Nhảy đến nội dung

Thư Cho Bạn Hiền V

    Thư Cho Bạn Hiền V       Bạn thân mến,       Sáng Thế Ký chương 2 câu 9, 16, 17 viết: (9) Thiên Chúa làm cho nhiều loại cây khác nhau mọc lên trong vườn, cây nào nhìn cũng đẹp mắt lại còn ăn ngon. Ở giữa vườn có cây sự sống và cây biết lành biết dữ. (16) Thiên Chúa truyền cho người nam một mệnh lệnh: “Ngươi được tự do ăn tất cả cây trái trong vườn (17) ngoại trừ cây biết lành biết dữ. Ngươi không được ăn trái cây này; ngày nào ngươi ăn trái cây này ngươi sẽ phải chết.” Và đây là mệnh lệnh duy nhất mà Ông Adong phải tuân giữ. Tại sao vậy? Tại sao Thiên Chúa lại truyền cho ông mệnh lệnh này? Sao Người không để mặc ông muốn làm gì thì làm? Có phải Thiên Chúa muốn làm khó dễ cho Ông Adong không? Xin bạn hãy cùng tôi tìm hiểu.       Bạn thân mến, khỏi nói thì bạn cũng biết là yêu thì phải có đối tượng; tức là bạn phải yêu cái gì, yêu ai, chứ không ai lại có thể yêu ‘không gì hết’ được, bạn đồng ý chứ? Vì thế mà đối tượng tình yêu là nguyên tố đầu tiên, là khởi điểm của tình yêu để chúng ta yêu. Khi có đối tượng, tình yêu tự nó đòi hỏi, hay ước mong được đáp trả. Vì có được đáp trả thì tình yêu mới nảy nở được, và như thế, sự đáp trả là nguyên tố thứ hai, nguyên tố phải có để tình yêu có thể nảy nở. Tình yêu giữa Thiên Chúa và Ông Adong cũng vậy. Vì Thiên Chúa yêu Ông Adong, nên Thiên Chúa cũng muốn ông đáp lại tình yêu của Người. Nhưng làm sao để Ông Adong có thể đáp lại tình yêu của Thiên Chúa? Thưa chỉ có một điều, một điều duy nhất mà Ông Adong có thể làm để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, đó là giữ giới răn của Chúa, một giới răn rất đơn giản: “Ngươi không được ăn trái cây này.” có vậy thôi. Khi có đối tượng tình yêu, có sự đáp trả; để cho tình yêu có thể nảy nở cách chân thật, chúng ta còn phải có tự do. Vì yêu mà không được ‘tự do yêu’ thì không phải là yêu. Tình yêu thiếu tự do là tình yêu gượng ép, không chân thật.  Ðúng ra thì tình yêu không thể bị bắt buộc. Chúng ta có thể bị bắt buộc phải chung sống với nhau như vợ chồng. Chúng ta cũng có thể bị bắt buộc phải làm nhiều điều khác, nhưng chắc chắn, chúng ta không thể yêu vì bị bắt buộc phải yêu. Cho nên tự do là nguyên tố thứ ba để cho tình yêu có thể nảy nở cách chân thật. Thiên Chúa biết như vậy, nên Người mới bảo Ông Adong “Ngươi được tự do ăn tất cả cây trái trong vườn...” Thiên Chúa cũng biết, để cho tự do đúng là tự do thì phải có sự lựa chọn, vì vậy mà bên cạnh cây sự sống còn có cây biết lành biết dữ. Cây sự sống là cây gì? Thiên Chúa là sự sống cho nên cây sự sống là những gì thuộc về Thiên Chúa. Chọn ăn trái cây này là chọn sự sống tức là chọn Thiên Chúa, chọn được thuộc về Chúa. Thế còn cây biết lành biết dữ? Bạn nghĩ coi, có hai cây, một cây là những gì thuộc về Thiên Chúa thì, tất nhiên, cây kia phải là cây ‘những gì không thuộc về Thiên Chúa’ hay là cây ‘không phải là Thiên Chúa’ có đúng không? Chọn ăn trái cây này là chọn không thuộc về Thiên Chúa tức là chọn sự chết. Thiên Chúa nói rõ ràng với Ông Adong như vậy vì Người biết là thiếu hiểu biết thì sự lựa chọn sẽ không chính xác, không đúng. Và như thế, sự hiểu biết là nguyên tố thứ tư; nguyên tố sau cùng phải có để làm cho sự chọn lựa không phải là sự chọn lựa sai lầm. Nhưng thưa bạn, có bốn  nguyên tố này không có nghĩa là tình yêu tự động phát sinh, vì mỗi nguyên tố đều độc lập. Cho nên, để cho tình yêu có thể phát sinh và nảy nở cách chân thật, không sai lầm và nên trọn thì bốn nguyên tố này phải kết hợp với nhau. Vì thế, vì Chúa yêu Ông Adong nên Chúa muốn ông đáp lại tình yêu của Người, tức Người muốn ông yêu Người; yêu trong tự do, yêu cách chân thật, yêu trong sự hiểu biết chứ không trong sai lầm. Sau cùng, cũng là quan trọng nhất, Người muốn ông kết hợp với Người để tình yêu giữa ông và Người được trọn vẹn. Nhưng làm sao để Ông Adong có thể kết hợp được với Chúa? Ông Adong phải làm gì để được kết hợp với Chúa? Thưa chỉ có một điều, một điều duy nhất mà Ông Adong có thể làm để được kết hợp với Chúa, đó là ông CHỌN ĂN TRÁI CÂY SỰ SỐNG, CHỌN ÐƯỢC THUỘC VỀ CHÚA. Ðó, bạn thấy chưa, đây mới là lý do mà Chúa muốn ông vâng lời. Ðây mới là lý do mà Chúa đặt giới răn. Người yêu ông quá độ, yêu đến muốn được kết hợp với ông; cho nên Người mới tạo môi trường để ông được và có thể kết hợp với Người. Người không có muốn làm khó dễ ông đâu! Nhưng Ông Adong đã đáp trả lại tình yêu của Chúa như thế nào?       Bạn thân mến, khi còn nhỏ, tôi nhớ có lần mẹ tôi nói về mấy anh thanh niên trong làng: “Con cái nhà ai, lớn tồng ngồng cả rồi mà chẳng biết lo lắng chuyện vợ con gì hết!” Tôi nghe thì nghe vậy chứ thực không hiểu ‘lo lắng chuyện vợ con’ là gì. Lớn lên tôi mới biết ý mẹ tôi nói là mấy anh ấy chậm trưởng thành. Lớn tồng ngồng cả rồi mà còn cứ lang thang chơi đùa vô tư,  không biết lo lắng chuyện vợ con, không biết chuyện yêu đương. Nhưng lớn tồng ngồng mà không biết lo lắng chuyện vợ con là chuyện của mấy chục năm về trước. Các cô các cậu bây giờ ai cũng phát triển sớm. Mọi điều kiện lại dễ dàng nên nhiều cô cậu mới có mười hai mười ba là đã biết hết rồi. Bạn thấy không, có mấy chục năm thôi mà sự tiến hóa của con người đã quá là khác biệt; thử hỏi nếu chúng ta có thể trở lại thời Ông Adong, thì sự khác biệt còn lớn lao đến như thế nào? Tôi đoán là trên phương diện yêu đương, Ông Adong đã phát triển rất là chậm. Chậm đến độ ông làm cho Chúa phải lo. Lo vì Chúa đã ban cho ông khả năng yêu thương; Người lại yêu ông, Người muốn được ông đáp trả tình yêu của Người, nhất là, Người rất muốn ông kết hợp với Người; Người ngồi chờ, mong ông tìm tới cây sự sống mà ăn cho no, cho thỏa để ông được kết hợp với Chúa, được sống mãi trong tình yêu vô biên của Người. Ngặt một cái là Ông Adong đã lớn tồng ngồng rồi mà chẳng thấy tỏ ra là biết yêu đương gì cả. Tối ngày đu dây với khỉ, đùa giỡn với cọp, vật lộn với gấu, chạy đua với voi…, y như Tarzan vậy! Ông không có bén mảng gì tới gần cây sự sống và cây biết lành biết dữ bao giờ. Như vậy tức là ông giữ luật chúa; tức là ông có đáp trả tình yêu của Người. Thế nhưng giai đoạn chót của một cuộc tình là sự kết hợp thì Chúa chờ mãi mà không thấy ông làm. Chúa thấy ‘cái kiểu này chắc không xong rồi’; Người bèn tạo dựng Bà Evà. Chúa tạo dựng Bà Evà vì Chúa biết người đàn ông ở một mình không tốt. Như vậy có nghĩa là Chúa tạo dựng người nữ là để làm cho cuộc đời chúng ta tốt, là để chúng ta có thể cảm nghiệm được những êm ái ngọt ngào có được trong sự kết hợp với nhau; để từ đó, chúng ta biết cùng nhau tìm đến Chúa là Ðấng Tốt Lành mà kết hợp với Người; chứ đâu phải để chúng ta cùng nhau tìm kiếm những gì trái ý Chúa. Nhưng than ôi! Từ khi có Bà Evà thì ‘đất trời đổi thay’! Vừa thấy bà Evà là Ông Adong mừng rỡ reo lên: “Ðây rồi, người này là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi...” Từ đó Ông Adong gắn bó với vợ mình. Quên mất Chúa!       Sau khi gắn bó với nhau hai ông bà làm gì? Vì là ông tổ của chúng ta nên chưa học thì ông Adong đã biết ‘Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.’ Cho nên việc đầu tiên là ông dạy cho Bà Evà biết điều răn của Chúa. Tốt quá phải không? Vâng, tốt lắm! Vì cho đến đây, chẳng những Ông Adong giữ luật chúa, ông còn biết rao truyền điều Chúa dạy. Khổ cái là Bà Evà có tánh tò mò. Phụ nữ mà! Vì tò mò nên khi nghe nói có cây sự sống và cây biết lành biết dữ thì bà không quên, hai cây này cứ luẩn quẩn trong đầu bà. Ðến một hôm, một hôm không chờ được nữa, bả mới dẫn ổng dzô rừng, kiếm!!!  Tìm!!! Ðất trời đổi thay là vì vậy!  Là vì hai ông bà đã tìm thấy và đã chọn ăn trái cây sự chết. Ðáng tiếc thay! Ðáng buồn thay! Cũng một nỗ lực, cũng trong sự kiếm tìm mà, như hai ông bà, thường là chúng ta không tìm thấy ý Chúa mà lại tìm được những gì trái với ý Người, không thuộc về Người!       Bạn có trách Ông Adong và Bà Evà không? Chắc là có! Vậy tôi xin được hỏi bạn, nếu như bây giờ cây sự sống và cây biết lành biết dữ ở ngay trước mặt bạn thì bạn chọn cây nào? Tôi nghĩ có nhiều bạn sẽ chọn cây sự sống với lý do sự sống là trên hết. Không có sự sống thì không còn gì là có ý nghĩa hết. Nhưng tôi cũng dám chắc là có bạn vì không tin vào sự sống đời sau nên sẵn sàng chọn cây biết lành biết dữ. Những bạn này lý luận rằng sống mà không ‘biết’ thì sống làm chi? Thà sống một ngày mà biết tất cả còn hơn là sống trăm năm mà không biết gì. Bạn thân mến, bạn có biết là trước mặt chúng ta thực sự có cây sự sống và cây biết lành biết dữ không? Cây sự sống chính là cây Thánh Giá. Hoa trái của cây này là Thánh Thể Chúa Giêsu. Ai chọn ăn trái cây này là chọn sự sống; là chọn thuộc về Thiên Chúa. Rất tiếc, giống như Ông Adong và Bà Evà, hầu hết chúng ta đều chọn cây biết lành biết dữ. Biết hy sinh, biết vâng lời, biết yêu thương nhau, biết chia xẻ cơm áo cho nhau, biết xử dụng của cải và phương tiện Chúa ban để đem ánh sáng Thiên Chúa đến cho muôn dân, ..., là những cái biết lành. Những cái biết lành này ai cũng biết, nhưng không mấy người ‘biết’. Còn biết gian ác, biết giết hại lẫn nhau, biết nói hành nói xấu nhau, biết thù hận, ghen tương, ganh ghét..., là những cái biết dữ. Những cái biết dữ này ai cũng biết, và có rất nhiều người ‘biết’. Thành ra chúng ta không thể trách Ông Adong và Bà Evà được vì chúng ta cũng có sự lựa chọn y như hai ông bà đã có vậy. Chúng ta cũng được hoàn toàn tự do lựa chọn. Chúng ta cũng có sự hiểu biết; biết phân biệt lành và dữ. Cho nên, ngoại trừ những người không có điều kiện, không có khả năng phán đoán, chúng ta ai cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, không ai có thể đổ cho ai được!       Trở lại sự lựa chọn của Ông Adong và Bà Evà. Có bao giờ bạn tự hỏi tại sao Ông Adong và Bà Evà lại chọn cây biết lành biết dữ không? Bạn nghĩ coi, khi hai ông bà chưa phạm tội thì chưa có sự chết. Hai ông bà chưa thấy có một người nào hay một con vật nào té lăn ra chết bao giờ. Thành ra, đối với hai ông bà, theo như mắt thấy tai nghe, thì không có sự chết. Ðã chưa thấy sự chết bao giờ, mà mình thì đang sống phây phây nên đâu cần phải ăn cây sự sống? Ăn cây biết lành biết dữ lợi hơn vì mình đang sống, lại thêm ‘biết’ nữa thì còn gì bằng. Thế là bà sanh nghi! Cho nên con rắn, cũng là con rồng, là thằng quỷ hay Satan, Khải Huyền 12:9, nó mới tung một chưởng rất là độc địa. Nó làm cho bà Evà đã nghi lại thêm ngờ. Một cách xảo quyệt nó hỏi: “Có đúng là Thiên Chúa nói với bà là bà không được ăn một trái cây nào đó ở trong vườn không?” Bạn biết là Thiên Chúa truyền cho Ông Adong không được ăn trái cây biết lành biết dữ chứ Chúa đâu có truyền cho Bà Evà, đúng không? Nhưng Bà Evà trả lời liền. “Chúng tôi được ăn bất cứ cây nào ngoại trừ một cây ở giữa vườn. Vì Thiên Chúa đã nói ngày nào chúng tôi ăn trái cây này, chúng tôi sẽ phải chết.” Bạn thấy chưa? Bà Evà biết luật chúa mà! Ðúng là Ông Adong đã ‘dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về’ không có sai chút nào. Nhưng con rắn biết là bà đang nghi ngờ, đang phân vân không biết có ‘chết’ hay không? Nó bèn giáng thêm một chưởng nữa, “Không..., không đâu, chắc chắn là bà không chết! Chúa biết rõ là ngày nào bà ăn trái cây này mắt bà sẽ mở ra, sẽ được trở nên như Thiên Chúa, và bà sẽ biết cái gì là lành, biết cái gì là dữ.” Thế là vì muốn ‘biết’, bà liền ăn trái Chúa cấm. Ăn xong bà còn đưa cho Ông Adong, và vì như đã nói ở trên là ông Adong đã quên Chúa, quên luật chúa nên ông cũng ăn. Thế là hết!!! Ông Adong và Bà Evà đã chọn ăn trái cây biết lành biết dữ! Ðã không chọn ăn trái cây sự sống. Tóm lại, Ông Adong và Bà Evà đã chọn cây biết lành biết dữ chỉ vì hai ông bà đã không tin. Không tin lời Chúa. Vì Ông Adong không tin Lời Chúa nên ông mới quên giới răn Chúa truyền. Vì Bà Evà không tin Lời Chúa nên bà mới nghe lời con rắn.          Bạn thân mến, tôi vừa chia xẻ với bạn lý do Ông Adong và Bà Evà đã phạm tội ăn trái Chúa cấm. Bây giờ xin bạn hãy cùng tôi xét xem hậu quả việc làm của hai ông bà nguy hại đến như thế nào.   Hậu quả việc làm của hai ông bà đơn giản lắm bạn ạ! Vì Chúa đã phán: “...; ngày nào ngươi ăn trái cây này ngươi sẽ phải chết.” Có vậy thôi! Ðơn giản như vậy đó! Chỉ kẹt một cái là Ông Adong và Bà Evà đã ăn trái Chúa cấm mà không ai té lăn ra chết hết. Cả hai vẫn sống nhăn răng! Thế là vấn đề không còn đơn giản nữa rồi! Sao vậy? Thưa trước hết, thật là hiển nhiên, thật là rõ ràng là Chúa không nói chết về thân xác. Vì nếu Chúa nói chết về thân xác thì nhất định hai ông bà đã lăn quay ra chết rồi. Nhưng Chúa nói chết đây là chết phần hồn. Cho nên vấn đề không còn đơn giản nữa là vì vậy. Là vì linh hồn là sự sống từ Thiên Chúa; mà sự sống từ Thiên Chúa thì không thể chết được. Vậy chết phần linh hồn là chết thế nào? Muốn biết chết phần linh hồn là chết thế nào, chúng ta phải trở lại bốn câu đầu tiên Sách Khởi Nguyên.       (1) Từ ban đầu, lúc mà Thiên Chúa tạo dựng trời và đất, (2) lúc đất đai thì hoang vu mông quạnh, mà tối tăm lại bao trùm toàn cõi âm sâu, lúc mà một luồng gió vạn năng quét trên mặt nước. (3) Lúc ấy thì Thiên Chúa phán, “Hãy có ánh sáng,” liền có ánh sáng. (4) Thiên Chúa thấy ánh sáng tốt lành là dường nào, Người liền tách rời tối tăm ra khỏi ánh sáng.   (1) In the begining, when God created the heavens and the earth, (2) the earth was a formless wasteland, and darkness covered the abyss, while a mighty wind swept over the waters. (3) Then God said, “Let there be light,” and there was light. (4) God saw how good the light was, God then separated the light from the darkness.       Bạn thấy gì trong bốn câu này? Tôi được cho thấy 4 điểm quan trọng.   Ðiểm quan trọng thứ nhất trong bốn câu này là hai chữ ‘tối tăm’ ở câu 2. Quan trọng vì Thiên Chúa là sự sáng. Sự sáng này lại đã có từ trước vô cùng; mà khi có sự sáng thì không thể có tối tăm được. Sự sáng Thiên Chúa lại là sự sáng hằng hữu chứ không phải là một ngọn đèn mà có thể tắt hay mở. Thêm vào đó, tối tăm ở câu 2 này hoàn toàn khác với sự tối mà Chúa tạo dựng trong ngày thứ tư. Chúa gọi sự tối mà Chúa tạo dựng trong này thứ tư là đêm. Đến cuối ngày thứ tư, Chúa còn chúc lành: "Mọi sự đều tốt đẹp." Như vậy có nghĩa là sự tối ở ngày thứ thư này là sự tối tốt đẹp. Ngược lại, Chúa không hề nói sự tối ở câu hai này là tốt đẹp. Trong ngày thứ nhất, Chúa chỉ thấy có ánh sáng là tốt đẹp. Vậy thì tối tăm ở câu hai này là gì? Nó ở đâu mà ra vậy? Thưa tối tăm ở câu hai này chính là Lucifer. Vì khi Lucifer nổi loạn chống lại Thiên Chúa thì, tự động, y phải tách rời ra khỏi Thiên Chúa, phải tách rời ra khỏi sự sáng; tức là y bị mất không còn ánh sáng nữa. Mà đã mất ánh sáng thì đương nhiên là phải tối tăm. Cho nên tối tăm mà Kinh Thánh nói đến ở câu thứ 2 này phải là Lucifer.       Ðiểm quan trọng thứ hai là chữ đất (earth) ngay ở câu đầu. Quan trọng vì lúc đó Chúa chưa tạo dựng trái đất. Mãi đến ngày thứ ba Chúa mới tạo dựng trái đất. Ðất ở câu 1 này lại hoàn toàn khác với đất mà Chúa tạo dựng trong ngày thứ ba. Ðất mà Chúa tạo dựng trong ngày thứ ba là đất sinh ra muôn vàn cây cỏ, đủ mọi hoa trái xinh tươi. Còn đất ở câu 1 này là đất hoang vu mông quạnh, đất nằm trong cõi âm sâu u tối. Ðất này là đất Chúa dành cho Satan, là địa ngục.       Ðiểm quan trọng thứ ba là những gì chứa đựng trong câu: “...lúc mà một luồng gió vạn năng quét trên mặt nước.”  Có thể nói những gì chứa đựng trong câu này là quan trọng nhất. Quan trọng nhất vì cả gió và nước đều tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Nhưng, tôi chắc chắn, gió ở câu 2 này không thể tượng trưng cho Chúa Thánh Thần được vì gió này là gió vạn năng (mighty wind). Nếu gió này tượng trưng cho Chúa Thánh Thần thì phải là gió toàn năng (almighty wind) chứ không vạn năng. Thành ra nước ở câu 2 này mới tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Nhưng nếu nước trong câu 2 này tượng trưng cho Chúa Thánh Thần thì ngọn gió vạn năng tượng trưng cho ai? Thưa ngọn gió vạn năng này tượng trưng cho Lucifer. Vì Lucifer được tạo dựng nên là thần khí, y lại là nhất phẩn thiên thần, thiên thần vạn năng, thiên thần sáng láng nhất, nên gió vạn năng ở đây chính là y. Y quét trên nước nói lên lòng kiêu căng cho mình là cao trọng hơn Thiên Chúa; và vì cho mình là cao trọng hơn Thiên Chúa nên y dám quét trên nước; như vậy là y đã xúc phạm đến Chúa Thánh Thần. Khốn cho y! Vì tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội không tha thứ được!       Ðiểm quan trọng sau cùng trong bốn câu này là lúc Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng. Bạn có thấy có một sự mâu thuẫn tự nội (paradox) ở đây không? Mâu thuẫn tự nội vì Thiên Chúa là ánh sáng mà lại tạo dựng ánh sáng! Nhưng thưa bạn, trong Thiên Chúa không thể có bất cứ một sự mâu thuẫn nào. Vậy Thiên Chúa phán hãy có ánh sáng ở đây nghĩa là gì? Thưa nghĩa là Chúa xua đuổi Lucifer. Khi Chúa giơ cánh tay phải của Người, cánh tay toàn năng, mà phán “Hãy có ánh sáng” thì đó là lúc Người bảo Lucifer, hỡi sự tối tăm, hãy cút ra khỏi mắt ta! Người lấy ánh sáng mà xua đuổi tối tăm. Vì thế mà Thánh Gioan viết trong Sách Khải Huyền chương 12, câu 9: Một con rồng khổng lồ, là con rắn thuở xưa cũng là thằng quỷ hay Satan, là kẻ lừa dối thiên hạ, bị đuổi ra; bị quăng xuống địa ngục cùng với bè lũ của hắn. Và cũng vì thế mà Thiên Chúa chấm dứt việc Người làm trong ngày thứ nhất bằng cách: “..., …tách rời tối tăm ra khỏi ánh sáng.” (Xin đừng tưởng ánh sáng ở câu 3 này là ánh sáng mặt trời, vì mãi đến ngày thứ tư Chúa mới tạo dựng mặt trời.) The huge dragon, the ancient serpent known as the devil or Satan, the seducer of the whole world, was driven out; he was hurled down to earth (earth là địa ngục như đã giải thích ở trên) and his minions with him.       Vậy “Từ ban đầu lúc mà Thiên Chúa tạo dựng trời và đất...” là lúc mà Chúa tạo dựng hai ‘quốc gia’. Một quốc gia là Trời, gồm muôn giải ngân hà (heavens), có ánh sáng chiếu soi để biểu lộ sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa. Biểu tượng của quốc gia này là cây sự sống. Từ lúc ban đầu này cũng là lúc Chúa tạo dựng đất, vùng đất hoang vu mông quạnh, vùng đất bị bao phủ bởi tối tăm, vùng đất chìm sâu trong cõi âm sâu u tối để làm nơi giam giữ Lucifer và bè lũ của hắn. Ðất ở câu 1 này là đất của Satan. Là quốc gia của sự chết. Biểu tượng của quốc gia này là cây biết lành biết dữ.       Như vậy, khi Ông Adong và Bà Evà chọn ăn trái cây biết lành biết dữ là ông bà đã chọn được làm công dân nước của Satan, nước của sự chết. Ðã là công dân của nước Satan thì phải sống trong luật lệ của Satan, dưới sự cai trị của Satan. Một cách ngắn gọn là ông bà thuộc về Satan. Vậy thưa bạn, chết phần linh hồn nghĩa là bị thuộc về Satan chứ không phải là lăn quay ra chết; cũng không phải là biến mất không còn gì nữa. Chính vì chết phần linh hồn nghĩa là bị thuộc về Satan nên chúng ta cần có ơn cứu chuộc. Chúng ta cần được cứu cho thoát khỏi ách Satan. Chúng ta cần được chuộc ra khỏi nước của Satan.       Bạn thân mến, hiểu được chết phần linh hồn nghĩa là gì cũng giúp chúng ta hiểu được hậu quả của sự chọn lựa mà Ông Adong và Bà Evà đã làm. Hậu quả đó, không gì khác hơn là, từ lúc phạm tội, ông bà đã thuộc về Satan; bị Satan cai trị. Chúa Giêsu biết rõ như vậy, biết chúng ta đang sống dưới sự cai trị của Satan nên Người dạy chúng ta khi cầu nguyện, hãy cầu xin cho: “..., nước Cha trị đến...” Bạn thân mến, hậu quả của sự chọn lựa mà ông bà đã làm còn ảnh hưởng đến chúng ta. Bởi do sự chọn lựa, ông bà đã trở thành công dân của quốc gia tội lỗi; thì con cháu của ông bà cũng là công dân của quốc gia tội lỗi, và cũng là những người tội lỗi. Cho nên, dù là một đứa trẻ sơ sinh vô tội; đã được sinh ra trong nước tội lỗi thì phải là người tội lỗi. Giống như con bạn sinh ra ở Mỹ thì nó là công dân Mỹ, là Người Mỹ. Ðây là sự thừa kế đương nhiên. Chúng ta gọi sự thừa kế đương nhiên này là tội tổ tông.       Tội tổ tông nghe ra có vẻ bất công. Tội ai nấy chịu mới đúng chứ, phải không bạn? Vâng, tôi đồng ý. Nhưng như tôi nói ở trên, tội tổ tông là sự thừa kế đương nhiên; mà đã là thừa kế thì phải ‘tốt nhờ xấu chịu’ đúng không? Giả sử như ông bà đã chọn cây sự sống thì chúng ta ai cũng được thừa kế Nước Trời; trong trường hợp này bạn có cự không? Nhất định là không! Vậy khi được thừa kế, chuyện ‘tốt nhờ xấu chịu’ là lẽ đương nhiên, đừng có phàn nàn! Thế nhưng Thiên Chúa là Ðấng Công Minh, Người không bắt ai phải chấp nhận điều gì bao giờ, nên nếu bạn muốn chối từ sự thừa kế đương nhiên này thì cũng rất dễ. Bạn chỉ cần chịu phép rửa tội. Một đứa bé chịu phép rửa tội là nó được sạch tội tổ tông. Lớn hơn một chút, nó cũng được tha thứ hết mọi tội riêng qua phép giải tội, và được kết hợp với Chúa qua Phép Mình Thánh. Nhưng vì còn nhỏ nên thiếu tự do, thiếu hiểu biết, vì thế sự kết hợp trọn vẹn với Chúa trong trường hợp này là một hồng ân, nghĩa là được ban cho. Dù sao đứa bé này vẫn có cơ hội tự mình lựa chọn, đó là khi nó chọn được chịu Phép Thêm Sức (Confirmation).  Một người trưởng thành chịu phép rửa thì hơi khác. Nếu người này chọn lựa trong tự do, có sự hiểu biết đầy đủ thì sự kết hợp với Chúa của người này là sự kết hợp trọn vẹn có được do sự chọn lựa. Vì thế, khi đón nhận bí tích rửa tội, cũng là phép giải tội trong trường hợp này, người trưởng thành được rước Mình Máu Thánh Chúa và chịu phép thêm sức cùng một lúc. Trong cả hai trường hợp, khi sự chọn lựa là trọn vẹn, thì lúc ấy là lúc chúng ta thực sự được kết hợp với Chúa, là lúc chúng ta thoát khỏi nước Satan để trở thành công dân Nước Trời, mang quốc tịch Nước Trời, và như vậy, tội tổ tông không có gì là bất công hết, vì bạn có thể khước từ. Nhưng nếu chúng ta không giữ giới răn của Chúa; lúc chúng ta phạm tội trọng là lúc chúng ta từ bỏ nước Chúa mà trở lại sống trong nước Satan, trở thành công dân nước Satan. Thiên Chúa biết chúng ta yếu đuối và rất dễ sa ngã, dễ phạm tội.  Nhưng vì Người là Ðấng Ðầy Xót Thương, hay tha thứ nên Người lập phép giải tội. Nhờ thế, nếu như chúng ta có, hôm nay ở nước Chúa, mai tò mò muốn sang bên kia chơi, mốt lại hối hận trở về, thì Người vẫn sẵng sàng đón nhận. Và như thế, chúng ta được có cơ hội, được có sự chọn lựa tốt hơn là cơ hội và sự chọn lựa mà Ông Adong và Bà Evà đã có. Bạn còn phàn nàn gì nữa không? Có điều, xin bạn đừng quên, là lúc thân xác bạn chết, nó chết mang quốc tịch của quốc gia nào, thì cả linh hồn và thân xác bạn thuộc về quốc gia đó. Vậy xin bạn chớ coi thường. Ðừng có tính chuyện chạy qua chạy lại cho dzui. Có ngày chạy không kịp thì khốn!       Bạn thân mến, tôi vừa chia xẻ với bạn lý do tại sao Ông Adong và Bà Evà phạm tội. Tôi cũng nói đến hậu quả của tội lỗi, của sự chọn lựa mà Ông Adong và Bà Evà đã làm. Rất tiếc, những gì mà tôi chia xẻ với bạn trong lá thư này còn nhiều thiếu sót. Thiếu sót thứ nhất là tôi chưa nói gì đến những người không có điều kiện để biết Chúa; không có điều kiện để có thể trở thành công dân nước Chúa; không có điều kiện để được trở nên con cái Thiên Chúa qua phép rửa tội. Thiếu sót thứ hai là tôi cũng chưa nói gì đến những người đã chết từ Ông Adong và Bà Evà cho đến lúc có ơn cứu độ. Tôi cũng đã nói sống trong nước của Satan, dưới sự cai trị của Satan là hậu quả đầu tiên và nguy hại nhất của sự chọn lựa mà Ông Adong và Bà Evà đã làm, nhưng tôi lại chưa nói gì về tội lỗi là hoa trái của cây biết lành biết dữ, là những gì sinh ra bởi sự chọn lựa của hai ông bà; đây là thiếu sót thứ ba. Thiếu sót thứ tư là, bạn biết, chúng ta cần được cứu cho thoát ách Satan; chúng ta cần được chuộc cho ra khỏi nước của Satan, nhưng tôi cũng chưa chia xẻ gì được với bạn về ơn cứu chuộc. Tất cả những thiếu sót này, vì thư này đã quá dài nên tôi sẽ chia xẻ với bạn trong những lá thư sau. Xin bạn tiếp tục học hỏi Kinh Thánh và nhất là tiếp tục rao truyền Lời Chúa. Cũng xin bạn cầu nguyện cho tôi, không nhiều vì tôi biết bạn bận rộn. Tôi chỉ xin bạn một kinh thôi, một Kinh Kính Mừng, nhưng xin bạn đọc ngay bây giờ. Cám ơn bạn. Xin Chúa chúc lành cho bạn và mọi người trong gia đình bạn.           Thân ái mến chào.   Giuse Phạm Văn Tuyến       Viết xong tại Charlotte ngày 3 tháng 8, 2012
Tác giả: