Nhảy đến nội dung

Tìm lại nụ cười cho vầng trán suy tư

TÌM NỤ CƯỜI CHO VẦNG TRÁN SUY TƯ.

Tính đến nay đã hơn 4 năm trong đời sống Linh Mục, tuổi đời chỉ mới 34, tự hỏi mình đã làm được gì? Vẫn còn nhiều ngổn ngang tâm tư, vẫn còn nhiều sợi dây oan trái vướng bận, vẫn còn tâm tánh rất con người…Thế nên, thấy mình cần học, học mãi, học mãi, học từ sách vở, trường đời, hoàn cảnh mục vụ, các mối tương quan, những hướng suy tư hiện thời, và học cả trong những tấm gương rất tệ để biết cách tự sửa mình! Chưa bao giờ cảm thấy cần mở rộng, đào sâu, vươn xa như bây giờ, một nội lực kỳ lạ thôi thúc tiến lên dù đường sá còn rất gập ghềnh, dù lòng người không ai dò thấu, dù thân phận con người ví tợ cánh phù du và cạm bẫy luôn giăng ra trên từng bước chân đi tới cùng Thầy Chí Thánh…

Đúng vậy, khởi sự từ bận tâm cơn yếu kém của mình, sự nông cạn của mình, sự thiếu nội tâm của mình làm cho mình từng bước đi sai, đi lạc, đi xuống trên con đường tu thân và phụng sự Thiên Chúa và anh em. Sợ thì phải tu trì, phải học tập, phải tự đào luyện, phải tỉnh thức. Học cùng Đức Kitô Mục Tử và học tấm gương Mẹ Hội Thánh, khiêm nhu và khôn ngoan là điều cần thiết cho lắm trên hành trình còn dài từ những bước rất nhỏ, hành trình hiền lành, thận trọng và khôn ngoan…

Truyện kể rằng, ngày kia, đang giảng đạo, thánh Phanxicô Xaviê thấy bạn mình bị người ta nhổ nước miếng vào mặt. Ngài làm gì? Ngài rút một cái khăn trong bọc ra, lau sạch cho bạn, rồi tiếp tục giảng đạo, chứ không nói một lời gì phẫn uất.

Một học giả thấy vậy, liền nói:

            - Họ giảng Đức Giêsu và họ chịu các điều sỉ nhục như vậy. Chắc là họ hơn người và Đạo họ rao giảng, là thật.

Và người đó xin trở lại. (truyện khuyết danh)

***

 

Khi quyết định chọn con đường trở thành Linh Mục, đã không nghĩ đến “chiếc ghế” nào cả, chẳng nghĩ đến việc sẽ “ngồi xứ” nào. Với tân chủng sinh P.X N.V.T lúc đó chỉ biết học cho thật tốt, tu cho thật chỉnh tề để ơn gọi trở thành Linh mục thực sự là cơ hội để bản thân đào sâu mầu nhiệm, thấm đẫm tinh thần Giáo Hội  và buông mình theo Thần Khí trên đại lộ Thập Giá cuộc đời mình. Được chọn tiến chức linh mục hơn 4 năm trước là một công trình tuyệt vời cho cuộc đời “bạch diện thư sinh”. Tình yêu đại lượng ấy đến từ Thiên Chúa. Sống một thời gian rất ngắn trong chức Linh mục, thăng trầm, đắng chát, ngọt ngào, hân hoan cho tới đau xót trong nước mắt thì nghiệm ra quả đúng như các cha cao niên đã dạy: đi tu làm Linh Mục không phải là một nẻo đường thênh thang, rộng mở nhưng là một hành trình đầy cam go và thử thách, lắm vinh quang nhưng cũng đầy gai nhọn trên triều thiên của chức thánh Linh Mục. Dẫu biết rằng ơn gọi nào, chọn lựa nào cũng buộc phải trả giá, nhưng đời Linh mục quả thật lắm nỗi truân chuyên. Cảm nhận chủ quan của tác giả, không cầu một cái nhìn cảm thông hơn từ tha nhân, chẳng bận tâm để được trân trọng hơn, kính phục hơn mà chỉ viết để “nhìn lại và học, sửa mình và sống” chức thánh Linh Mục mỗi ngày.

