Nhảy đến nội dung

Ra đời của Chúa Giê-su III

Ra đời của Chúa Giê-su III

 

Nguyễn Ước dịch

(tiếp theo)

Lễ kỷ niệm Chúa Giê-su ra đời

      Ta không biết ngày sinh của Chúa Giê-su. Trong các thời kỳ ban đầu không có quan tâm lớn lao đến thời điểm lễ Giáng Sinh. Đại lễ duy nhất được cử hành vào thời đó là lễ Phục Sinh, nhắc nhở tới mầu nhiệm của Đức Kitô. Nhưng vào thế kỷ thứ ba, Kitô hữu cảm thấy ao uớc cử hành lễ riêng về việc Đức Kitô sinh ra. Đó cũng cùng một hiện tượng như ta ghi nhận khi kể về cuốn phúc âm. Trước hết là các biến cố cứu độ vĩ đại do Đức Kitô hoàn tất trong thời trưởng thành của ngài, và chỉ lúc đó đưa đến nỗi ao ước "lội ngược dòng" để thấy những giai đoạn đầu tiên.

      Việc không biết ngày sinh của Đức Kitô đã để cho Kitô hữu tự do chọn lựa thời điểm nhiều ý nghĩa nhất. Cách tự phát, thời kỳ trong năm bắt đầu có các ngày dài hơn được chọn. Vì thế ngay từ thuở xưa, khoảng thời gian từ ngày 25 tháng Mười hai đến ngày 6 tháng Giêng được dùng làm những thời điểm dành cho sự biểu thị đầu tiên của Chúa Giê-su. Việc chọn lựa này có vẻ như phỏng theo các ngày lễ hội ngoại đạo. Nhưng đó chỉ là ngẫu nhiên. Lý do căn bản giản dị hơn nhiều và cách tổng quát, người ta muốn hấp dẫn bản tính con người. Khi xuất hiện sự tươi rạng trong thiên nhiên, các Kitô hữu bắt đầu cử hành lễ kỷ niệm ra đời của Sự Sáng mới không bao giờ tàn lụi. Đó là ánh sáng tâm linh, và vì thế không bị suy xuyển gì dù các thành phố hiện đại của chúng ta luôn luôn được chiếu sáng hoặc tại nam bán cầu việc mặt trời mọc là một biểu tượng thiên nhiên được bàn tán vì khó thấy có hoặc thật sự hoàn toàn vắng bóng. Đức tin Kitô giáo không tách biệt với thiên nhiên; mà hân hoan hoà hợp mình với diễn biến của thiên nhiên, nhưng nó không là một tôn giáo thiên nhiên bị gắn chặt vào chu kỳ các mùa. Nó đặt căn bản trên những sự kiện lịch sử tồn tại cách vĩnh viễn thích đáng.

      Việc ra đời của Chúa Giê-su là một sự kiện trong lịch sử. Toàn bộ lịch sử theo đó mà được xác định thời điểm.  Năm thứ nhất là năm ra đời của Chúa Giê-su.  Đây là một khải thị tuyệt vời mà Dionysus Exigumos (gọi là Denis Hèn mọn – một tu sĩ thế kỷ thứ sáu) theo đó để thay thế bản liệt kê thời xa xưa tính năm theo việc thành lập đế quốc La mã. Rõ ràng Denis quá ít để ý tới tiếng "khoảng" trong câu văn của Lu-ca, "khoảng ba mươi tuổi", nói về tuổi của Chúa Giê-su lúc bắt đầu rao giảng (Lc. 3:23). Hậu quả là theo sự tính toán của mình, Denis có thể đã bỏ mất từ bốn cho đến bảy năm. Nếu Chúa Giê-su có sinh ra trước đó vài năm thì thời điểm "Công Nguyên - C.N." (Anno Domini – A.D.), "năm của Chúa" vẫn giữ nguyên ý nghĩa sâu xa của nó: một kỷ nguyên mới bắt đầu với Chúa Giê-su.

