Bước chân ai qua cõi hồng trần sao vội thế?
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lm Nguyễn Văn Thượng
BƯỚC CHÂN AI ĐI QUA CÕI HỒNG TRẦN SAO VỘI THẾ?
Chuông nguyện chiều thầm mong bình minh rực nắng
Tiếng kinh thầm trao tặng hết yêu thương
Dẫu đời ai thoang thoảng tựa trầm hương
Vẫn mơ thắm đượm thiên đường hằng sinh…
***
Tại vài nơi trên thế giới hiện nay, như Trung Mỹ và Nam Mỹ, người dân phải sống trong lo âu sợ hãi. Giữa đêm khuya, một nhóm người vũ trang đầy đủ khí giới bỗng nhiên đột nhập vào một gia đình nào đó, bắt những người thân yêu của họ dẫn đi: “Chúng tôi cho anh năm phút! Anh hãy sửa soạn để đi theo chúng tôi”. Họ bị đưa đi đâu? Người thân của họ không có câu trả lời, phiến quân cũng từ chối tiết lộ. Có thể họ bị bắt lính, bị đưa đi hành quyết, hoặc giam cầm ở một nơi nào đó xa xăm và mất tích. Khi rời khỏi ngôi nhà với những người thân, ra đi bên hai họng súng kè kè, họ đi vào nơi vô định, tối đen như tiền đồ của quốc gia họ. Thế Thôi.
Còn nhớ mùa giải Oscar năm 2008, khi bộ phim “Những Cuộc Ra Đi” được xướng lên, hẳn không ít người bất ngờ vì sự lựa chọn của Viện Hàn Lâm Điện Ảnh Hoa Kỳ. Bởi lẽ bộ phim đoạt giải, Departures - Những cuộc ra đi (NV) là một tác phẩm vốn không được nhiều người biết đến, và Departures đã vượt qua hai ứng cử viên được coi là sáng giá nhất cho hạng mục phim nước ngoài là “Waltz with Bashir” -Điệu Valse cùng Bashir (NV) và The Class – Lớp học (NV).
Departures là một phim kể về Daigo, một nhạc công Violin cello trẻ tuổi. Kobayashi có đam mê từ nhỏ là được chơi đàn Cello, nhưng chẳng bao lâu sau khi anh gia nhập một dàn nhạc giao hưởng, nhà hát ngừng hoạt động và anh rơi vào cảnh thất nghiệp. Sau biến cố đó, anh hoàn toàn lạc lối trước cuộc đời. Anh quyết định cùng vợ về quê hương sống trong ngôi nhà của người mẹ đã khuất, nơi anh phải đối mặt với những kỷ niệm về người cha đã bỏ rơi anh từ thuở nhỏ. Một lần tình cờ đọc mẩu quảng cáo trên báo, Kobayashi tìm đến một cơ sở làm dịch vụ liệm xác người chết. Như một sự sắp dặt của số phận, Kobayashi dần dần bị cuốn hút vào công việc mà chính anh lúc đầu không mấy mặn mà và không được xã hội coi trọng. Tuy nhiên, khi Kobayashi bắt đầu gắn bó với công việc thì cũng là lúc mâu thuẫn trong gia đình nảy sinh vì người vợ phản đối công việc của anh.
Một số nhà phê bình điện ảnh thế giới thậm chí đã bày tỏ sự không đồng tình trước việc bộ phim này đoạt giải. Mặc dù vậy, người hâm mộ điện ảnh khó có thể phủ nhận sự cuốn hút và tính nhân bản của Departures, những yếu tố dường như luôn luôn “ghi điểm” trước Viện Hàn Lâm Nghệ Thuật và lý giải thành công của bộ phim. Công bình mà nói, Departures là một bộ phim giản dị và cảm động. Giản dị bởi bộ phim không có những tình tiết quá phức tạp, lắt léo, cũng không có cách thể hiện quá đặc biệt, khác thường. Cảm động vì bộ phim mô tả cái chết và cái nhìn của con người về cái chết một cách gần gũi và chân thực.
