SỐNG hay KHÔNG SỐNG? - Tín mộng
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Trầm Thiên Thu
SỐNG hay KHÔNG SỐNG?
Sự sống là đặc ân do Thiên Chúa ban, nhưng cách sống thì tùy mỗi người, Ngài không ép buộc mà cho tự do chọn lựa. Chắc chắn cách sống ảnh hưởng cách chết!
Phần cuối diễn từ Chúa Giêsu thuyết giảng tại hội đường Caphácnaum được Thánh Gioan kể trong trình thuật Ga 6:51-59. Chính Chúa Giêsu xác định: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
Khi nghe Chúa Giêsu nói vậy, người Do Thái “nóng gáy” và tranh luận sôi nổi với nhau. Họ cho rằng Chúa Giêsu không thể cho chúng ta ăn thịt của mình. Họ không thể hiểu điều Ngài nói. Nếu chúng ta hiện diện với họ và được nghe Ngài nói vậy, chắc chắn chúng ta cũng chẳng hiểu, thậm chí có thể dám manh động chứ chẳng ngồi yên. Nhưng thật may là chúng ta đã “kịp hiểu” nhờ tiếp nhận đức tin tông truyền từ nhiều thế hệ trước.
Chúa Giêsu biết họ “đau tai, nhức óc” nhưng Ngài vẫn phân tích: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông KHÔNG ăn thịt và uống máu Con Người, các ông KHÔNG có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI, và tôi sẽ cho người ấy SỐNG LẠI vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này sẽ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI.”
Đối với người Công Giáo, khi tiếp rước Thánh Thể là họ được “hòa tan” vào Chúa Giêsu, được sống bằng sự sống của Ngài. Ai mở lòng ra với Ngài thì Ngài sẽ đại lượng trao ban, vì Ngài luôn muốn người ta được sống và sống dồi dào. (Ga 10:10)
Phàm nhân không thể hiểu được hoạt động của Sự Sống. Đó là một quá trình diễn ra từ lúc sinh vật được tạo thành (sinh ra) cho đến lúc bị phân hủy (chết đi). Sự sống là điều kiện cho phép một thực thể sinh ra, tồn tại và chết đi tại một thời điểm nào đó. “Sinh ký, tử quy” là quy luật bất biến. Không ai biết lúc nào khởi đầu và khi nào kết thúc. Người ta tóm tắt công trình của bác học Pasteur thành định luật: “Omne vivum ex ovo – Mọi sự sống đều bắt đầu từ trứng.” Sự sống kỳ diệu được đúc kết thành ba quy luật: [1] Có cấu trúc phức tạp và tinh vi, [2] Có tổ chức phức tạp và tinh vi, [3] Thông tin của sự sống ổn định, chính xác và liên tục.
Thánh GH Gioan Phaolô II tái xác định giá trị của sự sống con người và tính bất khả xâm phạm của sự sống trong thông điệp “Evangelium Vitae” (Tin Mừng Sự Sống, 25-3-1995), và nhân danh Thiên Chúa mà thiết tha kêu gọi mọi người phải tôn trọng, bảo vệ, yêu mến và phục vụ sự sống con người. Ngài mời gọi mọi người dấn thân vào cuộc chiến giữa “văn hóa sự chết” và “văn hóa sự sống.” Cuộc chiến này được biểu hiện qua Thập Giá Đức Kitô: “Ánh rạng ngời của Thập Giá không bị bóng tối này che đi; thậm chí Thập Giá càng nổi bật rõ nét và sáng tỏ hơn, xuất hiện như là trung tâm, ý nghĩa và cứu cánh của toàn thể lịch sử và toàn thể sự sống con người.” (Evangelium Vitae, số 50)
Giáo Hội đã xác định sự sống là quyền bất khả xâm phạm. Sự sống cần có lương thực, nhưng sự sống đời này chỉ tạm bợ, mau qua và chắc chắn sẽ kết thúc, quan trọng là sự sống vĩnh hằng. Khi một thanh niên giàu có hỏi về sự sống đời đời, Chúa Giêsu xác định: “Nếu anh muốn vào cõi sống, hãy giữ các điều răn.” (Mt 19:17) Ngoài các điều răn, Chúa Giêsu còn trao ban cho chúng ta loại lương thực đặc biệt để nuôi dưỡng chúng ta trên đường lữ hành trần gian: Bánh Trường Sinh – tức là Bánh Hằng Sống, Bánh của Sự Sống đời đời.
