Thế thái nhân tình
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- JM. Lam Thy ĐVD.
THẾ THÁI NHÂN TÌNH (CN XXI TN-B)
Cứ mỗi lần chia sẻ Lời Chúa CN XXI/TN-B, kẻ viết bài này lại cảm thấy buồn bực. Tâm trạng đúng là vừa buồn vừa bực đối với nhân tình thế thái. Nhân tình thế thái chỉ có nghĩa là “tình người, thói đời” phản ảnh qua lối sống, cách ứng xử của con người. Nghĩa rộng là như vậy, nhưng trên thực tế – nhất là trong sự diễn đạt trên thơ văn, ca nhạc – “thế thái nhân tình” thường được hiểu theo nghĩa tiêu cực là lòng người xấu xa, thói đời đen bạc, đổi trắng thay đen, lừa dối và lắm thị phi. Nói cách khác, đó là lối sống tồi tệ của con người trong xã hội (tệ đoan của xã hội). Nguyễn Công Trứ ngày xưa khi nhìn vào cuộc đời cũng ngán ngẩm than rằng:
THẾ THÁI NHÂN TÌNH
Thế thái nhân tình gớm chết thay,
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy,
Hễ không điều lợi, khôn thành dại,
Ðã có đồng tiền dở cũng hay.
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi,
Hẳn hoi không hết một bàn tay,
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa,
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Chỉ cần một câu kết “Bạc quá vôi mà mỏng quá mây” cũng đủ nói lên tình cảm hời hợt, bạc bẽo của lòng dạ con người trên trần thế; thật đúng là “Tình đời đen bạc”! Đó là nói tới chuyện người đời đối xử với nhau. Tuy nhiên, cách đối xử của con người với Đức Giê-su Thiên Chúa thì còn tệ hơn gấp trăm lần: Không chỉ có đám người Do Thái đối xử bạc bẽo với Đức Ki-tô, đến như những môn đệ thân tín mà cũng chê Lời Người là “chướng tai quá!” rồi bỏ Người mà đi. Ngay cả họ hàng máu mủ ruột thịt, cũng cho là Người mất trí và tìm cách bắt Người thì quả thật… hết biết !!! Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXI TN-B – Ga 6, 54a.60-69) là một minh họa:
Đó là trích đoạn cuối “Diễn từ tại hội đường Ca-phac-na-um”. Cứ tưởng đến lúc này thì đám thính giả Do Thái cũng đã phần nào hiểu ra được Lời dạy của Đức Ki-tô về Bánh Hằng Sống, không ngờ là họ vẫn cứng lòng không tin. Đáng trách nhất là các môn đệ ở liền bên với Thầy, nghe biết bao lời giáo huấn thánh thiện, nhất là chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ Thầy làm, chứng tỏ Người đích thị là Thiên Chúa; vậy mà vẫn còn có kẻ chê “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”, để rồi ”Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa.” Thấy tình hình như vậy, Đức Ki-tô quay lại hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Si-môn Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6, 60-69).
Tình trạng nêu trên cũng đã từng xảy ra trong Cựu Ước. Đọc trong sách Giô-suê – một trong các sách Lịch sử thuộc trào lưu “Đệ nhị luật” – thì thấy kể lại: Khi ông Mô-sê qua đời, thì ông Giô-suê (Phụ tá của Mô-sê) được Đức Chúa trao quyền bính. Ông Giô-suê đã chỉ huy các bộ lạc vượt qua sông Gio-đan, tiến như vũ bão chiếm lãnh toàn miền đất Thiên Chúa đã chỉ cho ông Mô-sê thấy (Gs, chương 1-12). Cuối cùng, ông Giô-suê quy tụ ở Si-khem mọi chi tộc Ít-ra-en và triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục, rồi nói với họ: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ ĐỨC CHÚA, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA." Nghe vậy, dân chúng đã khẳng khái đáp lại: "Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ ĐỨC CHÚA để phụng thờ các thần khác! Vì chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua.” (Gs 24, 1-2a.15-17.18b).
Sự kiện này nói lên điều gì? Ở Cựu Ước, Thiên Chúa dùng Giô-suê – là một con người, một thụ tạo – hỏi dân chúng để xem thử lòng tin của họ, thì họ đã bày tỏ sự trung thành với đức tin mà họ đã đặt trọn vào Thiên Chúa; nhưng đến thời Tân Ước thì chính Đức Giê-su Thiên Chúa – Đấng sáng tạo – khi rao giảng Nước Trời đã bị ngay cả những môn đệ của Người bỏ đi, chỉ còn lại Nhóm Mười Hai ở lại với Người; nhưng trong số đó vẫn “có những kẻ không tin” như Giu-đa It-ca-ri-ốt (Ga 6, 64). Tiêu biểu trong Nhóm Mười Hai là thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin một cách khẳng khái: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.”
Rồi đến lễ Vượt Qua trước ngày khổ nạn của Thầy, khi nghe Thầy nói sẽ chối Thầy, thánh nhân còn khẳng định chắc nịch: "Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã… Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy." Không chỉ mình Phê-rô, mà “Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy” (Mt 26, 33-35). Ấy thế mà chỉ trong khoảnh khắc, Phê-rô đã chối phăng Thầy không chỉ một mà tới ba lần trong một đêm như Thầy đã tiên báo. Thánh Phê-rô thì như thế, còn các môn đệ khác thì sao? Thật là xót xa khi thấy “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa” (Ga 6, 66), “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26, 56). Ôi chao! Nhân tình thế thái là vậy ư?
Giáo hội tiên khởi như thế đó. Nhưng tới lễ Ngũ Tuần thì mọi sự đã hoàn toàn khác hẳn: Tất cả các Tông đồ đều một lòng một dạ “Bỏ Thầy con biết theo ai vì Thầy có Lời ban sự sống”. Và nhờ lòng tin sắt đá ấy, các Tông đồ đã đem Lời Chúa tới khắp năm châu bốn biển. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, chẳng hiểu tỉ lệ những người không “bỏ Thầy” so với đám đông những người được nhận là bạn của Thầy (Ki-tô hữu) còn được là bao? Có thể họ không có ý lìa bỏ Thiên Chúa, nhưng trong cuộc sống, họ không tuân giữ Lời Chúa, thì cũng chẳng khác chi đám người Do Thái và một số môn đệ xầm xì “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 54); rồi họ bỏ đi một nước vì họ vẫn chưa thật sự tin rằng Người nói những lời chướng tai ấy lại chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.
Xưa kia, những môn đệ trước khi bỏ Chúa mà đi, đã nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" Ngày nay còn có cả những người vẫn luôn miệng xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng hằng hữu, vẫn nói chẳng thua gì Thánh Phê-rô: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa." (Ga 6, 68-69); nhưng trong lòng thì rỗng tuếch, thậm chí nếu cần vẫn sẵn sàng đạp lên Thánh giá, sẵn sàng quay ngược mũi giáo đâm thẳng vào anh em đồng đạo, như xưa quân dữ đâm vào Trái Tim Chúa Giê-su vậy.
Kẻ viết bài này cũng đã hơn một lần xác định rằng: Vào thời điểm 1975, ở Việt Nam đã có không ít những người (trong đó có cả những người bạn đồng nghiệp dạy học, những người đồng đạo trong xóm, trong giáo xứ và thậm chí có cả những chủng sinh Đại Chủng viện, tu sĩ...) vội vàng cất bàn thờ lên gác hoặc một xó xỉnh nào đó rồi chưng ảnh lãnh tụ lên. Chưa hết, còn khai vào lý lịch là “không tôn giáo”, theo “đạo ông bà”. Vấn đề truyền giáo ở Việt Nam, nếu đem so sánh sự “thử thách” ở thời điểm 1975 với “giai đoạn thử thách” của lịch sử Giáo hội VN (dưới những triều đại phong kiến) thì chưa thấm tháp gì. Vậy mà con số những kẻ “cất giấu bàn thờ Chúa, theo đạo ông bà, không tôn giáo…” không chừng còn nhiều hơn con số 130.000 anh hùng tử vì đạo! Thế đấy!
Có thể ngày nay có rất nhiều người "không hề có ý lìa bỏ Thiên Chúa", không theo chủ nghĩa "vô thần", nhưng lại là những người "vô thần hiện thực", nghĩa là sống như không có Thiên Chúa vì thực tế đã không sống theo Lời Chúa dạy. Không thiếu những người "có đạo" mà không "sống đạo", và cũng chẳng ít người "giữ đạo" sốt sắng (đi lễ, rước lễ hàng ngày), nhưng lại không "hành đạo" trong cuộc sống hàng ngày bằng cách sống Lời Chúa. Lời Thánh Gia-cô-bê dạy vẫn không bao giờ là thừa: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết… Anh em thấy đó, nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi… Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2, 17.24.26)
Ôi! Lạy Chúa! Con không còn đủ can đảm và tỉnh táo để viết tiếp được nữa, bởi nhìn lại mình, con cũng thấy hằng ngày – cách này hay cách khác – con cũng vẫn cầm giáo đâm vào Trái Tim Chúa; mặc dầu con vẫn biết – biết rất rõ – vẫn rất vững tin rằng “Bỏ Thầy, con biết theo ai?” Vâng, lạy Chúa! “Bỏ Ngài con đi với ai, vì Ngài có Lời ban sự sống. Bỏ Ngài thân con héo hon, đời cô liêu trên chốn dương gian. Bỏ Ngài con đi với ai đường xa lắc tương lai mịt mờ, nào ai dẫn con trên đường dài. Bỏ Ngài con đi với ai?” (TCCĐ “Bỏ Ngài con đi với ai?” – Phaolô Kim).
Ôi! Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con! Xin ban Thần Khí an ủi, soi sáng, thêm sức cho con, để con không chỉ "giữ đạo" mà phải biết "hành đạo", biết "sống đạo" một cách cụ thể theo đúng Lời Chúa dạy. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
JM. Lam Thy ĐVD.