***
Tháng Mười Một lại về, tiếng chuông thả đều chậm chậm chen lẫn tiếng mưa rơi ào ào bên mái ngói nhà xứ. Đúng là như “chuông nguyện hồn ai” đẩy ta trở lại bản chất hư nát của mình để suy nghĩ về một điều mà ai cũng sợ khi phải nghĩ đến – cái chết. Ai cũng sợ phải chết nhưng cũng không qua khỏi. Thực ra, suy nghĩ về sự chết không phải để bi lụy buồn thương hay cố níu cái nhìn về một thực tại sau hết của cấu trúc vật chất này, mà là để nhận ra sự yếu đuối của thân phận, nỗi mong manh bất toàn, bất định, hay nói như Đức Thích Ca Mầu Ni là “lẽ vô thường của sự sống”. Có thể không mấy tươi tắn khi suy nghĩ về sự chết nhưng suy nghĩ về chết để nhắc cho mình một đời sống hiện sinh xứng đáng. Nhiều bậc thức giả, hiền nhân cựu trào nhờ suy nghĩ về sự chết mà đã sống tốt, sống hài hòa hơn trong các mối tương quan với tha nhân, với vạn thể, đồng thời thêm xác tín mạnh mẽ vào một cuộc sống vĩnh hằng vinh hiển. Nhà thơ R.Tagore đón nhận vào suy tư của mình cái chết như một sự thật: “Cuộc sống không phải là một cái gì bền vững và thường hằng, đó là một phát hiện đau đớn, nhưng lại đem đến cho tôi một cảm giác nhẹ nhàng” và “Cái chết đã đem lại cho tôi một cái nhìn đúng đắn hơn” (x. R.Tagore, nxb thời đại, tr. 185).
Phải, ai chẳng phải đi qua chiếc cầu tử thần để bước sang thế giới thần linh. Như câu chuyện xưa của Đức Giáo Hoàng Innocenté IX:
Một hôm, Ðức Giáo Hoàng Innocenté IX mời người bạn thân của mình là cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Tên, lúc đó là cha Laudius Aquaviva, vào phòng riêng và chỉ cho cha một cái hộp nhỏ để trên bàn làm việc của mình và nói:
- Cha biết có gì trong hộp này không? Trong đó có điều quí nhất. Cha hãy mở ra xem.
Cha Aquaviva mở hộp ra và cha rất ngạc nhiên khi nhìn thấy trong hộp một xác người nhỏ xíu nằm ngay ngắn và giống như Ðức Giáo Hoàng. Cha đang phân vân không biết tại sao, thì Ðức Innocenté IX tâm sự như sau:
- Này Cha, hình người chết giống như tôi nằm trong hộp đó là điều rất quí giá. Bởi vì nó gợi lại cho tôi nhớ đến lúc mình sẽ phải chết. Và mỗi lần tôi cần phải quyết định điều gì quan trọng thì sau khi đã cầu nguyện, xin ơn Chúa soi sáng, tôi vào đây, mở hộp này ra, nhớ đến giây phút tôi phải chết rồi mới quyết định. Trước mọi quyết định, tôi đều tự hỏi: “Nếu tôi phải chết ngay trong lúc này thì tôi sẽ phải quyết định như thế nào”. Chính vì thế mà chiếc hộp này rất qúi đối với tôi.
***
Nhân loại đau đáu về vận mệnh. Bóng tối của tử thần phủ trùm nỗi tang thương lên lý trí của những người cứng cỏi nhất. Tất cả đều sợ hãi, đều táo tác chạy tìm phương thuốc trường sinh bất tử nhưng hoàn toàn thất bại. Bởi lẽ, như một định lý toán học bất di bất dịch: cái chết là một phần của sự sống, trong sự sống đã có sự chết. Vị khách tử thần sẽ viếng thăm bất cứ lúc nào, vào sáng sớm tinh sương hay vào lúc đã về xế chiều.