Thiển nghĩ, làm Linh mục để tu thân trước mới có thể lĩnh hội được những tinh hoa huyền nhiệm của vai trò tư tế, một công cụ môi giới tương tác “Thiên – nhân và nhân – Thiên”. Chính việc tu thân của Linh mục tốt hay dở sẽ làm cho người ngoại trở lại hoặc làm cho dân bỏ nhà thờ hơn tài ăn nói, hơn những công trình lẫm liệt, hoành tráng. Không tu thân, mang theo tâm mong cầu danh lợi dù có đọc làu làu trọn bộ Thánh Kinh thì cũng chỉ biết được nghĩa bề mặt, phần tinh hoa không thể nắm hiểu được, mà tinh hoa là “chất để tu” cho đời Kitô của Linh mục.

Thuyết Phật Đà cho rằng, mỗi người tới nhân gian là đều mang theo sứ mệnh mà tới. Nghĩ vậy nên cho rằng mỗi con người mang lấy trách nhiệm lên (hoặc xuống) trần gian có thể là để lưu lại một đoạn văn hay, cũng có thể là khai mở cương thổ, hoặc phụng sự hành đạo, hoặc kế thừa một kỹ năng nào đó. Nhìn vào nhân gian hỡi ôi! U minh lan tràn đẩy những sinh linh ấy lạc lối trong cõi trần thế. Ai nấy đều thấy bị lực hút xoáy vào danh, lợi, lộc và thú mà quên mất bản nguyện của mình khi đảm đương kiếp nhân sinh theo thiên mệnh. Đương nhiên, xã hội có người tốt, kẻ xấu. Chính nhân quân tử vẫn khắc ghi nguyện xưa nên dù phải trải qua truân chuyên hay thuận buồm xuôi gió, nhứt nhứt lập chí quyết tâm phấn đấu, cả một đời “tế thế độ nhân”.

Có truyền thuyết rằng Phạm Trọng Yêm (989 - 1052), tự Hy Văn, thụy Văn Chánh, là một nhà chính trị, nhà văn, nhà quân sự, nhà giáo dục thời Bắc Tống. Ông là người huyện Ngô, Tô Châu (nay thuộc Tô Châu, Giang Tô), thuở nhỏ gặp một vị tiên sinh xem mệnh, ông bèn hỏi: “Hãy nhìn, liệu con sau này có thể làm đến chức tể tướng không?” Vị tiên sinh xem mệnh nói: “Tuổi thì nhỏ, mà khẩu khí quả là lớn đó!” Phạm Trọng Yêm ngừng một chút, lại hỏi: “Vậy ông xem giúp con có thể là một đại phu (thầy thuốc bình thường) không?” Vị tiên sinh rất hiếu kỳ về chí hướng của cậu bé này. Vừa muốn đạt chức tể tướng đại phú đại quý, lại hỏi có thể là đại phu (vốn nhỏ bé vất vả). Phạm Trọng Yêm đáp rằng: “Chỉ có tể tướng hiền lương với lương y là có thể cứu người. Nếu làm tể tướng sẽ có thể cứu người trong thiên hạ, nếu không được làm tể tướng mà làm đại phu, thì có thể cứu được bao nhiêu người thì cứu bấy nhiêu người.” Vị tiên sinh xem mệnh cảm động mà rằng: “Cháu còn rất nhỏ mà có một trái tim muốn cứu người, là trái tim của một tể tướng chân chính, tương lai cháu nhất định sẽ trở thành tể tướng.” Sau này Phạm Trọng Yêm quả nhiên làm tể tướng, ông luôn lo nghĩ cho người khác mà viết ra câu danh ngôn: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (Lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Đó là bậc chính nhân quân tử đáng khâm phục.

