Nhảy đến nội dung

Say nothing

SAY NOTHING

Có thể nói câu chuyện được thuật lại trong Tin mừng hôm nay là một câu chuyện rất thú vị. Đó là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari. Mở đầu cuộc gặp gỡ giữa hai người thật là đáng ngạc nhiên. Chúa Giêsu là người đã đi bước trước đến với cuộc đời chị ấy. Ngài đã ngỏ lời xin nước uống từ một người phụ nữ dân ngoại. Tất nhiên, cô gái ấy đã hết sức kinh ngạc vì Người “đàn ông” trước mặt cô đã dám phá vỡ tục lệ của dân tộc Ngài, không được phép giao thiệp với người Samari. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu đã dẫn dắt chị đi xa hơn: “Chả lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này?” (Ga 4, 12) Chị đã bắt đầu nhận ra sự “khác biệt” của người đã xin chị nước. Ngài ấy không phải muốn xin chị chút nước uống chỉ cho đỡ khát chứ không hết khát, nhưng Ngài ấy còn muốn đưa chị đi xa hơn, Ngài ấy còn muốn giới thiệu cho chị biết có một thứ nước hằng sống mà uống vào sẽ không còn khát nữa: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa.” (Ga 4, 14) là Ngài muốn mang ơn cứu độ của mình đến với tất cả mọi người không phân biệt dân ngoại hay Do Thái, nô lệ hay tự do.

Kịch tính của câu chuyện giữa hai người đã được mở ra, tất nhiên khi được giới thiệu về nguồn nước hằng sống, người phụ nữ kia sẽ mở lòng đón nhận ngay: “Xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” (Ga 4, 15) Người phụ nữ chỉ nghĩ đến việc tiện lợi cho mình, và hồ hởi xin Ngài ngay nguồn nước trường sinh mà Ngài vừa nhắc đến. Thế nhưng, ý muốn của Chúa Giêsu không phải vậy, Ngài không phải đến để giải quyết vấn nạn cơm áo gạo tiền hay nhu cầu ăn uống của con người, nhưng Ngài đến để dạy cho chúng ta bài học về ý nghĩa cuộc sống. Cuộc đời này ngắn ngủi vậy đấy, vất vả thế đấy, đói khát thế đấy nhưng tất cả chỉ là tạm bợ. Chúng ta sẽ có một cuộc sống thật sự bất diệt ngày sau. Đó là cuộc sống mà con người sống hạnh phúc bên nhau, nơi ấy không còn chiến tranh, hận thù hay ganh ghét...Thế nhưng, vấn đề là có mấy ai muốn cuộc sống như vậy ngày sau.

Con người luôn thích hưởng thụ, cái gì cũng phải làm ngay ăn ngay mới thỏa nỗi đam mê. Thế nên, có mấy người sống hôm nay mà nghĩ đến ngày sau. Ý niệm hạnh phúc ngày sau xem chừng xa vời quá, ảo tưởng quá, viển vông quá. Cứ cái gì cụ thể ngay trước mắt, con người mới tin và mới sống theo. Cái gọi là chủ nghĩa thực dụng. Thế nhưng, Chúa Giêsu đến để dạy cho chúng ta biết rằng, ngoài những nhu cầu vật chất thiết yếu của con người, họ còn cần phải hướng đến một giá trị của đời sống tinh thần, đời sống tâm linh, đó mới chính là linh hồn của con người. Nhu cầu vật chất chỉ thỏa mãn đam mê của thân xác, còn nỗi khát khao của linh hồn, thì lấy gì bù đắp được đây.