Trong đau đớn tuyệt vọng của kiếp nhân sinh, người người sẽ tự nhủ thầm: có sự sống vĩnh hằng không? sự sống đó như thế nào? Nếu không có sự sống vĩnh hằng thì con người chẳng như những tạo sinh vô tri ngoài kia sao? Không ai cảm nghiệm được sự sống sau cái chết mà sống lại truyền kinh nghiệm ấy cho lớp hậu sinh. Qua hàng trăm triệu năm tồn tại, rốt cuộc chẳng ai biết chết thật là gì, mà cũng chẳng có vong linh nào hiện về để nói về sự chết cho ta cách thuyết phục nhất. Thực tế, công bằng mà nói cũng đã có không biết bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu giả thuyết về sự chết từ văn chương, kinh văn, giáo lý, triết học và cả sinh vật học. Tất cả thất bại và buộc phải chấp nhận: sự chết thuộc về những cảm thức tâm linh vô hình, được cảm nghiệm khác nhau nơi mỗi tôn giáo và học phái triết lý, để giải đáp cho những khắc khoải sự sống vĩnh cửu.
Trong kiệt tác Hữu thể và Thời gian của M. Heidegger, một phần lớn tác phẩm được dành để nói về hiện tượng sự chết. Hiện tượng đó rất quan trọng đối với Heidegger đến nỗi ông mạnh dạn gọi con người là ‘hiện hữu để chết’. Heidegger quan tâm đến sự chết xét như hiện tượng nhân văn trước hết, chứ không phải như một hiện tượng sinh học. Xét như hiện tượng nhân văn, chúng ta là những con người luôn đang đi trên con đường hướng về cái chết. Heidegger như muốn nói rằng cái chết là tương lai cuối cùng đối với mỗi một người chúng ta.
Trong những trào lưu triết học, sự chết được nhìn nhận trên những vấn đề nhận thức luận rất khác biệt nhau. Tỷ dụ ông Epicure (341-270 tcn), triết gia thuộc trường phái duy hoan lạc đã suy tư cái chết như một câu chuyện giải thoát con người khỏi mọi sợ hãi, nhất là sợ chết, khỏa lấp tính cách kinh hoàng của cái chết để cho nhân gian có một cuộc sống thanh thản, bình an. Ông dám khẳng định: “chết chẳng là gì cả”. Mọi người không phải sợ chết, và rằng: “sự chết chẳng là gì đối với ta cả, vì bao lâu ta sống thì nó chưa có, và khi nó có mặt, ta lại không còn tồn tại nữa”. Với quan điểm duy hoan lạc, ông triết lý linh hồn chỉ là vật chất tinh vi mà thôi và sẽ rã tan khi ta chết, vậy nó đâu còn để chịu nỗi đau khổ của cái chết nữa. Như Nguyễn Du vẫn nói: “thác là thể phách, còn là tinh anh” ( x. Nguyễn Du, Đoạn Trường Tân Thanh). Với các ông Senèque và Epitète, sự chết là một tất yếu mang tính cách vũ trụ, rất tự nhiên với mọi thụ tạo. Con người là một phần của vũ trụ biến thiên. Vũ trụ tuần hoàn có lý tính và con người tham dự vào lý tính ấy. Vì thế, không cần phải sợ hãi mà nên chấp nhận cái chết như một “tất yếu theo định luật thiên nhiên”.
Với cánh hiện sinh, Albert Camus (1913-1960) cho rằng cuộc đời là vô nghĩa và phi lý vì chẳng đi đến đâu. Cuộc sống con người đầy mâu thuẫn và mâu thuẫn ngay cả trong chính bản thân mình. Cuộc sống vô nghĩa như thế, thì chỉ có tự tử là điều hợp lý và đúng đắn nhất. Trong thực tế, Camus không giải quyết theo cách đó mà chủ trương phải sống, phải chiến đấu, phải ra sức mang lại một chút ý nghĩa, một chút ánh sáng cho cái thế giới vô nghĩa này. Thái độ của ông trước cái chết tuy anh hùng nhưng vẫn là tuyệt vọng. Heidegger và J.P Sartre lại cho rằng: con người hiện sinh phải sống trong ý thức về sự chết, chính ý thức này làm cho cuộc sống mang tính chân thực và thêm khẩn trương. Thái độ này thật sáng suốt nhưng cũng vẫn là vô vọng.
Trong bối cảnh đó, Heidegger, và theo sau ông là K. Rahner nói về cái chết như một biến cố của sự tự do. Dĩ nhiên tôi không thể chọn lựa mình không chết. Nhưng tôi có thể chọn cách thức mình sẽ chết như thế nào và chọn mình sẽ tạo hình cuộc sống mình như thế nào khi đối mặt với cái chết. Chính sự kiện bị đe dọa liên tục bởi cái chết đã dẫn Victor Frankl đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Dù sao đi nữa, sự chết là một hiện tượng nhân văn, hiện sinh và tích cực cho những ai can đảm gánh vác cuộc đời một cách có trách nhiệm.
