Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Phan-Xi-Cô Nhân Ngày Thế Giới Truyền Giáo Năm 2021
- T6, 06/12/2024 - 09:51
- Lm Xuân Hy Vọng
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAN-XI-CÔ
NHÂN NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO NĂM 2021
“Chúng tôi không thể không nói ra
những gì mắt đã thấy, tai đã nghe” (Cv 4, 20)
Anh chị em thân mến,
Một khi được cảm nghiệm sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa và nhận ra sự hiện diện từ phụ của Người trong đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn, chúng ta không thể không công bố, và chia sẻ điều mắt đã thấy và tai đã nghe. Mối tương quan của Đức Giê-su với các môn đệ Người và với toàn thể nhân loại, như được mặc khải cho chúng ta nơi mầu nhiệm Nhập Thể của Người, trong Tin Mừng và Mầu Nhiệm Vượt Qua, lột tả cho chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương loài người đến mức nào và Người cũng lấy làm của mình những niềm vui và nỗi khổ của chúng ta, những hy vọng và lo âu của chúng ta (x. Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 22). Mọi sự nơi Đức Ki-tô đều nhắc nhở chúng ta rằng Người thấu tỏ thế giới của chúng ta và nhu cầu cứu rỗi của thế giới ấy; vì vậy Người mời gọi chúng ta tích cực dấn thân cho sứ mạng này: “Vậy các ngươi hãy ra các nẻo đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (Mt 22, 9). Không một ai bị loại trừ, không một ai phải cảm thấy xa lạ, hay bị gạt ra ngoài tình thương yêu trắc ẩn này.
Cảm nghiệm của các Tông Đồ
Lịch sử rao giảng Tin Mừng khởi sự với ước muốn cháy bỏng của Chúa Giê-su là mời gọi và bước vào công cuộc đối thoại thân tình với hết mọi người, bất kể họ như thế nào (x. Ga 15, 12-17). Các Tông Đồ là những người đầu tiên kể lại cho chúng ta điều này; họ thậm chí còn nhớ cả ngày và thời gian được gặp Người lần đầu: “Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều” (Ga 1, 39). Được cảm nhận tình thân hữu với Chúa, được chứng kiến Người chữa lành các bệnh nhân, ngồi ăn với những người tội lỗi, cho người đói ăn, lại gần những người bị ruồng bỏ, chạm vào những người ô uế, tự đồng hoá mình với những người nghèo khó, đề xuất các mối phúc thật, và giảng dạy cách mới mẻ đầy thẩm quyền, để lại dấu ấn không thể xoá nhoà nơi họ, khơi dậy sự kinh ngạc, lan toả niềm vui cùng tâm tình biết ơn sâu xa. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a mô tả cảm nghiệm này như một ý thức nồng cháy về sự hiện diện sống động của Đức Giê-su trong tâm hồn chúng ta, thúc đẩy chúng ta thi hành sứ mạng mà không e ngại hy sinh cũng như sợ bị hiểu lầm gây ra (x. Gr 20, 7-9). Lòng mến mãi luôn tiến triển, và truyền cảm hứng cho chúng ta chia sẻ một sứ điệp kỳ diệu, chứa chan hy vọng: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga 1, 41).
Cùng với Đức Giê-su, chúng ta cũng đã nhìn thấy, đã nghe và trải nghiệm mọi việc có thể được đổi thay. Ngay cả bây giờ, Người đã khai mào thời đại tương lai, đồng thời nhắc nhớ chúng ta về một chiều kích của nhân tính con người vốn bị lãng quên, đó là: “chúng ta đã được tạo dựng để hoàn thành điều chỉ có thể tìm thấy trong tình yêu” (Thông điệp Fratelli Tutti, số 68). Tương lai làm thức tỉnh một đức tin có khả năng khơi dậy những sáng kiến mới và định hình những cộng đoàn gồm người nam lẫn người nữ, mà họ vốn cổ vũ cho tình huynh đệ và tình bạn xã hội, nhờ biết chấp nhận sự mỏng dòn của chính mình và của người khác (x. nt, số 67). Cộng đoàn Hội Thánh biểu lộ vẻ diễm lệ của mình mỗi khi hồi tưởng với cả tâm tình cảm tạ Chúa đã yêu chúng ta trước (x. 1 Ga 4, 19). “Lòng ưu ái của Thiên Chúa khiến chúng ta kinh ngạc, và tự bản chất của nó, sự ngạc nhiên không phải là cái chúng ta sở hữu hay có thể áp đặt...Chỉ bằng cách này, phép lạ của sự trao ban nhưng không, món quà tự hiến mình, mới có thể triển nở. Tương tự, nhiệt huyết truyền giáo chẳng thể nào đắc thủ nhờ vào lý lẽ hay tính toán được. Hiện hữu “trong bậc sống truyền giáo” là một phản ánh của lòng biết ơn” (Sứ điệp dành cho các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, 21/5/2020).
Mặc dù vậy, sự thể chẳng mấy dễ dàng mãi. Các Ki-tô hữu tiên khởi bắt đầu đời sống đức tin giữa muôn sự thù ghét và gian truân. Những kinh nghiệm về tình trạng bị loại trừ và giam cầm, cộng với các cuộc đấu tranh bên trong lẫn bên ngoài, có vẻ như trái ngược, thậm chí còn phủ nhận những điều mắt họ đã thấy và tai họ đã nghe. Tuy nhiên, thay vì là khó khăn hay trở ngại khiến họ lùi bước hoặc khép kín trong nội bộ, trái lại, những trải nghiệm ấy thúc đẩy họ biến các vấn nạn, mâu thuẫn và gian khó thành những cơ hội cho sứ mạng. Đầy dãy giới hạn và trở ngại trở nên dịp ưu việt, hầu thánh hoá mọi sự và hết thảy mọi người nhờ Thần Khí Chúa. Không một việc gì và chẳng một ai phải bị loại trừ khỏi sứ điệp cứu rỗi.
Chúng ta biết một chứng từ sống động cho tất cả điều này trong sách Công Vụ Tông Đồ, một cuốn sách mà các môn đệ truyền giáo luôn dễ dàng tiếp cận. Nơi đó, chúng ta đọc thấy hương thơm Tin Mừng lan toả thế nào khi được rao truyền, đồng thời đánh thức niềm hân hoan mà duy chỉ Thần Khí mới có thể ban cho. Sách Công Vụ dạy chúng ta biết chịu đựng những gian lao bằng cách bám chặt vào Đức Ki-tô, ngỏ hầu thăng tiến trong “niềm xác tín rằng Thiên Chúa có thể hành động trong mọi hoàn cảnh, ngay cả giữa những điều có vẻ thất bại” và chắc hẳn “tất cả những ai phó thác mình cho Thiên Chúa thì sẽ đơm hoa kết quả tươi tốt” (Tông huấn Evangelii Gaudium, số 279).
Như vậy, đối với chúng ta ngày nay cũng thật đúng đắn: những thời khắc chúng ta đang sống không dễ dàng chút nào. Cơn đại dịch đã cho thấy rõ ràng và nặng nề hơn những nỗi đau đớn, đơn độc, sự nghèo khổ và tình trạng bất công mà biết bao nhiêu người phải trải qua. Nó đã vạch trần cái cảm giác an toàn giả tạo của chúng ta và lột tả sự đổ vỡ và hiện trạng đa cực đang âm thầm gia tăng nơi chúng ta. Những người yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất càng cảm nhận một cách đắng lòng hơn ai hết. Chúng ta đã cảm nghiệm sự chán nản, nỗi thất vọng và mỏi mệt; tương tự, chúng ta cũng không khỏi miễn nhiễm cảm giác tiêu cực ngày càng tăng, đang bóp nghẹt niềm hy vọng. Tuy nhiên, về phần mình, “chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Ki-tô Giê-su là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giê-su” (2Cr 4, 5). Vì thế, trong các cộng đoàn và gia đình chúng ta, chúng ta có thể nghe thấy sứ điệp sự sống vang vọng mạnh mẽ trong lòng chúng ta và công bố: “Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi (Lc 24, 6)! Thông điệp hy vọng này xé toạt mọi hình thức chủ nghĩa định mệnh, cũng như đối với những ai sẵn sàng để cho thông điệp ấy chạm vào, nó mang lại tự do và sự mạnh dạn cần thiết để trỗi dậy và tìm mọi cách có thể để tỏ lộ lòng thương xót, vốn là “phụ tích” của việc Thiên Chúa gần gũi chúng ta, một sự gần gũi chẳng hề bỏ lại ai bên lề đường cả.
Trong những ngày đại dịch này, khi sự cám dỗ nguỵ trang và biện hộ cho thói thờ ơ vô cảm dưới danh nghĩa của việc giãn cách xã hội lành mạnh, thì sứ mạng nơi lòng thương xót là một nhu cầu cấp bách, ngỏ hầu sự giãn cách cần thiết ấy biến thành một cơ hội để gặp gỡ, chăm sóc và thăng tiến. “Những gì mắt chúng ta đã thấy và tai đã nghe” (Cv 4, 20), lòng lân tuất mà chúng ta cảm nghiệm, có lẽ trở thành điểm tham chiếu và nguồn mạch của sự khả tín, giúp chúng ta phục hồi niềm đam mê sẻ chia, kiến tạo “một cộng đoàn của những người thuộc về nhau và liên đới với nhau, xứng với thời gian, nghị lực và các nguồn liệu của chúng ta (Thông điệp Fratelli Tutti, số 36). Lời Chúa mỗi ngày cứu chữa chúng ta khỏi những kiểu chữa lỗi có thể nhấn chìm chúng ta rơi vào một loại học thuyết hoài nghi tệ hại nhất: “Chẳng có gì thay đổi, trước sau gì vẫn thế thôi”. Với những ai thắc mắc tại sao họ phải từ bỏ sự an toàn, tiện nghi và thú vui của mình nếu họ không thể thấy kết quả hệ trọng gì, thì chưng, lời giải đáp của chúng ta sẽ vẫn là một: “Đức Giê-su Ki-tô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiện giờ Người là Đấng toàn năng. Đức Giê-su Ki-tô đang sống thực sự” (Tông huấn Evangelii Gaudium, số 275) và muốn chúng ta sống, chứa chan tình huynh đệ, mang lấy hữu năng dưỡng nuôi, cùng chia sẻ thông điệp hy vọng này. Trong những hoàn cảnh hiện nay, nhu cầu cấp bách là phải có các nhà thừa sai của niềm hy vọng, những người được Chúa xức dầu để có thể dấn thân nhắc nhở trong vai trò ngôn sứ rằng chẳng một ai tự cứu rỗi được mình.
Giống như các Tông Đồ và Ki-tô hữu sơ khai, chúng ta cũng có thể nói với tất cả niềm xác tín: “Chúng tôi không thể không nói ra những gì mắt đã thấy, và tai đã nghe” (Cv 4, 20). Mọi sự chúng ta nhận được từ Chúa nhằm để sử dụng hữu ích và tự nguyện chia sẻ với người khác. Như các Tông Đồ đã thấy, nghe và chạm vào sức mạnh cứu rỗi của Đức Giê-su (x. 1Ga 1, 1-4), hằng ngày chúng ta cũng có thể chạm vào da thịt đau thương và vinh hiển của Đức Ki-tô. Ở đó chúng ta tìm được sự can đảm để san sẻ với mọi người một vận mệnh chung của niềm hy vọng, biết chắc rằng Chúa hằng luôn ở bên chúng ta. Là Ki-tô hữu, chúng ta không thể giữ lấy Chúa cho riêng mình: sứ mạng truyền giảng Tin Mừng của Giáo Hội được nhận biết rõ ràng viên mãn qua việc biến đổi thế giới chúng ta và chăm sóc công trình tạo dựng.
Lời mời gọi mỗi người chúng ta
Chủ đề của Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay — “Chúng tôi không thể không nói ra những gì mắt đã thấy và tai đã nghe” (Cv 4, 20) — là một lời triệu hồi mỗi người chúng ta “sở hữu” và đem đến cho người khác những gì chúng ta mang trong tim mình. Sứ mạng này đã luôn luôn là dấu chứng của Giáo Hội, vì “Giáo Hội hiện hữu là để loan báo Tin Mừng” (Thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi, số 14). Đời sống đức tin của chúng ta yếu đi, đánh mất năng quyền ngôn sứ và khả năng thức tỉnh sự trầm trồ kinh ngạc và lòng biết ơn, khi chúng ta trở nên cô lập và thu mình vào những nhóm nhỏ lẻ. Tự bản chất của nó, đời sống đức tin kêu gọi mở rộng ngày càng nhiều hơn để đón nhận mọi người, ở mọi nơi. Các Ki-tô hữu tiên khởi, thay vì chiều theo cám dỗ trở thành một nhóm tinh hoa, họ được Chúa soi sáng và bước theo Người sống một cuộc sống mới là ra đi đến với các dân tộc, làm chứng về những gì họ đã thấy và đã nghe: tin mừng rằng Nước Thiên Chúa đã ở gần. Họ đã thực thi như thế với lòng quảng đại, tri ân và cao thượng, vốn là tính cách tiêu biểu của những ai gieo giống luôn biết rằng người khác sẽ vui hưởng hoa trái từ nỗ lực và hy sinh của họ. Tôi thích nghĩ rằng “ngay cả những người yếu đuối nhất, giới hạn nhất và gặp rắc rối nhất cũng có thể là những nhà truyền giáo theo cách riêng của họ, vì sự thiện lành luôn luôn được chia sẻ, cả khi nó tồn tại với nhiều giới hạn” (Tông huấn hậu Thượng hội đồng Giám mục Thế giới Christus Vivit, số 239).
Trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo mà chúng ta mừng hằng năm vào Chúa Nhật áp chót của Tháng Mười, chúng ta nhớ lại với cả lòng biết ơn tất cả những đàn ông và phụ nữ nhờ gương chứng tá đời sống, họ giúp chúng ta sống canh tân lời cam kết khi chịu phép Thanh tẩy, hầu trở nên những tông đồ quảng đại và vui tươi của Tin Mừng. Đặc biệt, chúng ta nhớ đến tất cả những người đã kiên quyết ra đi, rời bỏ nhà cửa và gia đình mình, để đem Tin Mừng đến khắp nơi và cho mọi người đang khao khát sứ điệp cứu độ.
Khi chiêm ngắm gương chứng tá truyền giáo của họ, chúng ta được truyền cảm hứng để cũng trở nên can đảm như họ và cầu xin “chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10, 2). Chúng ta biết rằng ơn gọi truyền giáo chẳng phải là chuyện của dĩ vãng, hay điều gì đó lãng mạn còn sót lại từ thời xa xưa. Hôm nay, Đức Giê-su cũng cần những con tim có khả năng cảm nghiệm ơn gọi như một câu truyện tình thực sự thúc đẩy họ ra đi tới những vùng ngoại biên của thế giới chúng ta, với tư cách là những sứ giả và tác nhân của lòng thương xót. Chúa ngỏ lời mời này đến hết mọi người, bằng nhiều cách thức khác nhau. Chúng ta có thể nghĩ đến những vùng ngoại vi xung quanh chúng ta, trong trung tâm của các đô thị, hay trong chính gia đình của chúng ta. Tính rộng mở toàn cầu cho lòng mến mang một chiều kích hiện sinh, chứ không phải địa dư. Điều hệ trọng nhất định luôn mãi, nhưng đặc biệt trong thời kỳ đại dịch này là hằng ngày, chúng ta gia tăng khả năng mở rộng vòng quan hệ của mình, để đến với tha nhân, những ai tuy ở gần chúng ta về thể lý, nhưng không là thành phần trực tiếp thuộc “giới lợi ích” của mình” (x. Thông điệp Fratelli Tutti, số 97). Sống sứ mạng truyền giáo là sẵn sàng suy nghĩ như Đức Giê-su suy nghĩ, tin tưởng với Người rằng những người xung quanh chúng ta cũng là anh chị em của mình. Nguyện xin tình yêu lân tuất của Người chạm đến tâm hồn chúng ta và biến đổi tất cả chúng ta trở nên những môn đệ truyền giáo chân chính.
Lạy Mẹ Ma-ri-a, người môn đệ truyền giáo đầu tiên, xin gia tăng nơi mọi người tín hữu khát khao trở nên muối mặn và ánh quang trên đất nước chúng ta (x. Mt 4, 13-14).
Tại Rô-ma, Đền Thờ Thánh Gio-an La-tê-ra-nô, ngày 6 tháng 1 năm 2021, Đại lễ Chúa Hiển Linh.
PHAN-XI-CÔ
Chuyển ngữ: Lm. Xuân Hy Vọng