Một lý do duy nhất mà Chúa Giêsu thu phục được trái tim người phụ nữ dân ngoại hôm nay, chính là sự thấu hiểu. Hơn bao giờ hết, con người luôn luôn có nhu cầu được thấu hiểu. Một khi thấu hiểu ai cũng chính là lúc ta yêu họ, thông cảm với họ, tha thứ cho họ và đồng cảm với họ. Con người cần ăn để sống thì cũng cần thấu hiểu để tồn tại. Trong tình yêu nếu như không có sự thấu hiểu làm sao có được tha thứ, mà tha thứ không tồn tại thì làm gì còn có tình yêu. Vậy nên, chỉ cần được thấu hiểu, thấu hiểu cả nỗi riêng tư thầm kín nhất trong lòng, người phụ nữ đã nhận ra vai trò, sứ mạng cũng như sự thật về con người Chúa Giêsu: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ.” (Ga 4, 19)

Câu chuyện Tin mừng hôm nay thú vị vì có một kết thúc có hậu. Khi người phụ nữ được thấu hiểu cũng chính là lúc họ đặt niềm tin, đặt tình yêu vào người thấu hiểu họ: “Đến mà xem, có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kytô sao?” (Ga 4, 29) Tình yêu luôn luôn là vậy. Hoa trái tình yêu cũng luôn luôn là vậy, là niềm tin, là bình an, là hạnh phúc. Người phụ nữ dân ngoại đã đặt niềm tin vào Đấng thấu hiểu chị và tuyên xưng và loan báo niềm tin, niềm vui ấy đến cho mọi người để rồi tất cả chúng ta đều thốt lên: “Không phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người này thật là Đấng cứu độ trần gian.” (Ga 4, 42)

Một kết thúc rất có hậu, rất hay, rất tuyệt. Ước gì cuộc đời mỗi người chúng ta cũng đều có một “câu chuyện tình” như vậy và đều có một kết thúc có hậu và đẹp như vậy.

Lạy Chúa, nếu con hỏi có bao giờ Ngài ngỏ lời xin nước uống của con như người phụ nữ dân ngoại hôm nay thì con đúng thật là kẻ hồ đồ. Có lẽ không biết bao nhiêu lần Ngài bước vào cuộc đời con cho con cơ hội nhận ra tình thương và sự hiện diện của Ngài trong cuộc đời con, nơi cuộc đời tha nhân nhưng con phớt lờ như không nghe, không biết. Có lẽ tại vì con là kẻ tội lỗi chai lì và cố chấp. Thế nhưng Ngài vẫn kiên trì đứng lại bên bờ vực thẳm ấy để chờ con đến kín nước. Nước giếng ngày càng sâu, càng khô cạn vì con tội lỗi, khô cằn. Con không mở lời để xin Ngài dòng nước trường sinh uống vào cho hết khát, vì con còn mang thân xác con người hư hèn, tội lỗi. Có lẽ con thấy mình không xứng đáng để uống dòng nước bất tử Ngài ban hoặc con thoái thác không muốn uống. Mà con lại đi tìm cho mình một thứ nước khi con uống vào có thể khiến con diệt vong đời đời. Con đúng thật là kẻ tội lỗi bất hạnh, biết mình có tội nhưng không thể thoát ra. Có phải vì con đang nuông chiều ham muốn của bản thân mà chai lỳ không nghe theo hướng dẫn của Thánh Thần để đến với ân sủng Chúa, hay đơn giản chỉ vì con chỉ là tội nhân không hơn không kém. Thôi thì là gì cũng được, miễn là trong lòng con luôn có Chúa, miễn là ở tận đáy lòng con luôn có Ngài ngự trị. Có những lúc Ngài ở đấy để nghe con khóc, có khi Ngài ở đó để nghe con trách, cũng có khi Ngài ở đấy để nhìn con hạnh phúc.... Là gì cũng được, miễn là Ngài vẫn ở bên bờ vực thẳm giữa sự thiện và sự tội chờ con. Chắc chắn con sẽ trở lại xin Ngài nước uống, chỉ không biết là đến bao giờ mà thôi. Và nếu lần sau có đến chắc chắn con sẽ chỉ nhìn Ngài mà chả nói gì đâu...

M. Hoàng Thị Thùy Trang.