Nho gia có triết lý rất hay rằng: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Đây là 4 bước trong 8 bước để thực hiện 3 cương lĩnh của Nho giáo. Khi còn học ở Đại Chủng Viện Saigon, được dạy về “tam cương này như sau: “Minh minh đức, Tân dân, Chỉ ư chí thiện”. Nho sĩ phải làm gì để thực hiện hay thực thi được tam cương ? Câu trả lời của kẻ sĩ là thực hiện bát trình – tám bước: “Cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

Linh mục, tất nhiên là một kẻ sĩ trong thiên hạ, ngài mang lấy sứ mệnh làm sáng lên “Đạo nghĩa Kitô” trong tâm hồn nhân thế. Con đường “phi thường đạo” mà ngài phải thực hiện trong toàn bộ hành trình của mình cốt để biết phát huy đức sáng đức tốt đẹp của con người; đổi mới khiến lòng dân bỏ cũ theo mới, bỏ ác theo thiện; khiến mọi người đạt đến mức độ đạo đức Kitô giáo hoàn thiện nhất. Vậy nên, để khai trí, quang tâm, minh đức được thì kẻ sĩ ấy phải đạt đến mức độ đạo đức hoàn thiện nhất thì mới kiên định chí hướng. Chí hướng kiên định rồi, tâm mới yên tĩnh. Tâm yên tĩnh rồi, lòng mới ổn định. Lòng ổn định rồi, suy nghĩ thấu đáo sự việc mới có thể chu toàn mà không bị cái bản ngã ích kỷ làm tiêu hao sinh lực cộng đoàn. Sự minh tâm, công tâm và đại tâm của mục tử trợ giúp giải quyết công việc được thỏa đáng, làm dân chúng phấn khởi xông xáo trong công ích và bền bĩ hiệp nhất cộng đoàn.

Thử tìm hiểu qua về tám bước kẻ sĩ phải đi qua để giữ vững tam cương. Thời cổ đại, phàm những thánh nhân muốn phát huy tính thiện của con người đến khắp thiên hạ (bình thiên hạ), trước hết phải lãnh đạo tốt nước mình, bang mình (trị quốc). Muốn lãnh đạo tốt nước mình, bang mình, trước hết cần chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình (tề gia). Muốn chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình, trước hết phải tu dưỡng tốt phẩm đức bản thân mình (tu thân). Muốn tu dưỡng tốt phẩm đức bản thân mình, trước hết phải làm cho tâm tư của mình ngay thẳng (chính tâm), đoan chính. Muốn cho tâm tư của mình ngay thẳng, đoan chính, trước hết phải có ý nghĩ thành thật. (thành ý) Muốn có ý nghĩ thành thật, trước hết phải có nhận thức đúng đắn. (trí tri). Mà con đường nhận thức đúng đắn chính là nghiên cứu đến nơi đến chốn, lĩnh hội được cái nguyên lý của sự vật (cách vật).  Mọ sự vật hiện tượng đều có những nguyên lý riêng của nó. Bận tâm với nhận thức đúng đắn, thao thức tìm kiếm ý nghĩ thành thực thì tâm tư mới ngay thẳng. Tâm tư ngay thẳng, phẩm đức bản thân mới tu dưỡng tốt. Phẩm đức bản thân tu dưỡng tốt, mới lãnh đạo tốt và bình ổn cộng đoàn trong phạm vi quyền hành coi sóc. Điều này nói ra dễ gây đụng chạm, nhưng xin phép cho được nói như để tác giả tự răn mình và sẻ chia tâm tư bâng khuâng chứ chẳng dám “làm thầy thiên hạ” đâu!

Nếu làm một người quân tử bình thường mà còn phải tu dưỡng phẩm cách đạo đức thâm thúy như vậy thì huống chi Linh mục, là chính nhân trong Nước Thiên Chúa: “sống như các thiên thần ở trên trời”  (x. Mc 12, 25). Đã hơn 4 năm qua, tự hỏi bản thân có luôn luôn giữ cho lòng mình ngay thẳng?