Tử thần không ở đâu xa lạ, chẳng phải bộ xương khô khổng lồ khoác áo chuòng trùm đầu đen kịt trong tay lưới hái bén ngót như gươm mà là hiện tượng đang nằm sẵn trong bản tính mỗi con người, mỗi thụ sinh. Nếu nhìn cách nghiêm túc tích cực thì tử thần như nụ hoa, đang kết trái, đang chín dần. Hiện tượng rất bình thường trong vũ trụ tuần hoàn. Mỗi người đều có kinh nghiệm: khi con người chúng ta nghĩ về tử biệt sẽ thường mất hẳn sinh lực, mất hẳn tinh thần, cũng như mất hẳn niềm vui để sống.
Thái độ của con người đối với sự chết luôn là một sự giằng co giữa sự lôi cuốn và sự khước từ. Mọi người đều nhận ra rằng sự sống là mỏng manh, là ngắn ngủi và nó có thể kết thúc bất cứ lúc nào cũng như không muốn chấp nhận thực tế: sẽ phải chết.
***
Người Công giáo không coi sự chết là ngõ cụt dẫn tới sự hư vô. Tử biệt được hiểu như một vết nứt tất yếu đưa đến sự sống phong nhiêu, một bất toàn tạm thời để bước sang một định mệnh thường hằng mà con người phải lãnh lấy. Thiên Chúa đã không tạo ra sự chết, không đành hủy diệt công trình tay Người sáng tạo. Người đã tạo dựng để chúng tồn tại kia mà (x. St 1,13-14). Thánh Phaolô trong thư Rôma đã minh chứng cái chết như là hậu quả của tội : “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (x. Rm 5,12). Với thế gian, sự chết là một thất bại nhưng với Đức Kitô Giêsu và những ai sống trong Người thì tử biệt là thời khắc của hiệu kỳ chiến thắng, đổ vỡ để tất thành viên mãn; đoạn tuyệt vô thường để tiến tới vĩnh cửu.
Vài dòng lý sự tranh luận thoát khỏi thường nghiệm của hư vô, cất tiếng nói cho niềm hy vọng được sống muôn đời, niềm hy vọng thực sự dựa trên cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô. Vâng, niềm hy vọng rằng chính Người, là sự sống mới, sẽ hiện diện đến tận ngưỡng cửa của cái chết để đón nhận môn sinh bước vào cõi sống vĩnh hằng, thiên thiên tuế. Người đang đồng hành với hiện sinh của tôi và của tất cả những kẻ tin để biến bóng tối thành ánh sáng.
Phóng chiếu về tử biệt để trở nên hoàn thiện, trưởng thành với toàn tâm là hy vọng và ánh sáng thay vì cảm giác buồn bã và đau khổ, tất sẽ dẫn tới một sự thay đổi căn bản về nhân cách và lối sống. Hạnh phúc thực sự khi nhận thức được rằng điều rất quan trọng là phải luôn có một trái tim sẵn sàng và tự do trước tất cả hiện hữu đời này.
Tháng 11 là thiêng nguyệt cầu nguyện cho những cái chết đã đi qua, cho những cái chết sẽ tới để mỗi thụ sinh đang mang hình ảnh Thiên Chúa sẽ luôn vững mạnh và sống đích thực hơn. Một tâm hồn đang còn lữ hành trên trần gian này đang thanh luyện mình cho một cái chết tất yếu sẽ xảy đến. Mỗi ngày đi qua trong cõi vô thường là lời cầu nguyện cho những người đã đi qua thương nhớ một kiếp phù sinh để vĩnh viễn sống trong ánh sáng.
Được sống giống như vậy, hiển nhiên sẽ giữ được tâm thái vui vẻ và mang theo bên mình một nụ cười trong cõi hồng trần.
***
Viết tại Nhà Thờ Thới Sơn
Thứ Ba, ngày 25 tháng 10, năm 2016
L.M Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thượng
Gp. Mỹ Tho