Chúa Giêsu lặp đi lặp lại và nhấn mạnh vấn đề này để chuẩn bị tinh thần cho người ta có thể hiểu về Thánh Thể – loại Bánh đặc biệt là chính Thân Mình Ngài. Một sự thật vượt ngoài trí hiểu của nhân loại, phàm nhân khó có thể chấp nhận, vì thế mà Ngài đã chuẩn bị tinh thần cho chúng ta.
Được nghe nghĩa là được biết, biết thì phải suy nghĩ, nhờ đó mà có thể hiểu, nhưng hiểu rồi có tin hay không lại là chuyện khác. Ai hiểu và tin thì thật là khôn ngoan. Khôn ngoan là một nhân đức cần thiết trong đời sống, cả đời thường và tâm linh. Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan. (Tv 111:10) Kinh Thánh nói: “Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột, hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn và sai các nữ tỳ ra đi.” (Cn 9:2-3) Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố và kêu gọi: “Hỡi người ngây thơ, hãy lại đây!” (Cn 9:4)
Người khiêm nhường, đơn sơ như trẻ nhỏ, được Thiên Chúa yêu quý. Đức Khôn Ngoan mời gọi: “Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết.” (Cn 9:5-6) Thiên Chúa muốn “phá ngu kẻ dốt” để họ cũng được nên khôn. Chẳng ai muốn khờ dại, ai cũng muốn khôn ngoan, nhưng muốn thì phải hành động. Đó là vấn đề quan trọng, vấn đề sinh tử. Muốn thì dễ, làm thì khó, nhưng cố gắng làm được thì mới là khôn ngoan thật.
Chúng ta có sự sống nhờ Thiên Chúa. Nhưng đó mới là sự sống đời thường, sự sống sinh học. Nếu có Thiên Chúa trong mình, người ta mới thực sự có sự sống tâm linh, sự sống siêu nhiên. Thánh Vịnh gia vui mừng chia sẻ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.” (Tv 34:2-3)
Thánh Vịnh gia có Thiên Chúa và muốn mọi người cũng có Thiên Chúa như mình nên đã lên tiếng: “Kính sợ Chúa đi, đoàn dân thánh hỡi, vì ai kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi. Kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ, còn ai tìm kiếm Chúa chẳng thiếu của gì. Các con ơi, hãy đến mà nghe, ta sẽ dạy cho biết đường kính sợ Chúa.” (Tv 34:10-12) Ý tưởng tương tự cũng đã được Đức Maria bày tỏ trong bài ca Magnificat: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.” (Lc 1:52-53)
Thánh Vịnh gia vừa hỏi vừa trả lời: “Ai là người thiết tha được sống, ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc chứa chan? Phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa; hãy làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hòa.” (Tv 34:13-15) Chắc chắn ai cũng muốn vế thứ nhất, nhưng vấn đề vô cùng quan trọng là phải cố gắng thực hành vế thứ hai bằng mọi giá. Như vậy là khôn ngoan và có sự sống của Thiên Chúa.
Cũng với ý tưởng đó, Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì CHÚNG TA ĐANG SỐNG NHỮNG NGÀY ĐEN TỐI.” (Ep 5:15-16) Nhận xét của Thánh Phaolô càng đúng hơn trong thời đại ngày nay. Ngày nay người ta bất chấp mọi thứ, không chút xót thương dù là người thân máu mủ ruột rà, chỉ cần có lợi cho mình. Quả thật, “mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành.” (2 Tx 2:7)
Sống hay không sống là tùy ý mình. Sống khôn ngoan không dễ, xã hội ngày nay nhiễu nhương, sự khôn ngoan càng cần thiết hơn bao giờ hết. Về cách sống khôn ngoan, Thánh Phaolô nói: “Anh em đừng hóa ra ngu xuẩn, nhưng HÃY TÌM HIỂU ĐÂU LÀ Ý CHÚA. Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới trụy lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí. Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha.” (Ep 5:17-20)
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, Nguồn Sống của chúng con, xin giúp chúng con biết chọn những điều đẹp ý Ngài, nỗ lực và quyết tâm hành động suốt đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
************
TÍN MỘNG
Nhân Loại Thao Thiết Nhìn Lên Đức Mẹ
Tín Nhân Khát Khao Tới Cõi Thiên Đàng
Trời là khoảng không gian vô tận mà con người không thể khám phá hết. Có những “lỗ đen” không thể biết đó là gì – thế nên mới gọi là “lỗ đen.” Có những ánh sao xa trái đất hàng tỷ năm ánh sáng. Cung trăng chỉ là một “chấm nhỏ” trong vũ trụ mà con người chưa khám phá hết kia mà. Nhưng “khoảng trời” đó không là Nước Trời, Thiên Đàng hoặc Thiên Quốc – nơi có Thiên Chúa toàn năng ngự trị. Nước Trời ở ngay giữa chúng ta. (Lc 17:21)
Ngày xưa, chuyện “lên trời” là ước mơ hầu như không thể hiện thực, nhưng điều đó đã hiện thực từ khi phi thuyền Apollo 11 (Hoa Kỳ, ngày 16-24 tháng 7 năm 1969, chỉ huy là Neil Armstrong) có thể đưa con người lên cung trăng. Nhưng đó chỉ là “du lịch” mà thôi. Và đó là giấc mơ phàm trần, giấc mơ của tín nhân “cao cấp” hơn, không chỉ “lên trời” mà còn “về trời” vĩnh cư với Thiên Chúa.
Đức Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời cả xác hồn là bảo chứng cho niềm tin của chúng ta, những tín nhân miệt mài cầu nguyện: “Xin được chết lành trong tay Đức Mẹ, và xin được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng.” Vấn đề là cố gắng sống sao để được vào Thiên Đàng mai sau. Thánh Piô Năm Dấu cho biết: “Ở đâu không có vâng lời, ở đó không có nhân đức. Ở đâu không có nhân đức, ở đó không có sự thiện. Ở đâu không có sự thiện, ở đó không có yêu thương. Ở đâu không có yêu thương, ở đó không có Thiên Chúa. Ở đâu không có Thiên Chúa, ở đó không có Thiên Đàng.”
Ngày xưa, Chứng Ước của Thiên Chúa được đặt vào Hòm Bia (Xh 25:16) nên gọi là Hòm Bia Giao Ước. Chính Đức Chúa đã chọn Sion, đã thích lấy chốn đó làm nơi Ngài ngự, như Ngài đã tuyên phán: “Đây là chốn Ta nghỉ ngơi đến muôn đời, Ta sẽ ngự nơi này, vì Ta ưa thích.” (Tv 132:14) Tời Tân Ước, Đức Mẹ là Nhà Tạm đầu tiên, vì Đức Mẹ là Đấng-Mang-Thiên-Chúa (Theotókos, God-Bearer). Chúng ta cũng đã và đang được diễm phúc tương tự mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta được mang chính Đấng Cứu Thế trong lòng và hòa tan để kết hiệp mật thiết với Ngài. Thực sự chúng ta cũng diễm phúc mặc dù chúng ta chỉ là những tội nhân bất xứng.
Đức Maria là Thánh Mẫu Thiên Chúa, rất uy tín khi nguyện giúp cầu thay cho chúng ta, để chúng ta cố gắng thay đổi chứ không ỷ lại mà lợi dụng lòng thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, Thánh Denis xác định: “Đức Mẹ là nơi nương náu của những người đã hòng hư mất, là hy vọng của những người không còn hy vọng.” Đó là niềm hy vọng tuyệt vời mà chúng ta được tận hưởng.
Chính Chúa Giêsu đã hứa trước khi Ngài về trời: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14:2-4) Lời hứa đó trở thành hiện thực, vì đã có các thánh là những người được về trời.
Đã có cuộc về trời kỳ lạ trong Cựu Ước: khi ông Êlia đang nói chuyện với ông Êlisa, bỗng có “một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra, và ông Êlia lên trời trong cơn gió lốc.” (2 V 2:11) Thời Tân Ước, Dismas cả đời gian ác và cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu, nhưng nhờ sám hối chân thành mà được Chúa Giêsu tha thứ và cho về trời ngay: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 22:43) Đặc biệt là Đức Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác.
Thời Hoàng đế Constantinople đã diễn ra một cuộc lễ trong nhà thờ trên núi Cây Dầu tại Giêrusalem, truyền thống gọi là lễ “Đức Mẹ An Giấc.” Theo Lm Pohle và Lm Scheeben, mấy thế kỷ đầu không có dấu tích gì về lòng tin Đức Mẹ Maria lên trời, nhưng một cái quách (sarcophagus) đầu thế kỷ IV ở nền nhà thờ Santa Engracia tại TP Saragossa (Tây Ban Nha) có bức chạm trổ hình Đức Mẹ lên trời. Chứng tích của Thánh Epiphanô cho biết người ta tin Đức Mẹ bất tử và thân xác Mẹ vinh quang, niềm tin này đã được truyền bá sâu rộng trong một ít giáo đoàn như ở Antiokia.
Do xác tín và ca ngợi “Chức Phẩm Thiên Mẫu” và “Đức Đồng Trinh” của Mẹ là hai căn nguyên, Thánh Êpiphanô mở đường cho niềm tin và sự xác quyết của các Thánh Giáo Phụ, các Giáo Hoàng, các Giám Mục, các thần học gia và cả Giáo Hội. ĐGH Alexanđrô III nói: “Mẹ Maria thụ thai không bị xấu hổ, sinh con không bị đau đớn, từ trần không bị hư hoại trong mồ, vì theo lời Thiên thần, Mẹ đã được đầy ơn.” ĐGH Piô XII nối tiếp các vị tiền nhiệm về niềm tin đó. Trong Thông điệp “Corporis Mystici” (29-6-1943), ngài viết: “Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái tim Mẹ. Ngày nay ở trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ tỏa sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với Con của Mẹ.”
Qua Thông điệp “Deiparae Virginis” (1-5-1946) gởi các giám mục, ĐGH Piô XII cho biết rằng từ năm 1840 đến năm 1940, số đơn thỉnh nguyện xin Tòa Thánh định tín Mẹ Maria hồn xác lên trời đã đóng thành hai cuốn sách. Ngày 30-10-1950, ngài gởi thư cho Cơ Mật Viện báo rằng ngày mồng 1-11-1950 là một biến cố quan trọng và là niềm vui lớn lao cho toàn thế giới Công giáo: Công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời.
Nhờ ơn Chúa Thánh Thần soi sáng tác động và ơn Chúa trợ lực, ngày 1-11-1950, Thánh Ý Chúa thể hiện qua ĐGH Piô XII với Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng đại), đại lược thế này: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội đã nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời.”
Cuộc đời như một chuyến bay, lễ Đức Mẹ Lên Trời là dịp chúng ta nghiêm túc xét mình để chỉnh đốn phi đạo lữ hành và định hướng bay để có thể tới Phi Trường Thiên Quốc. Thật thú vị với ý tưởng của Thánh Fulgentius: “Mẹ là chiếc thang bắc lên Trời. Nhờ Mẹ mà Thiên Chúa đã từ Trời xuống thế gian, và cũng nhờ Mẹ mà loài người từ đất lên tới Trời.” Tất cả nhờ Mẹ, và nhờ Mẹ đến với Chúa. Yêu mến Đức Mẹ là điều cần thiết để được Mẹ dẫn về gặp Thánh Tử Giêsu, một trong những cách thể hiện lòng yêu mến Đức Mẹ là cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi.
Chính Chúa Giêsu đã nói với Thánh Catarina Siena: “Ta muốn ban cho Mẹ Maria đặc ân này vì lòng nhân từ của Ta, và để tôn kính Ngôi Hai nhập thể: bất cứ ai, dù tội lỗi đến đâu, mà kính cẩn tin yêu chạy đến kêu xin Mẹ Maria, sẽ không rơi vào quyền lực của quỷ dữ.” Thật vậy, Thánh Birgitta Thụy Điển cho biết: “Không tội nhân nào trên trần gian này, cho dù trong tình trạng thù nghịch với Thiên Chúa đến đâu đi nữa, mà không thể quay về với Ngài và được phục hồi ơn thánh, nếu họ chạy đến nương nhờ và xin Đức Mẹ Maria hộ phù.”
Thánh TS Têrêsa Avila khuyên: “Cho dù đang mắc tội trọng đi nữa thì cũng cứ cầu nguyện. Tôi xin bảo đảm rằng anh chị em sẽ đạt đến bến cảng phần rỗi.” Chắc chắn rằng không ai đến với Đức Mẹ mà phải ra về tay không hoặc thất vọng. Thánh Anphong Ligôri giải thích: “Khi tuyên bố rằng một đầy tớ của Mẹ Maria không thể bị mất phần rỗi, đó là nói về những đầy tớ của Mẹ đã có lòng ao ước hoán cải mà trung thành kính tôn kêu cầu Mẹ Thiên Chúa. Tôi chắc chắn những người này không thể hư mất được. Các thánh giáo phụ và các thần học gia đều đồng ý kiến về điểm này. Bởi vậy, khi ma quỷ đã làm cho tội nhân mất ơn thánh rồi nó còn làm cho họ mất lòng tôn sùng Đức Mẹ nữa.”
Chúa Giêsu đã về trời dọn chỗ cho những ai tín thác vào Ngài và yêu mến Đức Mẹ. Ngài đã đón Đức Mẹ về, rồi Ngài cũng sẽ đón chúng ta về sum họp với Ngài và với Đức Mẹ.
Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, xin cầu giúp nguyện thay cho chúng con, bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen.
TRẦM THIÊN THU