Peter To Rot – Thánh nhân và thành quả của một sứ mệnh chung
Peter To Rot – Thánh nhân và thành quả của một sứ mệnh chung
Vị thánh đầu tiên của Papua New Guinea sẽ được phong thánh vào ngày 19 tháng Mười năm 2025, như Đức Thánh Cha Leo XIV đã công bố vào thứ sáu, ngày 13 tháng Sáu, trong Công nghị thường kỳ đầu tiên triều đại giáo hoàng của ông.
Peter To Rot là một giáo lý viên giáo dân đã tử đạo vào năm 1945 vì tiếp tục công việc tông đồ của mình bất chấp lệnh cấm của Nhật Bản. Trường hợp của ngài đặc biệt vì một số lý do: ông sẽ là vị thánh bản địa đầu tiên của Papua, một người nhiệt thành bảo vệ cho hôn nhân và gia đình, một giáo lý viên tận tụy với sứ mệnh của những nhà truyền giáo Thánh Tâm. Sự thánh thiện của ngài là thành quả của sự hợp tác chặt chẽ giữa các linh mục và giáo dân trong công cuộc truyền giáo.
“Tôi bị giam cầm vì những người phá vỡ lời thề hôn nhân và vì những người không muốn thấy công việc của Chúa tiến triển. Chỉ có vậy thôi. Tôi phải chết. Tôi đã bị kết án tử hình rồi.” Những lời này của Peter To Rot, được nói ra vài giờ trước khi ngài qua đời, mô tả nguyên nhân dẫn đến sự tử đạo của ngài, nhưng chúng chỉ có ý nghĩa khi biết và hiểu được nhiều sự kiện khác xảy ra trước đó, nếu không có chúng thì không thể hiểu được cuộc sống đức tin và sự thánh thiện sâu sắc của ông.
Cha mẹ của Peter To Rot nằm trong số những người bản xứ đầu tiên được rửa tội tại Rakanui, quê hương của ông trên đảo New Britain của Papua New Guinea. Sự kiện này, xảy ra chỉ 14 năm trước khi ông chào đời, cho thấy tầm quan trọng của công cuộc truyền giáo mà các nhà truyền giáo đã bắt đầu ở đó vào cuối thế kỷ 19, vì cha của Peter To Rot không ai khác chính là người lãnh đạo dân tộc của ông, điều đó có nghĩa là lễ rửa tội của ông, với thẩm quyền cao nhất, là một cử chỉ chấp nhận thông điệp của Chúa Kitô của cư dân vùng đất đó và, có lẽ quan trọng nhất, là từ bỏ mọi tập tục phù thủy và ăn thịt người, vốn đã ăn sâu vào nền văn hóa của họ. Sự cải đạo sang Kitô giáo này mãnh liệt đến nỗi chính Angelo To Puia, như ông được gọi, đã hiến đất để xây dựng nhà thờ, trường học và nhà của các nhà truyền giáo Thánh Tâm ở Rakanui, những người đã đến hòn đảo này vào năm 1882, được Đức Giáo hoàng Leo XIII cử đến, theo yêu cầu rõ ràng của Đức Giáo hoàng gửi đến người sáng lập của họ, Cha Jules Chevalier.
Là một nhà lãnh đạo, ông được phần còn lại của dân chúng vô cùng kính trọng, nhưng thậm chí còn hơn thế nữa vì lòng tốt và sự tận tụy cá nhân của ông đối với những người cần ông nhất. Cùng với vợ mình, Maria Ia Tumul, họ đã thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các nhà truyền giáo. Theo cách này, đức tin của họ được các thành viên khác trong cộng đồng hiểu là điều gì đó tốt đẹp.
Chính trong bầu không khí gia đình của đức tin và lòng bác ái này mà Peter To Rot đã ra đời. Ngay từ khi còn nhỏ, ngài đã tự nguyện làm người phục vụ trong Thánh lễ, không chỉ Thánh lễ Chúa Nhật mà còn trong Thánh lễ hằng ngày. Chính Carl Laufer, thạc sĩ, linh mục giáo xứ trong sứ mệnh đó kể từ khi To Rot còn là thiếu niên, đã khuyên ngài vào trường đào tạo giáo lý viên khi mới 18 tuổi.
Khái niệm về giáo lý viên, cũng như chức năng của họ, trong một sứ mệnh mang theo một cam kết mạnh mẽ đối với cộng đồng. Họ là những nhà lãnh đạo tôn giáo và tinh thần thực sự, chịu trách nhiệm duy trì ngọn lửa đức tin, thực hiện mọi hoạt động của một nhà truyền giáo khi họ vắng mặt, ngoại trừ việc thánh hiến. Họ thực hiện phép rửa tội, cử hành hôn nhân, mang Lời Chúa ... Đôi khi, cam kết của họ lớn đến mức họ thậm chí còn hy sinh mạng sống vì điều đó. Đây là trường hợp xảy ra vào những năm 1980 ở Guatemala, tại vùng El Quiché, nơi hàng chục giáo lý viên đã bị quân đội giết chết vì giúp đỡ công việc của các Nhà truyền giáo Thánh Tâm, hoặc tiếp tục công việc này khi họ bị trục xuất khỏi đất nước.
Hoàn cảnh dẫn đến sự tử đạo của Peter To Rot rất giống nhau. Trong Thế chiến II, năm 1942, quân đội Nhật Bản đã xâm lược Papua New Guinea. Một trong những biện pháp đầu tiên họ thực hiện là giam giữ tất cả các nhà truyền giáo, mặc dù họ vẫn tiếp tục cho phép người dân thực hành tôn giáo. Ở đây, các giáo lý viên nói chung, và Peter To Rot nói riêng, đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc duy trì đức tin, những lễ kỷ niệm và việc ban phát các bí tích. Một năm sau, họ bắt đầu cấm một số hoạt động cho đến khi cuối cùng, họ cấm tất cả các hoạt động. Nhưng Peter To Rot đã thực hiện một cam kết rất mạnh mẽ đối với việc công bố Lời Chúa và đưa những lời dạy của Chúa Gisu vào thực hành theo Tin Mừng.
Quân đội Nhật Bản bắt đầu triệu tập tất cả các giáo lý viên đến đồn cảnh sát, thẩm vấn họ về các hoạt động của họ và cảnh báo họ rằng lệnh cấm mọi hoạt động tôn giáo là hoàn toàn. Peter To Rot muốn giải thích với họ rằng những gì họ đang làm không liên quan gì đến chiến tranh, đã bị khiển trách vì điều đó và chắc chắn là rất buồn, ông trở về nhà với niềm tin rằng ông phải tiếp tục công việc mục vụ của mình mặc dù thực tế là ông gần như đơn độc.
Ông ra ngoài vào buổi tối, một cách bí mật, để cầu nguyện với một số nhóm. Ông đã dạy giáo lý một chút và nếu cần thiết, làm lễ rửa tội hoặc chủ trì lễ cưới. Ông nhận thức rõ rằng, khi không có các nhà truyền giáo, ông phải thực hiện vai trò của mình là một giáo lý viên, để không bỏ rơi các cộng đồng Kitô giáo.
Khi chiến tranh sắp kết thúc và quân đội Nhật Bản có nhiều khả năng bị đánh bại, chính quyền Nhật Bản đã tìm cách lấy lòng người Papua và khôi phục lại những phong tục từ quá khứ. Một trong số đó là chế độ đa thê. Điều này khiến Peter To Rot hoàn toàn xác nhận cam kết của mình đối với bí tích hôn nhân. Ngoài nhu cầu duy trì ngọn lửa đức tin, giờ đây còn có nghĩa vụ phải bảo đảm rằng những tập tục này, trái ngược với lời dạy của Chúa Giêsu, giờ đây gần như bị xóa bỏ khỏi nền văn hóa của dân tộc ông, sẽ không quay trở lại.
Do đó, ông đã bắt đầu một cuộc thập tự chinh công khai chống lại chế độ đa thê, điều này khiến ông phải đối đầu với một số người có quyền lực, cảnh sát, thẩm phán, v.v…, những người muốn lấy những người phụ nữ đã kết hôn làm vợ. To Rot trực tiếp đối đầu với nhà chức trách đã trở thành kẻ thù của ông, trong số đó có một người có đủ quyền lực để ra lệnh bắt giữ ông, cảnh sát To Metapa. Ông sớm bị triệu tập đến đồn cảnh sát để làm chứng về các hoạt động tôn giáo của mình. Peter To Rot khẳng định rằng ông vẫn đang làm những gì ông được giao phó với tư cách là một giáo lý viên, và khi ông khẳng định lại lập trường phản đối chế độ đa thê, họ đã có lý do chính đáng để bắt giữ ông.
Trong thời gian bị giam giữ, ông tỏ ra bình tĩnh và tin chắc rằng mình đã làm tốt trong việc lên án chế độ đa thê và bảo vệ hôn nhân theo đạo Thiên chúa, cũng như tiếp tục phục vụ cộng đồng. Ông không bao giờ tỏ ra hối hận và vẫn kiên định với đức tin và bổn phận của mình với tư cách là một giáo lý viên.
Cuối cùng, vào những ngày đầu tháng Bảy năm 1945, Peter To Rot bị cảm lạnh. Không cần phải có bản án nghiêm khắc, không cần phương pháp tử hình chính thức. Lợi dụng lúc ông bị cảm, bác sĩ đã chích cho ông một mũi thuốc và bắt ông uống cái gọi là thuốc. Sau một thời gian ngắn, ông cảm thấy buồn nôn, bác sĩ đã bịt miệng ông và ông đã chết.
Cảnh sát To Metapa, người chịu trách nhiệm bắt giữ anh, đã đến hiện trường và nói: “Anh ấy, ‘cậu bé truyền giáo’, bị bệnh rất nặng và đã chết.”
Jos. Nguyễn Minh Sơn