      Biến cố lịch sử biểu thị của Thiên Chúa để cứu dộ chúng ta được giữ lại kề bên chúng ta trong phụng vụ. Do đó chương này được viết từ quan điểm cử hành lễ hàng năm của chúng ta về sự ra đời của ngài, được thể hiện thành chủ đề rất tốt vì phụng vụ từ ngày 25 tháng Chạp đến 2 tháng Hai bao gồm được mọi biến cố quan trọng.

      Trong đêm tối nhất năm, Giáo Hội hồi tưởng sự ra đời của Chúa Giê-su. Bằng cử hành phụng vụ Thánh Thể ba lần – nửa đêm, rạng sáng và ban ngày, mỗi lần đều có những tụng ca và lời cầu nguyện khác nhau. Phong tục này xuất phát từ Giê-ru-sa-lem. Trước hết, lễ canh thức được tổ chức tại Bê-lem. Tới rạng đông, đám rước vào đến Giê-ru-sa-lem. Suốt ngày, Kitô hữu tập trung tại nhà thờ lớn của thành phố. Vì thế Giáo Hội chúng ta nay vẫn cử hành ba Thánh lễ trong Ngày Giáng Sinh.

      Trước lúc tín hữu tập họp vào nửa đêm thì các dòng tu chiêm ngắm trên khắp thế giới đang hát những Ca khúc Đêm Giáng Sinh rất đài, hai giờ thánh vịnh, các bài đọc từ I-sai-a và từ các Đức Thánh Cha Lê-ô Cả, Grê-gô-ri-ô Cả, Au-gus-ti-nô và Am-brô-si-ô – một cuộc tụng ca kéo rất dài. Giáo Hội chiêm ngắm chuẩn bị đón tiếp Chúa Giê-su ra đời trong lúc chúng ta sắp xếp những chuẩn bị sau cùng, vào đêm nay, lúc các lời tiên tri được thực hiện và lúc Mẹ Ma-ri-a cùng Thánh Giu-se sắp xếp những sửa soạn thực tế cho việc sinh nở.

      Thánh lễ nửa đêm bắt đầu với bài ca kể về sự ra đời mãi mãi của Chúa Con bởi Chúa Cha. "Người phán với Ta: Ngươi là Con Ta, chính Ta, hôm nay, Ta đã sinh ra Ngươi" (theo Thánh vịnh 2). Trích thư Thánh Phao-lô Tông đồ gởi Ti-tô: "Vì đã hiển linh rồi ân sủng cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người thiên hạ" (Tt. 2:11-15). Sau các bài thánh vịnh long trọng, đọc Sách Thánh, thì đến điểm tột đỉnh của đêm thánh là một câu chuyện giản dị về giáng sinh, cuộc kiểm tra dân số đã làm thế nào mang Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a đến Bê-lem, thị trấn mà Đa-vít đã đến. "Xảy ra là đang khi ông bà ở đó, thì đã mãn những ngày thai nghén, đến buổi lâm bồn, và bà đã sinh con đầu lòng, và lấy tã vấn con và đặt nằm trong máng cỏ, bởi vì không có chỗ cho ông bà trong quán trọ" (Lc. 2:6-7).

      Một máng cỏ hoặc một máng ăn là đồ chứa cỏ khô cho súc vật ăn. Đó là cách mà Sự Sáng xuất hiện – làm một người nghèo khổ, kẻ không chỗ nào chứa chấp. Rõ ràng chỗ ngài sinh ra là dấu chỉ đáng kể về sự vĩ đại của ngài. Đó là thành phố vương giả Bê-lem, nơi lời hứa với Đa-vít sau cùng được thực hiện.

      Chúng ta cũng được kể về việc các thiên thần hiện ra. Vinh quang Thiên Chúa xuyên thủng bóng tối.  Các thiên thần hát lên lời ca như sau:

            "Vinh quang Thiên Chúa trên trời cao thẳm

            và dưới đất bình an cho kẻ Người thương" (Lc. 2:13).

      Điều ấy có ý nghĩa là loài người thuộc về lòng đoái thương của Thiên Chúa.   Cũng có thể cắt nghĩa điều ấy là Thiên Chúa hài lòng về loài người.  Chủ đề lớn lao của đêm nay là lòng đoái thương của Thiên Chúa, lòng nhân từ của ngài không loại bỏ một ai.

            "Nơi điều này mà thực là lòng mến:

            là không phải vì ta đã yêu mến Thiên Chúa.

            nhưng chính là Người đã yêu mến Ta,

            và sai Con của Người đã đến

            làm hy sinh đền tạ tội lỗi ta" (1 Ga. 4:10).

      Sau trình thuật về ra đời này đến bài giảng về mầu nhiệm đang được cử hành, rồi đến phần Phụng Vụ Thánh Thể.

      Thánh lễ rạng đông ngập tràn những biểu tượng của sự sáng. Thêm lần nữa trích thư Thánh Phao-lô Tông đồ gởi Ti-tô nói về sự trọn lành của Thiên Chúa, lòng đoái thương và tính chủ động của ngài:  "Người đã cứu ta, không phải do tự các việc ta làm trong công chính; nhưng là chiếu theo lòng thương xót của Người" (Tt. 3:5-7).

      Phúc âm tiếp tục trình thuật của Lu-ca từ điểm tột đỉnh của Thánh lễ nửa đêm. Mô tả sự tuyển chọn đầu tiên của Thiên Chúa – những mục đồng nghèo khó đuợc dẫn đường tới để nhận biết hài nhi. Các mục đồng không chỉ nghèo khó mà còn bị rẻ rúng. Những mục đồng này giờ đây đại diện cho toàn thể dân tộc, như cùng xuất hiện theo lời các thiên thần: "Này ta đem (cho các ngươi) tin mừng [nghĩa đen: phúc âm] về một niềm vui to tát, tức là niềm vui cho toàn dân" (Lc. 2:10). Vào khoảnh khắc đầu tiên ấy, khi cuộc cứu rỗi ngưng lại để trở thành một công cuộc của tương lai và bắt đầu một vinh quang "Hôm nay", phúc âm thấy mọi giá trị đã bị đảo ngược rồi. Đại diện cho loài người là những người bị rẻ rúng, không là những kẻ được tôn vinh và kính trọng. Việc kể lại câu chuyện ra đời kết thúc với bài phúc âm của Thánh lễ rạng đông.

      Thánh lễ ban ngày là một Thánh lễ Giáng Sinh có tính cách thật sự lễ hội. Thánh lễ này được dành để công bố long trọng nhất sự ra đời mãi mãi của Chúa Con. Ca nhập lễ bắt đầu với những tiếng giản dị,  "Vì một trẻ đã sinh cho ta..." nhưng tiếp theo ngay là các lời lẽ, "vai Ngài đỡ lấy quyền bính và thiên hạ hô tước hiệu của Ngài:  Mưu sư sự lạ" (Is. 9:5). Thư Tông đồ là phần khai đề của Thư gởi Tín hữu Do thái (Dt. 1:1-6).  Về phúc âm thì đoạn mở đầu của Thánh Gio-an được chọn:

            "Lúc khởi nguyên đã có Lời

            và Lời ở nơi Thiên Chúa

            và Lời là Thiên Chúa

            Ngài đã có lúc khởi nguyên nơi Thiên Chúa.

            Mọi sự đã nhờ Ngài mà thành sự và

            không Ngài thì không gì đã thành sự.

            Điều đã thành sự nơi Ngài là sự Sống

            và sự Sống là sự Sáng cho loài người.

            và sự sáng rạng trong tối tăm

            và tối tăm đã không triệt được sự sáng...

            (Ngài) là sự sáng đích thật,

            sáng soi mọi người,

            (Ngài) đến trong thế gian

            Ngài có trong thế gian ,

            và thế gian đã nhờ Ngài mà được có,

            mà thế gian đã không biết Ngài,

            Ngài đã đến nơi nhà của Ngài,

            mà người nhà không tiếp nhận Ngài.

            Còn những ai tiếp nhận Ngài thì Ngài ban cho họ

            quyền làm con Thiên Chúa, ấy là những kẻ tin vào Danh Ngài.

            Họ không do máu huyết mà sinh ra,

            cũng không phải do ý của nam nhân, nhưng

            chính họ bởi Thiên Chúa mà được sinh ra.

            và Lời đã thành xác phàm,

            và đã lưu trú nơi chúng tôi,

            và chúng tôi đã được ngắm vinh quang của Ngài,

            vinh quang như Con Một tự nơi Cha,

            tràn đầy ơn nghĩa và sự thật" (Gn. 1:1-5, 9-14).

      Giáo Hội cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh bằng những ngôn từ tung hô như thế. Nếu dự lễ bằng con tim và linh hồn mình, chúng ta tiếp nhận ân sủng của Thánh lễ Giáng Sinh: sự gặp gỡ Đức Kitô trọn vẹn, được thấy trong hình dáng Đức Kitô hài đồng.

      Lễ kỷ niệm này vang vọng trong mỗi gia đình chúng ta và trong các hình thức khác của đời sống xã hội. Máng cỏ, các bài ca giáng sinh – qua các luồng sóng truyền thanh, truyền hình hoặc máy hát – tính cách thiêng liêng và các dây hoa đèn, âm điệu thánh thót của chuông giáo đường khiến sự ra đời của Chúa Giê-su thành một lễ hội ảnh hưởng độc đáo trong mỗi gia đình và mọi nơi khác.

      Với người ngoại giáo, ngày 25 tháng Chạp là liên hoan giữa mùa đông. Nghỉ ngơi sau lao động mùa thu, thời gian vui thú đời sống ấm cúng gia đình. Lễ Giáng Sinh cũng thể hiện chức năng ấy với Kitô hữu. Điều ấy có nghĩa lễ hội Giáng Sinh dung chứa cách kỳ lạ những yếu tố tương phản nhau, như Thánh Phan-xi-cô As-si-si đã cảm nhận và các nhà thơ hiện đại thường nhấn mạnh. Mặt khác, Giáng Sinh là ngày hội của nghèo khó, của việc bước ra bên ngoài vòng thân thuộc của đời sống mỗi người, là thời gian của bác ái. Và mặt khác nữa, Giáng Sinh là lễ hội của phong phú dạt dào, của việc giữ gìn bên trong vòng thân thuộc của ta, của duy trì những gì mật thiết và như thế cũng là của yêu thương tại những nơi thân thuộc đó. Một trong các việc nên làm trong dịp lễ Giáng Sinh là hướng tới sẵn sàng tiếp đón người bên cạnh, những người thường sống ngoài vòng thân cận của gia đình mình. Chỉ bằng cách thức ấy thì việc cử hành lễ Giáng Sinh mới tương xứng mọi bề với sự hạ mình xuống thế cách tuyệt diệu của Chúa Giê-su.

      Như Lu-ca kể, tám ngày sau sinh nhật của hài nhi là lễ cắt bì. Giáo Hội cũng nhắc nhở sự kiện này vào tuần lễ sau lễ Giáng Sinh, ngày đầu năm dương lịch. Bằng dấu hiệu cắt bì đúng với đòi buộc của lề luật, Chúa Giê-su trở thành phần tử của dân tộc Is-ra-el.

      Ngày đó hài nhi được đặt cái tên vốn đã được tuyên bố từ lâu trước lúc hài nhi ra đời: Giêsu, nghĩa là Giavê cứu độ. Tên đó từng được mang bởi một nguời đã dẫn dân tộc mình vào đất hứa: Gio-su-ê (viết theo cách Hy Lạp).

(Trích: Giáo Lý Mới Thời Đại Mới: Đức Tin Công Giáo)

Tác giả: