Thiên Chúa Ba Ngôi là Thiên Chúa quá yêu thế gian
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Phạm Văn Trung
THIÊN CHÚA BA NGÔI LÀ THIÊN CHÚA QUÁ YÊU THẾ GIAN
Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 234 viết: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa, cội nguồn phát sinh mọi mầu nhiệm khác của đức tin và là ánh sáng chiếu soi các mầu nhiệm ấy. Đây là giáo huấn căn bản nhấtvà trọng yếu nhất theo “phẩm trật các chân lý đức tin” (DCG43). “Trọn lịch sử cứu độ chỉ là lịch sử về đường lối và cácphương tiện mà Thiên Chúa chân thật và duy nhất là ChúaCha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dùng để tự mặc khải,để giao hòa và kết hợp với Ngài những ai từ bỏ tội lỗi” (DCG 47).
Trong bối cảnh hôm nay tập trung vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy hành động của Thiên Chúatỏ mình ra trong Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga 3: 16). Vì yêu thế gian, Thiên Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến thế gian để cứu độ thế gian. Qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Con, chúng ta đã được ban cho Chúa Thánh Thần. Là Ba Ngôi Vị, Thiên Chúa luôn hành động như một Thiên Chúa Tình Yêu; Thiên Chúa không lên án thế gian mà yêu thương và hành động để cứu thế gian: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ” (Ga 3:17). Đây có lẽ là câu nổi bật nhất trong tất cả Kinh thánh được Phụng vụ Hội thánh đề ra cho chúng ta suy ngẫm trong ngày Chủ nhật trọng kính Chúa Ba Ngôi, một tuần sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, khi chúng ta tiếp nối mùa phụng vụ thường niên của Hội thánh. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà câu này được Phụng vụ Hội thánh nhắc đến hôm nay, vì đây được coi như là một bản tóm tắt của toàn bộ Tin Mừng.
Đó là hành động chính yếu của Thiên Chúa Ba Ngôi dành cho nhân loại, hành động tột cùng của Thiên Chúa, không có hành động nào hơn được nữa. Trong thời Cựu ước, qua Môsê, Thiên Chúa đã ban cho dân Ngài một bộ luật. Trong thời Tân ước, bằng cách ban chính Con Một của mình, Thiên Chúa ban cho nhân loại ơn cứu độ trọn vẹn, và từ Người Con ấy Thiên Chúa đổ tràn Thánh Thần cho những ai tin vào Ngài: “Ai không có Thần Khí của Chúa Kitô, thì không thuộc về Chúa Kitô. Nhưng nếu Chúa Kitô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính. Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8: 9-1).
Hành động tối hậu này không còn nhắm đến một dân tộc cụ thể nào, như Israel trong Cựu ước, dân riêngcủa Thiên Chúa, được đề cập trong bài đọc thứ nhất: “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông. Ông Môsê vội vàng phục xuống đất thờ lạy và thưa: “Lạy Chúa, nếu quả thật con được nghĩa với Chúa, thì xin Chúa cùng đi với chúng con. Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài” (Xh 34: 6-9).Trong thời Tân ước, ơn cứu độ củaThiên Chúa nhắm đến mọi người, bất cứ ai tin vào Ngài,qua Người Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô và từ Người Con này Ngài đổ tràn Thánh Thần xuống trênnhững người ấy.
Thiên Chúa không phân biệt đối xử. Ơn cứu độ này không tùy thuộc vào tình trạng của con người.Như Môsê trong Cựu ước đã xin Thiên Chúa tha thứ lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, sự cứng đầu cứng cổ…cho dân Israel thuở xưa, thì trong Tân ước Ngôi Hai Thiên Chúa, trên thập giá đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23: 34).Qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu,ơn cứu độ được ban cho người giàu cũng như người nghèo, trẻ em cũng như người già, những người có học thức cũng như những người không có bằng cấp nào, vì: “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8: 14).Bất cứ ai, nhờ Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn mà tin vào Con Thiên Chúa thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời” (Ga 3:14).
Điều này có nghĩa đức tin là điều kiện căn bản để được cứu độ, được sống muôn đời. Điều này nằm trong tầm tay của mọi người, tùy vào con người. Điều kiện duy nhất là tin vào Thiên Chúa, qua Người Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, và thực thi những điều Ngài truyền dạy, chỉ như thế con người mới có thể tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi: “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14: 20-21).
Điều đã thách thức dân Israel khi xưa, cũng đang thách thức chúng ta ngày nay, không phải là mở lòng với Chúa Giêsu với tư cách là Đấng Mêsia theo ước mong của dân Israel, và của chúng ta hôm nay, một Đấng Cứu Thế sẽ đáp ứng mọi khát vọng chính trị trần thế của họ. Nhưng là mở lòng với Chúa Giêsu ngay cả khi Ngài bị kết án như một tên cướp: “Cùng bị đóng đinh với Ngài, có hai tên cướp, một tên bên phải, một tên bên trái” (Mt 27: 38), và chịu khổ hình thập giá như những người nô lệ thời đó, vì Ngài là biểu lộ đích thực của “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4:16). Cái chết ô nhục của Chúa Giêsu là một hành động yêu thương của Thiên Chúa, chỉ đường dẫn đến sự sống đời đời, và con đường này quan trọng đến nỗi từ chối hành động đó là từ chối chính Thiên Chúa và chọn cái chết muôn đời. Và cách duy nhất để đón nhận con đường này là đức tin, vốn hoàn toàn vô nghĩa, thậm chí điên rồ, theo quan điểm của phàm nhân: “Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Chúa Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1Cr 1: 22-23). Sự mở lòng với Chúa Giêsu trên thập giá có tác động rất lớn đến ý nghĩa của việc làm người. Hơn nữa, bước theo con đường của Chúa Giêsu không phải là tùy chọn, mà là vấn đề sinh tử. Nhưng nếu chúng ta không chấp nhận bằng đức tin thì sự thật này khiến lòng dạ chúng ta sợ hãi và khiến tâm trí chúng ta né tránh.
Tin Mừng kêu gọi chúng tacó câu trả lời riêng của mỗi người. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta kêu gọi chúng ta đáp lại trong đức tin bằng cách tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu và ơn cứu độ mà Ngài đã giành được cho chúng ta. Việc tuyên xưng và sống đức tin này trong mọi sinh hoạt hàng ngày và mọi mối tương giao xã hội của chúng ta là dấu chỉ hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta, như Thánh Phaolô kêu mời: “Ngoài ra, thưa anh em, anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em” (2Cr 13: 11).
Cụ thể hơn, mỗi khi tôi ghi dấu Thánh giá trên thân mình tôi, hay khi tôi đọc kinh Sáng danh, tôi có ý thức đầy đủ về những gì mình đang làm và đang đọc không? Tôi có biết rằng những khi ấy tôi đang tuyên xưng đức tin vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu đang lan tỏa trong trời đất muôn vật, nơi mọi người và nhất là nơi chính tôi không? Thánh Mátthêu kết thúc sách Tin mừng của mình bằng câu nói về Ba Ngôi: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Tôi có ý thức sống và công bố Tin mừng Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi cho mọi người tôi sống cùng và gặp gỡ hàng ngày không? Dù thế nào đi nữa, chúng tacần ghi nhớ lời mà Thánh Phaolô cầu chúc cho các tín hữu của ngài, cũng là cho chúng ta, để rồi đến lượt mình, chúng ta cầu chúc cho những anh chị em mà chúng ta gặp gỡ: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy trànân sủng của ChúaGiêsuKitô, đầy tình thương của Thiên Chúa và ơn hiệp thông của Thánh Thần. Amen.”(2 Cr 13: 13).
Phêrô Phạm Văn Trung.