh cúm trên băng tuyết. Cha nói với người Tây Tạng:

-Chúng ta mau đến giúp nạn nhân đó.

Nhưng người này trả lời:

-Không ai bắt buộc chúng ta giúp người đó. Hơn nữa mạng sống chúng ta còn chưa bảo đảm được đây.

Thấy vậy, một mình cha chạy lại khệ nệ vác người bị nạn đó lên vai và đi xuống núi. Đi được một quãng, cha thấy người Tây Tạng ngã nằm dài trên tuyết vì lạnh, còn cha nhờ vất vả vác người bị nạn, cơ thể hoạt đông giữ được hơi ấm nên thoát chết vì lạnh…

----------

Nhờ giúp người bị nạn, vị thừa sai đã khỏi phải chết vì giá lạnh. Chúa Giêsu chịu chết vì loài người nên được Chúa Cha cho sống lại vinh quang !...

Mỗi ngày có biết bao cơ hội cho chúng ta làm việc lành việc hữu ích cho người khác. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhiều lần nói đến tình liên đới, và Ngài gọi liên đới là một sự giúp đỡ. Hãy nhìn xem xung quanh, chúng ta có thể giúp đỡ. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập IV).

 

9.    Tôi muốn chết lại

Phù thủy Mundaca nổi tiếng vì có thể làm cho người chết sống lại.

Một hôm ông đọc thần chú trước một ngôi mộ của người nổi tiếng nhất vùng đã chết từ mấy thế kỷ.

Ngôi mộ liền mở ra và một người sang trọng bước ra nói:

-Cám ơn ông đã làm cho tôi sống lại. Tôi chính là người lúc còn sống rất giàu sang và tôi đã dùng cảu cải tôi có để giúp ích cho mọi người xung quanh tôi. Giờ đây tôi được trở lại trần gian, chắc mọi người sẽ vui mừng tiếp rước tôi.

Nói xong, bà ta vội vàng để về nơi bà ta sinh sống lúc trước. Nhưng chỉ sau mấy ngày, bà ta trở lại tìm phù thủy Mundaca năn nỉ:

-Xin ông vui lòng đưa tôi trở lại ngôi mộ của tôi.

Nhà phù thủy nhìn bà ta ngạc nhiên hỏi:

-Sao bà muốn chết trở lại? Ai cũng sợ chết mà.

-Khi trở lại nơi tôi sống thưở trước, không ai biết việc tốt lành tôi đã làm. Dù tôi có nhắc lại, họ chẳng tin. Đến cái đài kỷ niệm xưa tôi xây để ghi nhớ những việc bác ái từ thiện tôi đã làm, nay cũng không còn. Như thế mọi việc tôi làm thuở trước nay đã thành dã tràng…

------------

Câu chuyện vui trên đây trình bày một quan điểm sống của con người. Họ sống, họ làm việc gì cũng mong được danh dự và khen ngợi, chứ chẳng phải vì lòng mến chúa yêu người, để chuẩn bị cho đời sau.

Chúa Giêsu chỉ sống 33 năm, chịu chết và sống lại vì loài người, để cứu rỗi mọi người nên hơn 20 thế kỷ qua và mãi đến tận thế vẫn còn được ghi nhớ công ơn.

Phải chăng đó là bài học Chúa muốn dạy chúng ta là tín hữu Chúa: “Chúng ta sống là sống cho Chúa và vì anh chị em, chúng ta chết cũng vì Chúa và vì đồng loại, theo gương Chúa chúng ta.

Như thế mọi việc chúng ta làm không bị quên lãng mà phải được ghi vào sổ hằng sống trên Quê Trời. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập IV).

 

10.  Ân tình đền đáp ân tình

Một chiều tháng 3 năm 1945, thế chiến thứ hai sắp chếm dứt. Một số tù binh đang sắp hàng chờ bị hành quyết. Theo lệnh của viên sĩ quan Đức, đội quân xử bắn đều lên cò súng chờ nhả đạn. Nhưng thình lình một đám trẻ từ đâu ùa đến đứng chặn hàng ngang giữa các tử tội và đội hành quyết. Đây là những đứa trẻ bị chiến tranh giết hết cha mẹ phải trở thành bụi đời. Viên sĩ quan bối rối không hiểu đám trẻ này liều mạng làm bia đỡ đạn cho các tử tội. Ông ra lệnh cho đội hành quyết hạ súng xuống chờ lệnh. Đám trẻ liền ùa chạy lại bao vây đội hành quyết. Nhờ đó các tử đội được chạy thoát, trong số đó có bác sĩ Hermand. Ông cũng bỏ chạy, nhưng nhớ lại nhóm trẻ đã cứu sống ông, ông có ý tìm chúng, nhưng chúng cũng bỏ chạy hết. Vì không tìm gặp lại các trẻ đó, ông đã quyết tâm hy sinh nuôi dạy gần bốn ngàn em như thế trong nhiều trung tâm do ông xây dựng.

-------------

Đúng là tình yêu đáp lại tình yêu. Không đáp lại được cho chính người đã cứu sống mình thì đền ơn qua kẻ khác, như trường hợp của bác sĩ hermand trên đây. Đó là quy luật của loài người.

Đối với Chúa Giêsu là Đấng đã hy sinh chịu chết cho chúng ta được sống, chúng ta đáp ại tình thương Chúa cách nào?

Chúng ta hãy nghe Chúa trả lời cho chúng ta: “Ta bảo thật: Mỗi lần các con cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta ăn là cho Ta ăn…” Như thế là Chúa đồng hóa với người nghèo khổ bất hạnh, nên chúng ta thương yêu giúp đỡ họ là chúng ta đáp đền công ơn vô biên của Chúa. (Theo “Phút cầu  nguyện cuối ngày”, tập II).

 

11. Sống lại với Chúa

Nước kia có tục lệ khi hoàng tử nào lên ngôi nối nghiệp vua cha thì phải đúc tượng của mình để trong viện bảo tàng quốc gia để lưu danh muôn đời.

Tiếc thay hoàng tử kế nghiệp vua cha kỳ này bị tật gù lưng nên không chịu cho tạc tượng. Cuối cùng vì áp lực của vua cha, hoàng tử chấp nhận cho tạc tượng với điều kiện tượng đó không bị gù lưng mà đứng thẳng, và bức tượng phải đặt trong phòng riêng của hoàng tử đến khi ông ta chết mới được đem vào viện bảo tàng. Sở dĩ hoàng tử làm như thế là vì muốn đáu khuyết tật của mình, không cho thần dân biết.

Khi bức tượng đã tạc xong và đặt trong phòng riêng mỗi ngày hoàng tử nhìn ngắm bực tượng đó và cố gắng đứng thẳng lên như bức tượng. Một việc lạ lùng đã xay ra, sau một thời gian, hoàng tử đứng thẳng người được, không còn gù lưng nữa…

-------------

Câu chuện vui trên mời gọi người tín hữu áp dụng nó vào đời sống tinh thần của mình. Đối với Chúa, khuyết tật gù lưng không phải là điều xấu, chỉ gù lưng tinh thần là tội lỗi và thói hư nết xấu mới là khuyết điểm đáng kinh đáng sợ, phải lo chừa bỏ, xa lánh, sửa chữa, Hoàng tử này bị gù lưng và biết tìm cách chữa trị và đã được khỏi khuyết tật. Người Kitô hữu cần nhận biết khuyết tật tâm hôn của mình mà ăn năn sám hối để được Chúa thứ tha chữa trị.

Chúa Giêsu đã chịu chết và sống lại để giải thoát chúng ta khỏi mọi khuyết tật tinh thần. Chúng ta cần nhìn lên Người, trông cậy Người tái tạo chúng ta nên giống Người, luôn sống kết hợp mật thiết với Người như Thánh Tông đồ Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Theo “Lẽ sống”).

 

Tác giả: