Nhảy đến nội dung

Viết vội lời tình

VIẾT VỘI MẤY LỜI NGƯỢC DÒNG VÔ THƯỜNG ĐỂ TÌM NHAU

Ta tráng sĩ hề! gặp thời loạn lạc

Như các gặp nước hề! ta vẫy vùng

(…)

Một ngựa một gươm hề! Một cây cung,

Với lòng dũng cảm hề! với chí lớn,

Ta xông xáo hề! trong đám mông lung… (x. Khái Hưng, Tiêu Sơn Tráng Sĩ, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H., 1989, tr.119)

Phạm Thái sinh ngày 19 tháng Giêng năm Đinh Dậu (26 tháng 2 năm 1777) tại làng Yên Thị, xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội).  Ông là con Trạch Trung hầu Phạm Đạt, một võ tướng cao cấp đời Cảnh Hưng, đã khởi chống Tây Sơn nhưng thất bại. Nối chí cha, năm 20 tuổi, Phạm Thái đi ngao du nhiều nơi để tìm và kết giao với người cùng chí hướng. Ông gặp Phổ tỉnh thiền sư (Trương Quang Ngọc), Nguyễn Đoàn rồi cùng nhau chống Tây Sơn, nhưng không thành công.

Đến Thanh Nê để điếu người bạn xấu số là Trương Đăng Thụ bệnh tử, gia đình đưa về chôn cất ở làng Thanh Nê, Kiến Xương, Sơn Nam Hạ (nay là tỉnh Thái Bình). Phạm Thái được ông thân sinh của bạn là Kiến Xuyên Hầu lưu lại trong nhà, đón tiếp trọng hậu như một người thân. Họ Trương là một gia tộc quyền quý, đức lệnh. Trương công, cha bạn, dò hỏi biết rõ gốc gác và chí hướng Phạm, đem lòng quý mến bội phần. Cô tiểu thư Trương gia là Trương Quỳnh Như đôi lần ra vào nấp nom cũng thấy lần đầu rung động vì một bóng dáng hiên ngang. Rồi giữa viện sách và buồng thêu, một mối tình thơ mộng nhất được dệt ra, gởi vào những bài thơ bóng gió kẹp trong một cuốn sách mượn đi trả lại. Nhưng tất cả đã lọt mắt ông cụ già. Cảm phục tài văn chương của Phạm Thái, Hầu muốn gả con gái cho chàng, nhưng thân mẫu Trương Quỳnh Như không thuận tình. Dầu người tráng sĩ sẳn sàng đổi nếp áo thầy tu lấy nếp áo thầy đồ để cưới nàng Quỳnh Như. Tôn ông thì thương song tôn bà nhất định không thuận. Bẽ bàng chàng kiếm cớ ra đi. Và đến khi chàng trở lại thì nàng đã ra người thiên cổ.

Mối tình của Phạm Thái Trương Quỳnh Như là một mối tình đẹp, đầy thi vị như những cuộc tình thường được ca ngợi trong thi ca hay trong tiểu thuyết. Riêng về mặt văn học, mối tình Phạm Thái -Trương Quỳnh Như lại mang một giá trị đặc biệt. Đó là chứng tích của tình yêu tự do và lãng mạn trong thời kỳ văn học cổ điển của nước ta vào đầu thế kỷ 19.

Phạm Thái mắc bệnh rồi mất ở Thanh Hóa năm Quý Dậu (1813), lúc 36 tuổi.

Cảm hứng về Phạm Thái đã khiến Khái Hưng viết cuốn tiểu thuyết “Tiêu Sơn Tráng Sĩ”. Nhân vật chính của ông ban đầu thì hành động Cầu Lê chống Tây Sơn. Nhưng càng về sau thì mục đích này càng nhạt dần. Chàng tráng sĩ chùa Tiêu Sơn chỉ biết hành động vị hành động, tự tác tự tung theo nghĩa khí riêng của mình. Song, tình yêu của Trương Quỳnh Như đã tạo nên một ý nghĩa mới trong cuộc đời Phạm Thái. Lý ra ông sẽ buông gươm, giã từ nếp áo “Phổ Chiêu Thiền Sư” để sống một đời uyên ương liền cánh với giai nhân xướng họa đề thơ ấm êm nếp nhà. Tình yêu ấy không thăng hoa, không tương hợp do mẹ nàng Quỳnh Như đã đưa đến bi kịch cho đời Quỳnh Như và làm tan vỡ tình yêu của Pham Thái. Khi đó, ông chỉ còn biết có rượu: “Ha ha! Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy hai con mắt mỹ nhân”…

***

 

Kiếp con người như cánh phù du, tình yêu như một dòng trôi định hướng cứu rỗi. Ấy vậy mà, ngước lên chỉ trách Ông Xanh, cúi mặt tủi hờn trách thói đời oan trái. Chỉ dăm ba trang chẳng nói được gì khi tiếng kêu đớn đau của tình yêu chân chính bên đời thống thiết đoạn trường đang dần vụt tắt, vòm trời đẹp mộng dường như chỉ còn những cánh chim côi đang quằn quại với những vết thương xẻ nát tâm hồn. Kỳ lạ thay, từ chính vết thương đang rỉ máu ấy có những khách hữu tình lại vẽ ra một lối đi riêng, một con đường cho chính mình để không chìm mất trong đau khổ thất chí, phẫn uất, tự vẫn tiêu vong như những cô gái đôi mươi xuân thời đã vội gieo mình từ thành cầu Rạch Miễu chỉ trong phút chốc hờn ghen, thất bại một mối tình không tìm ra lỗi thoát cho bản thân. Nếu ai đó đã nói, tình yêu là tiếng nói hồn nhiên trong trẻo nhất của tâm hồn, là tuổi thơ của loài người còn sót lại…thì quả thật trong một cõi nhân sinh này, khi tình chỉ được lượng giá bằng tiền, bằng nhà, xe, vật dụng, khi những “đại gia” lắm tiền lắm thế lực mới chiếm được người ngọc thì tiếng bi ai lại được cất lên từ nỗi đau rách nát của linh hồn chân thật bị ruồng rẫy bỏ hoang, của đôi cánh tình yêu gãy bàng hoàng giữa trời mộng đẹp.

Chính vì vậy, văn chương đã lên tiếng cho chạm đến tận cùng nỗi đau và sự cảm thông của con người. Cho dù bị đóng đinh vào lòng người, thì tình yêu chân chính vẫn còn dán chặt trên bản án viết cho một kiếp đời. Tình yêu, đôi khi viết đến vài nghìn trang vẫn chưa đủ, mà có khi một chữ thôi lại hóa thừa!

Khách anh hùng như Phạm Thái xông pha giữa điệp trùng gươm giáo, sẵn sàng coi cái chết như một cõi đi về, nhưng một khi đối diện với những “ nghe nói đã thẹn thùng/ nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe”  (Ca dao Việt Nam) lại thường nhận chân ra nỗi hoang lương thê thiết, và cái vô nghĩa của cuộc đời. Và họ cần đến những nữ trung nhân để tìm chút hơi ấm của đời thường, một khi phải đối diện với cõi trống rỗng hư vô. Ngay cả đối với các bậc anh hùng chí sĩ đã tùng lướt trong khoảng trời bao la tự do tự tại, vượt trên những  lợi danh tủn mủn kiếp vô thường. Tưởng sẽ thong dong đến giữa cõi đời rồi sẽ ra đi một cách nhẹ nhàng không vướng bận. Nhưng rồi sợi dây tình ái kết nối tâm hồn kiêu hãnh của họ với một bóng sắc tình nương. Có phải sợi tơ hồng đã chế giễu khí phách anh hùng khi kết chặt họ vào một cõi hồng trần đầy hệ lụy với một người con gái tri kỷ tri âm?

Đường bay tới trời xanh không còn tranh chấp hận thù, không còn ân oán thị phi, khoảng trời rộng cho cánh uyên ương cỡi gió tung cánh mây ngàn đã vĩnh viễn khép lại trước những nhân tình thủy chung hữu duyên vô mệnh.

“Ồ ly biệt tơi bời lảo đảo

Em ra đi – đời bưng mặt khóc òa” (x. Chiêm Bao, Bùi Giáng)

Khi viết lên những dòng này, ta thấy tay mình tê dại. Ta chưa từng được yêu đầy đủ ý nghĩa. Những đôi nhân tình cuối tuần bên nhau ríu rít dệt mộng ngày xanh. Họ may mắn thay được nắm lấy tay người tình đan mộng. Nhưng rồi có khi những ân ái ấy chưa tròn đã vĩnh viễn cuộc từ ly. Đau xót thay tình nhân thế, đớn đau thay cho những trái tim chung thủy vẹn tình.

Ta muốn ngậm ngùi thốt lên những lời thiết tha cùng nhà thơ Bùi Giáng:

“Và nước dưới cầu chảy mãi?

Để huê trôi, rêu nhạt, đá mòn.

Thế là người có thể gục đầu xuống khóc,

Và tự hỏi: ở phương trời nào xa vắng,

Có bến bờ nào vĩnh viễn hay không?”

Cõi đời vốn là cõi tạm. Ai trong chúng ta đến đây nhiều lắm là một trăm năm, rồi cũng phải từ giả tất cả. Nhưng trong một trăm năm năm ấy chúng ta đã để lại cõi trần nầy quá nhiều điều bất ổn và cũng đã chịu đựng rất nhiều bất ổn, để rồi ta buông xuôi hai tay, trở lại với trạng thái uyên nguyên của đất trời. Những gì của gió, xin trả lại cho gió; những gì của hơi nóng xin trả lại cho lửa; những gì của nước, xin gửi lại cho suối nguồn và những gì của đất, xin trả lại cho đất.  Tình  yêu có còn chăng khi sợi khói cuối cùng đã tiễn ta về một cõi hư vô?Thế mà đã có ai ý thức rõ được điều nầy, để khi ra đi được nhẹ lòng không uất ức dỗi hờn?

Những cuộc tình nhân thế khiến bao nhiêu khách anh hùng, kẻ sĩ treo hồn mình lơ lửng giữa vòm trời. Và ta cũng không chỉ lạc loài giữa cõi nhân sinh hiện hữu này, mà chính linh hồn ta cũng hòa vào một cõi nhân sinh nhiều phiền lụy để hiểu, để yêu, để chất vấn chính mình về sự quảng đại của con tim và thức tỉnh trước cơn say tình ái cho đời khỏi chênh vênh trên đường tìm đạo pháp. Do vậy, khói thuốc, men rượu trong những cơn chao đảo, thất tình điên loạn của nhân sinh làm phiền giấy mực nhưng ta dẫu viết cho đời vẫn quyết giữ lòng cho tinh tuyền khỏi chao đảo để lưu giữ sự sáng đẹp của tình yêu.

 Ai sẽ đủ can đảm đi đến tận cùng sự thật đắng cay để hiểu giá trị của tình yêu. Ai sẽ nghe được tiếng vẳng lên sâu thẳm tâm hồn, dường như không phải từ con chữ, mà được vắt ra từ trái tim đang vỡ vụn. Và biết bao đêm trường ấy, nấm mồ sâu vẫn được đong bằng nước mắt của thi nhân:

“Là thế là thôi là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyện ước
Tố của Hoàng ơi Tố của Anh

Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của Ai”
(x. Mười hai tháng sáu, Vũ Hoàng Chương)

Có lẽ, không có nỗi đau nào bằng sự đổ vỡ, phụ bạc của tình yêu, nhất là trái tim dễ vỡ của thi nhân. Đứng trước sự bế tắc của xã hội và tình yêu ta luôn cảm thấy lạc loài, bơ vơ với cuộc sống đang hiện hữu, nên luôn luôn muốn từ bỏ, thoát ly nó, tìm đến cõi mộng ảo địa đàng.

Phạm Thái khóc Trương Quỳnh Như, Lý Hạ khóc Tô tiểu tiểu, Tố Như và Chu Mạnh Trinh cũng khóc Thúy Kiều, Shakespear khóc Desdemona, chúng ta cùng khóc cho những câu chuyện tình dang dở trong nhân gian xoay chiều đổ ánh tà dương. Thời đại dẫu khác nhau nhưng giọt lệ thương cũng chỉ là một. Như chàng sinh viên Raskolnikov, trong kiệt tác "Tội Ác và Trừng Phạt" của Dostoievski quỳ xuống trước Sonia -–một cô gái giang hồ mang trái tim từ bi nhân hậu, ta cũng xin nghiêng mình trước những khổ lụy thiên thu, những lênh đênh vạn đại của con người. Bao oan nghiệt đoạn trường của nhân loại như đúc lại trong những chuyện tình tan vỡ thủy chung, để ngàn năm còn đoạn trường ngân nga khúc tân thanh.

Ta xin mượn Lửa Từ Bi từ trái tim Chúa Giêsu, xin đem vào những linh hồn đoạn trường tình ái nghìn kiếp để hoàn toàn trả lại kẻ thủy chung phần thưởng cho khách chung tình trong thiên hạ. Đó mới là công đạo của tình yêu. Cõi Thiên đường của Thiên Chúa há chẳng phải là nơi những kẻ chung tình hẹn hò nhau và gặp gỡ trong Tình Yêu Tuyệt Đối hay sao? Nếu không thì còn gì công đạo, còn gì chân lý cho tình yêu bất diệt của nhân sinh? Với những dòng viết vội, ta xin đứng hẳn về phía công lý và sự thật của tình yêu và xin nhỏ lệ bênh vực khách thi nhân chung thủy sắt son. Ai là người biết yêu thương chân thật và giữ trọn lời thề hẳn sẽ tìm ra con đường tự giải thoát mình, giải thoát đời. Và, chàng đang đi từ hạn hữu đến với cái thường hằng bất diệt:

“Rồi đây, rồi mai sau, còn chi ?
Ngọc đá cũng thành tro
lụa tre dần mục nát
Với Thời-Gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi chứ! còn TRÁI TIM BỒ TÁT
Gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.” (x. Lửa Từ Bi, Vũ Hoàng Chương)

---

Linh Mục P.X Nguyễn Văn Thượng