Cổ nhân có dạy:

“-  Nếu như mình tức giận, thì lòng mình không thể ngay thẳng được.
  -  Nếu như mình lo sợ, thì lòng mình không thể giữ ngay thẳng được.
  -   Nếu như mình quá vui vẻ, thích thúc, thì lòng mình không thể giữ ngay thẳng.
 -    Nếu như mình lo lắng, buồn phiền, thì lòng mình không thể giữ ngay thẳng được.” (trích Sách Đại Học – một trong những kinh thư quan trọng của Nho Gia)

Linh mục là những người sống những hoàn cảnh khó khăn, phải nếm cảnh cô đơn thật nhiều, có mấy ai đâu mà chia sẻ, tâm sự. Buồn vui cuộc sống chỉ biết âm thầm thân thưa với Chúa, mà Thiên Chúa thì nhân từ, lúc nào Ngài cũng im lặng và để cho tự chiến đấu với châm ngôn: “ơn Ta đủ cho con” (x. 2 Cr 12, 9). Để lấp vào những khoảng trống cô đơn ấy, có những Linh mục đã nghĩ ra những việc như viết lách, đọc sách, truy cập truyền thông để trau dồi thêm kiến thức mục vụ và giảng thuyết, làm việc bác ái, từ thiện hay tìm kiếm bạn bè tâm giao. Không phải ai cũng có thể dễ dàng biến cô đơn thành niềm vui được như vậy. Dù có hoạt động lấp đầy, cô đơn vẫn là một gánh nặng nếu không có Chúa.

Đời sống Linh mục không bao giờ là khổ đau, khổ đau là do tham, sân và si của chính các ngài gây ra mà thôi. Tham (khát vọng sở hữu), sân (thiếu kiềm chế cảm xúc nhất là tức giận), và si (đam mê trong chính bản năng) khiến cho Linh mục gặp muôn nghìn rắc rối và trở nên khổ đau, đây không phải “thánh giá Chúa gửi” mà là “lương bổng sự chết” (x. Rm 6, 23) do tội và tính xấu mang lại. Phật Đà có ít nhiều tầm nhìn về tu đức gần giống với nền tâm linh Kitô giáo tuy khác vài quan niệm và thuật ngữ bề nổi. Thuyết ấy truyền rằng: Tập đế tức là nguyên nhân của khổ đau chính là tham, sân và si. Không ai được quy cho hoàn cảnh hay đổ lỗi người khác vì nguyên nhân khổ đau, sự tự thương mình, luyến tiếc quá khứ, ủy mị sướt mướt hay nóng nảy buông tuồng có nguyên nhân chính tự bên trong  của chúng ta nhiều hơn ngoại nhân, ngoại cảnh.

Khi Linh mục say mê Chúa đến mức sẵn lòng từ bỏ tất cả mọi sự vì Chúa trong vui vẻ với con tim tự do thì tự nhiên ngài sẽ được Thiên Chúa ban tặng đôi mắt sâu thẳm để nhìn thấy Chúa khắp mọi nơi và thấy mọi sự ở trần gian này là dấu chỉ yêu thương của Chúa. Chính với cái nhìn này, mà “Cha Sở Nhà Quê” của văn sĩ Bernanos, đứng trước muôn vàn khổ đau và thất vọng, vẫn thốt lên: “Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa”.

Trên những bước đầu tiên của hành trình Linh mục thừa tác, tự thấy rằng việc chú tâm học hỏi, trau dồi trí thức, mài dũa trí tưởng tượng để thấy Chúa qua công trình Chúa tạo dựng ở trần gian và qua những tác phẩm nghệ thuật của các nghệ nhân là cần biết bao. Kiến thức vô biên, sở học hữu hạn. Chỉ tiếc rằng vì thiếu hiểu biết và nông cạn trong cái tôi vị kỷ, đã nhiều lần tổn thương tâm hồn của những chiên ốm đau của Chúa Kitô, đã bao lần chui trong kén an toàn mà quên mất nhu cầu chính đáng của bổn đạo, nuông chiều kiểu thế gian mà để lại gương xấu cho người chung quanh. Tiếc thay quãng thời gian “hoang phí” đó! Hết phương!

Linh mục phải trình bày về Thiên Chúa bằng chính đời sống của mình. Muốn giới thiệu Thiên Chúa cách trung thực thì phải có tâm thức chính trực về Chúa. Nỗ lực sống mục tử tốt lành luôn có giá trị để Linh mục trình bày những huyền nhiệm ấy không chỉ bằng lời, mà còn bằng cả cuộc sống toàn hiến tự nguyện và thánh thiện của mình. Hội Thánh khuyên các Linh mục phải để Lời Chúa nhập thể vào mình và đốt cháy chính mình để trở thành đuốc soi trần gian, chấp nhận như hạt lúa chịu nghiền nát, nung nấu để trở nên tấm bánh thơm hầu biến thành Thánh Thể Chúa Kitô.

Nếu chỉ tủn mủn tằn mằn trong việc “đếm tiền thau Chúa Nhật”, tính chuyện “sửa sang” cơ sở, nhà cửa thì sẽ khó cho Linh mục có đời sống đúng như Hội Thánh mong đợi, nghĩa là “được tách riêng, con người thánh thiêng, con người thần bí, chiêm niệm, con người cầu nguyện” (bài viết: Khủng hoảng trong đời sống Linh mục, GM Phêrô Nguyễn Soạn, Trang web Công Giáo Việt Nam Ba Lan). Trách nhiệm Linh mục thật phong phú và đầy thách thức. Đó là “sự nghiệp của ngôn sứ, một thi sĩ, một nhà hiền triết.”  

Có câu: “Thanh Thuỷ bản vô ưu, thanh thủy” tức là mặt nước trong, mặt hồ thì luôn luôn trong, bản vô ưu là vốn không buồn rầu, không nhăn nhó, nhưng vì gió thổi, gió tác động vào cho nên mặt hồ lăn tăn, nó xiêu vẹo, nhìn thấy nhăn nhó, nhưng khi hết gió rồi thì mặt hồ sẽ trong trở lại. Tâm hồn Linh mục cũng như mặt nước hồ thanh thủy trong suốt để nhân sinh nhận diện khuôn mặt của Đức Kitô. Thánh Giáo hoàng Piô X đã sống đúng với khẩu hiệu của ngài: "Đổi mới tất cả trong Đức Kitô". Theo Đức Piô X, trước hết các Linh mục phải lo sống thế nào để có được Chúa Giêsu trong chính mình, nếu họ muốn mang Chúa đến cho những kẻ khác. Ngài viết: “Là những Linh mục của Chúa, chúng ta cần phải giới thiệu Đức Kitô cho mọi người và hành động trong tinh thần của Người. Là bạn hữu nghĩa thiết của Người, chúng ta ‘phải có những tâm tình như Đức Kitô’ (x. Pl 2,5), Đấng hoàn toàn thánh thiện, vô tội và tinh tuyền. Bởi vì tình bạn luôn đòi hỏi phải cùng ước muốn hay không ước muốn như nhau.”

Trên con đường thập giá, chết cho ý riêng và hủy bỏ con người cũ, những phiền não phải được dứt đoạn bứt ngặt, để trả lại hữu thể nguyên thủy của tư cách Linh mục, đó là một mặt hồ trong, thì mới là người mục tử tử tế, đức độ, là người có tu tập chuyển hoá.

Lại có câu: “Thanh Sơn giai bất lão, vị tuyết bạch đầu”: thanh sơn là ngọn núi xanh nhưng do “giai bất lão” nghĩa là vốn không già nhưng vì tuyết phủ, mùa đông tuyết về phủ ba bốn tháng trời, tưởng ngon núi già, cho nên trắng bạc màu. Những khó khăn của đời Linh mục không biện minh được cho chọn lựa sai lầm trong đời sống ngài. Núi bạc đầu do tuyết phủ thôi, mùa đông qua rồi thì ngọn núi sẽ xanh trở lại. Nhọc nhằn và đau khổ chỉ trong một giai đoạn. Đời là dòng chuyển dịch vô thường, sự khó chịu đó cũng là vô thường, sự không dễ thương đó cũng vô thường.  Muốn có được tâm tình như Đức Kitô cần có sự tĩnh tại, cần một sức sống nội tâm vững vàng. Khi Linh mục biết nuôi dưỡng sức sống nội tâm sẽ thấy sáng suốt luôn luôn, rồi khi nhìn vào bất cứ câu chuyện nào, một đối tượng nào, một tình huống nào, mình cũng thấy được bản chất của câu chuyện, thay vì mình cứ rượt đuổi theo hiện tượng, phản ứng theo quán tính bản năng.

Ơn gọi làm Linh mục của Đức Kitô – mà người viết bài này được mời gọi tham dự vào trong hơn 4 năm qua– tiên vàn là ơn gọi của Người Tôi Tớ nhằm đem lại khuôn mặt vui tươi, chiều sâu nội tâm và thái độ hiền từ thâm trầm để giới thiệu Đức Kitô Linh mục cho cộng đoàn. Đời sống của Đức Kitô Giêsu – đời tư tế hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa Cha, trong tác động của Chúa Thánh Thần – là một đời sống được xây dựng từ mối quan hệ hiệp thông với Chúa Cha: “Con là Con Yêu Dấu của Ta” (x. Mc 1,11). Chúa Giêsu Linh Mục Thượng Phẩm được gọi và được xức dầu để gánh lấy tất cả gánh nặng của nhân loại trong mối liên đới có năng lực cứu độ - để giải phóng nhân loại khỏi mối liên đới trong tội lỗi, một mối liên đới hủy diệt. Mỗi Linh mục chỉ có thể tìm thấy sức mạnh của tình yêu nhằm chuyển hóa những kẻ thù địch thành bạn hữu khi dám sống thái độ của Chúa Kitô Giêsu nơi chính bản thân mình.

Đời sống của Đức Kitô là gương mẫu cho các môn đệ đang bước theo Người, Tin Mừng Matthêu trình bày một Đấng Mêsia khiêm nhường, phục vụ, nhân từ à công chính hơn là vị vua đầy cường quyền và bạo lực. Không Linh mục nào được gọi tiến chức để “tranh thủ lợi lộc, quyền thế và danh vọng trần gian.” Đó là những cơn cảm dỗ thường xuyên kín Đức Kitô Giêsu từ mọi phía, và hôm nay cũng đang vây phủ các Linh mục tứ phía. Chúa Kitô đã vạch mặt tất cả các cám dỗ ấy xuyên qua sự trung thành tuyệt đối với ơn gọi của Ngài trong tư cách là Người Con và Người Tôi Tớ đau khổ, là tư tế hiến dâng chính mình làm của lễ đền tội thay cho nhân loại.

Nhận thức nói trên về ơn gọi của Đức Kitô có quan hệ thiết yếu với nhận thức của Linh mục về căn tính ơn gọi của mình. Vì thế, có thể thấy rõ rằng tương lai ơn gọi Linh mục của tôi trong thời gian tới sau bài viết này và mãi về sau tùy thuộc vào mức độ trung thành của tôi trong việc đi theo bước chân mục tử của Chúa Kitô hiền lành và khiêm nhường, nhân hậu và cương trực trong bối cảnh mới này. Mấy dòng suy tưởng đâu thể diễn hết chiều sâu ý thức đủ về ý nghĩa của việc mình được Đức Kitô kêu gọi để phục vụ dân Ngài trong tư cách của Đức Kitô là Đầu – In Persona Christi Capitis. Nhưng, sự kiên vững trong việc đảm nhận ơn gọi căn bản này sẽ là lời đáp trả sinh động cho ơn sủng trác tuyệt này.

Ai cũng biết đời sống linh mục là một cuộc sống khó khăn. Nghề nghiệp nào cũng đòi hỏi những kỹ năng cơ bản, thái độ làm việc và niềm vui trong sáng tạo. Linh mục hiểu trong góc độ xã hội thì cũng là một nhà giáo dục. Việc hiểu biết sâu sắc những thử thách của mình sẽ giúp cho ngài bớt ảo tưởng. Đời không chỉ là chuỗi những tâm trạng toại nguyện và có ý nghĩa, nhưng cũng có âm thanh của niềm vui được chôn giấu trong tâm hồn. Sốn đời Linh mục cách tích cực với trọn vẹn thời gian sẽ cảm nhận được niềm vui nhẹ nhàng ẩn giấu dưới bề mặt của một cuộc đời khắc khổ, thoát khỏi cái nhìn thị phi và đóng góp rất nhiều cho cảm thức hạnh phúc và mãn nguyện của dân Chúa. Linh mục nào đã không nhận thức bao nhiêu niềm vui nội tâm đang ngự trị trong tâm hồn sẽ khó thúc đẩy toàn bộ hữu thể Linh mục của mình theo Chúa Kitô trong bình an và mãn nguyện: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi” (x. Lc 1, 46-47). Những lúc này làm tôi cảm nhận mình là một Linh mục được chúc phúc.

Một ngày làm Linh mục là một ngày an lạc, tôi sẽ cứ là một người an lạc mà đi tới, đi một ngày an lạc về có sẵn nụ cười trên môi, không hạch hỏi, không khảo tiền, không lụy tình, không đợi người, không hận mình, không trách hoàn cảnh. 4 năm hơn đã qua với nhiều biến chuyển sâu sắc, hạnh phúc và đớn đau, ơn Chúa đã giúp tôi giữ tâm bình an, điều này rất quan trọng. Tu tập tới mức mình chỉ giữ tâm bình an không lệ thuộc ngoại giới là đã đi những bước rất xa rồi.

Tôi sẽ giữ năng lượng an lạc này về tới Nhà Cha trên trời, không để cho ngoại cảnh xâm chiếm, không có vì bất cứ lý do gì khiến tôi hy sinh chức Linh mục của mình. Khi cầm bút viết những dòng này, ánh trăng vằng vặc chiếu qua của sổ như Thánh Thể Chúa Kitô đang tỏa chiếu năng lượng an lạc qua tâm hồn tôi.

“Tập sống với những nỗi khát khao 

Với niềm đam mê, sâu thẳm trong tim ta,

 ta cố gắng thắp sáng một niềm tin 
Những kí ức, dẫu vẫn ức ùa về, 

sâu thẳm trong thâm tâm, giọt lệ rơi mang theo những đắng cay 
Cứ giữ lấy, từng kỉ niệm ngày nào 
dù là trong cơn mơ ta bật khóc 
Nếu có lúc, những vấp ngã đường đời, 
cho niềm đau nhân lên, khi nhìn ra xung quanh không bóng ai 
Hãy cố giữ, từng khoảnh khắc sau cùng, 
để rồi mai sau ta vẫn mỉm cười, nhìn lại 
Nhìn lại ngày đã xa, chặng đường mình bước qua, 
cho tương lai mai sau ta sẽ không sai thêm khi ta đã chợt nhận ra 
Mở lòng và thứ tha, buồn phiền rồi sẽ qua, cho ta thêm niềm tin.”

(trích bài hát: Nhìn Lại, tác giả: Thành Thịnh)

Thật vậy:


“Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (x. Pl 3, 13 – 14).

---

Viết tại Nhà Thờ Thới Sơn

Ngày 22/12/2016

L.M P.X Nguyễn Văn Thượng