Tìm kiếm sự cân bằng giữa phục vụ và truyền giáo - Biến một núi rác thành một lâu đài của hy vọng
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lại Thế Lãng
Tìm kiếm sự cân bằng giữa phục vụ và truyền giáo.
Tác giả: LM James Mallon – Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra cho chúng ta một trong những tuyên bố có ý nghĩa quan trọng nhất trong những năm gần đây trong tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui Tin Mừng).
Tôi ước mơ một “chọn lựa truyền giáo”, nghĩa là một nỗ lực truyền giáo có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, các cách hành động, các giờ giấc và chương trình, ngôn ngữ và các cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là cho sự bảo tồn của Hội Thánh
Lời tuyên bố này rất có ý nghĩa vì nó nắm bắt được giấc mơ của Đức Thánh Cha Phanxicô - và những giấc mơ là điều truyền cảm hứng. Năm 1963, khi Martin Luther King Jr đứng trước Đài tưởng niệm Lincoln để nói chuyện với những người đến tham gia cuộc tuần hành ở Washington về Công ăn việc làm và Tự do, ông đã không nói rằng “Tôi có ý tưởng” hay “Tôi có kế hoạch” hoặc thậm chí là “Tôi có một danh sách công việc phải làm”. Ông ấy đã nói “Tôi có một giấc mơ!”
Bất cứ khi nào chúng ta nói về những giấc mơ, chúng ta đang nói ngôn ngữ của trực quan và trực quan là điều cần thiết. Một trực quan mạnh mẽ không chỉ truyền cảm hứng mà còn chỉ ra một hướng xác định: đây là những gì chúng ta có thể đạt được! Đây là những gì chúng ta có thể trở thành! Nó khuyến khích, khích lệ và thường khiến chúng ta cảm thấy thoải mái.
Nếu chúng ta lắng nghe kỹ giấc mơ của Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta sẽ thấy rằng nó hoàn toàn mang tính cách mạng và do đó đòi hỏi rất nhiều. Khi ngài nói về một “sự thúc đẩy truyền giáo có khả năng biến đổi mọi thứ”, ngài không chỉ nói về những lý thuyết của đời sống giáo xứ. Thay vào đó, ngài đang nói về cách chúng ta sống và cách chúng ta làm mọi việc một cách cụ thể.
Các giáo xứ của chúng ta có những phong cách và kế hoạch làm việc - và chúng ta thường không muốn bất cứ ai thay đổi những mô hình và cấu trúc quen thuộc đó. . . . Nhưng nó không quan trọng các báo cáo truyền giáo của chúng ta, các trang web và các trang truyền thông xã hội nói gì. Nếu bạn nhìn vào những gì chúng ta làm, giá trị của chúng ta là khá rõ ràng.
Cuối cùng, nếu chúng ta thực sự cam kết cải tiến, thay đổi và làm mới– trực quan nằm ở trọng tâm của những gì chúng ta làm. Trực quan khai thác niềm đam mê, nó kích thích sự lãnh đạo của một cộng đồng ở cấp giáo xứ, giáo phận hoặc Giáo hội hoàn vũ. Trực quan cho phép chúng ta đi theo một hướng mới, nó tạo ra bức tranh về một tương lai năng động. Tuy nhiên, niềm đam mê mà trực quan khơi dậy lại dựa trên một điều gì đó thậm chí còn có nèn tảng hơn – đó là hy vọng (đức cậy).
Đức cậy là một trong ba nhân đức thần học, hai nhân đức còn lại là đức tin và đức mến. Khi thiếu trông cậy, chúng ta đánh mất niềm đam mê của mình. Chúng ta trở nên hoài nghi, vỡ mộng, mệt mỏi và chán nản. Hy vọng rất quan trọng đối với đời sống Kitô giáo. Như Thánh Phaolô viết thư cho giáo đoàn ở Rôma “Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng” (Rm 15:13).
Nếu chúng ta định thúc đẩy sứ vụ truyền giáo và sự đổi mới này, chúng ta cần bắt đầu với thực tế siêu nhiên của niềm hy vọng. Niềm hy vọng của Kitô giáo bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết, nó cho phép chúng ta đứng dưới chân thánh giá vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh và khao khát Chúa Nhật Phục Sinh.
Đối mặt với cái chết và sự thất bại, niềm hy vọng của chúng ta vẫn không hề tắt, bởi vì Đấng mang lại những dòng nước từ sa mạc cũng có thể mang lại những dòng sự sống từ trong lòng chúng ta. Ngài là Thiên Chúa của hy vọng và chính nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần mà chúng ta nhận được niềm hy vọng này, niềm hy vọng mang theo khả năng của niềm đam mê và khả năng của niềm ước mơ.
Tôi không nói về sự lạc quan ở đây. Sự lạc quan có xu hướng kiểm duyệt dữ liệu được đeo trên kính màu hồng và lọc thực tế một cách có lựa chọn. Lạc quan nói rằng “Tôi sẽ chỉ nhìn vào một số phần nhất định của sự thật và bỏ qua bất kỳ điều gì mâu thuẫn với bức tranh mà tôi đang cố gắng vẽ”. Ngược lại, hy vọng có sức mạnh để nhìn vào bức tranh toàn cảnh, để nhìn vào thực tế khi nó hiện đang tồn tại, cả những thành phần tốt và xấu của nó. Đức tính hy vọng gạt bỏ sự hạn chế của sự khước từ để nhìn thẳng vào thực tế khi đối mặt, chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ làm một điều gì đó mới mẻ, mặc dù những gì Ngài có thể làm là không dễ dàng nhận ra.
Chiến đấu với sự ác hiểm của sự chủ bại.
Niềm hy vọng của Kitô giáo bắt nguồn từ thực tế về ân sủng của Thiên Chúa đã chinh phục nấm mồ, đã phá hủy quyền lực của tội lỗi và làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Giờ đây, Chúa Giêsu Phục sinh đã ban sự sống thần linh cho thế giới qua Giáo hội! Vì vậy, chúng ta có hy vọng một niềm hy vọng Kitô gáo hoàn toàn. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự chiến thắng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu bật sự thật này trong tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui Tun mừng).
Một trong những cám dỗ nghiêm trọng hơn ngăn cản sự dũng cảm và lòng nhiệt thành là chủ nghĩa chủ bại, biến chúng ta thành những kẻ bi quan hoang mang và thất vọng, “những người quạu cọ”. Không ai có thể ra trận trừ khi anh ta đã hoàn toàn tin tưởng vào chiến thắng từ trước.
Tôi biết điều này: nếu chúng ta thờ ơ, nếu chúng ta mất hy vọng và trở thành nạn nhân của một thái độ chủ bại thì tương lai thực sự là thảm khốc. Thực sự có nhiều lý do để mất hy vọng, nỗi đau mà chúng ta trải qua khi cố gắng lãnh đạo người khác là một trong những lý do phổ biến nhất. Nếu bạn đã từng liều lĩnh cố gắng hướng dẫn một điều gì đó hoặc làm điều gì đó mới mẻ, bạn sẽ biết thế nào là sự chống đối. Mọi người chống lại bạn. Hệ thống dây điện tự nhiên của chúng ta cho chúng ta biết để tránh kinh nghiệm đau đớn này.
Kiệt sức cũng có thể khiến chúng ta mất hy vọng. Chúng ta có thể bị mệt mỏi bởi những đòi hỏi của đời sống giáo xứ đến nỗi cuối cùng chúng ta bị choáng ngợp và tự hỏi liệu chúng ta có thể tạo ra sự khác biệt hay không. Tất cả những ai bước vào một loại thánh chức nào đó đều muốn kết quả. Khi chúng ta thấy công việc khó khăn và lịch trình mệt mỏi của mình mang lại kết quả thì chúng ta sẽ lui về vào cuối mỗi ngày với một kiểu mệt mỏi vui vẻ.
Tuy nhiên, đời sống giáo xứ thường trở thành một cỗ máy ngấu nghiến. Khi mọi thứ chúng ta làm đều xoay quanh cấu trúc và cơ chế duy trì đời sống của giáo xứ, khi việc duy trì trở thành trò chơi kết thúc và chúng ta (thường vô tình) hy sinh sứ mệnh, thì giáo xứ trở thành một loại ma cà rồng của giáo hội. Chúng ta cho, cho và cho và cần nhận, nhận và nhận. Loại kiệt quệ đó là tâm hồn tê liệt. Nó tạo ra sự kiệt sức và trầm cảm và nó làm chúng ta mất đi hy vọng cho tương lai.
Sự vỡ mộng là một kẻ thù khác của hy vọng. Trong cách sử dụng hiện đại, nó có nghĩa là bạn bị tước bỏ khả năng mơ ước. Nói cách khác, sự vỡ mộng trở nên bám rễ chắc chắn vào thực tế khi chúng đang trải nghiệm nó đến nỗi chúng không thể nhìn thấy ngoài thực tế đó. Không thể tưởng tượng được điều gì đó có thể khiến chúng đi theo một hướng khác, chúng mất hy vọng.
Sự hoài nghi là một kẻ thù khác của hy vọng. Chủ nghĩa hoài nghi tập trung sự chú ý vào sức mạnh của vấn đề chứ không vào khả năng có một giải pháp. Trong sự kìm kẹp của hoài nghi, bạn sẽ không bao giờ trở nên sẵn sàng phục vụ.
Đây là điều gian xảo về sự hoài nghi: nó không chỉ cố gắng làm tê liệt hy vọng trong tâm hồn bạn mà còn cố gắng phá hủy hy vọng ở khắp mọi nơi. Nó có một sứ mệnh rộng lớn. Sự hoài nghi có thể phát hiện ra sự hiện diện của hy vọng ở người khác và sẽ cố gắng bóp nghẹt hy vọng đó khi nó tìm thấy.
Kẻ thù cuối cùng của hy vọng làm nổi bật là sự hài lòng. Sự mãn nguyện nhìn vào thực tế của vị trí hiện tại của chúng ta và nói rằng “Tôi không bận tâm đến sự suy giảm và tất cả những số liệu thống kê này. . . . Tôi khá bằng lòng. . . . Tôi sẽ tiếp tục làm những gì tôi đang làm; nó không làm phiền tôi”. Thông thường, mong muốn nhìn thấy các giáo xứ trở nên sống động bắt đầu từ sự không hài lòng với tình trạng hiện tại. Thật khó để trải nghiệm sự không hài lòng đó nếu tâm hồn bạn bị khuất phục bởi sự mãn nguyện. Bằng lòng với tình trạng hiện tại của Giáo hội chúng ta cho đến nay vẫn là mối đe dọa lớn nhất đối với hy vọng cho tương lai, và nếu chúng ta không có hy vọng, chúng ta có thể sẽ không có một tương lai.
Bằng Chứng Sống.
Nếu chúng ta có thể phục vụ Giáo Hội và dân Chúa với thái độ hy vọng, nếu chúng ta tin tưởng vào những gì Thiên Chúa muốn cho thân thể của Ngài thì chúng ta sẽ bắt đầu trên con đường cải tạo có thể dẫn đến sự thay đổi thực sự và lâu dài. Như Phaolô viết “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5:5).
Tôi đã được diễm phúc chứng kiến sự đổi mới của một giáo xứ. Thực ra, tôi đã thấy sự đổi mới diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Tôi đang nghĩ đến một giáo xứ ở Brisbane, Úc; một giáo xứ bên ngoài Lisbon, Bồ Đào Nha và một giáo xứ ở Đông Luân Đôn, một trong những quận nghèo nhất của Vương quốc Anh. Tôi nghĩ về một giáo xứ ở Montreal, một thành phố được nhiều người coi là một trong những nơi thế tục nhất trên thế giới. Tôi nghĩ đến các giáo xứ trên khắp Hoa Kỳ và trên toàn cầu, các giáo xứ rất khác với giáo xứ Saint Benedict của tôi ở Halifax với những người lãnh đạo rất khác với tôi hoặc vị chính xứ hiện tại của Saint Benedict Parish, cha Simon Lobo.
Những giáo xứ này đang trải qua sự biến đổi đáng kinh ngạc. Cuộc sống được biến đổi mang lại một đội quân các môn đồ truyền giáo ngày càng tăng. Các giáo xứ này tán dương những câu chuyện về sự biến đổi; họ thấy mọi người bước vào công việc truyền giáo; những cộng đồng Kitô giáo đích thực đang hình thành, việc thờ phượng và các bí tích đang đi vào cuộc sống. Những giáo xứ này thậm chí đang chứng kiến sự gia tăng đáng kể trong việc cho đi.
Tôi đã trải qua quá trình đổi mới và bản thân tôi đã mắc rất nhiều sai lầm trên đường đi. Tôi biết rằng sự biến đổi là có thể xảy ra - không chỉ về mặt thần học, không chỉ trên lý thuyết mà còn trong những bối cảnh thực tế với những người thực tế. Nếu Thiên Chúa có thể làm điều đó với những kẻ ngốc nghếch trong một thị trấn nhỏ như Halifax, Thên Chúa có thể làm điều đó ở bất cứ đâu. Nhưng trước tiên, chúng ta cần nắm giữ giấc mơ hy vọng lớn và kêu gọi mọi người đến với một tầm nhìn có thể thúc đẩy họ.
Điều tuyệt vời về các phong trào phục vụ và truyền giáo trong đời sống Giáo hội là nếu chúng ta thực hiện đúng, chúng có thể củng cố lẫn nhau: khi chúng ta nuôi dưỡng chiên càng tốt thì càng mong muốn cộng đoàn phải ra đi truyền giáo./.
***********
Biến một núi rác thành một lâu đài của hy vọng
Tác giả: Patricia Mitchell – Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Mười năm trước, cha Jim Hewes đọc một bài báo đã thay đổi cuộc sống của cha. Đó là về việc những người nghèo ở Phi Luật Tân, vùng ngoại ô Manila sống bằng nghề bới rác trên một bãi rác thành phố cao ngang với một tòa nhà bảy tầng.
Câu chuyện về sự nghèo khó cùng cực của họ có thể đã làm thành tin tức, nhưng còn nhiều hơn nữa: Cái núi rác đã bị mưa bão làm sụp đổ và trôi đi, san bằng khoảng một trăm căn chòi lụp xụp cạnh bãi rác. Sau đó dù bị đốt cháy bởi những cái bếp lò trong các túp lều hay bởi đường dây điện bị đứt, bức tường rác cũng bùng cháy. Hàng trăm người bị chết – đàn ông, phụ nữ và trẻ em.
Cha Hewes, chính xứ của hai giáo xứ ở vùng nông thôn New York – giáo xứ St. John ở Clyde và giáo xứ St. Patrick ở Savannah – không lạ gì với cảnh nghèo đói khi cha làm việc với người nghèo ở trong thành phố. Nhưng bài báo làm cho cha choáng váng. Khi còn nhỏ cha vẫn có thể còn nhớ cái mùi hôi thối của bãi rác ở thị trấn địa phương. Cha nghĩ không có gì tồi tệ hơn là sống bên cạnh một núi rác nhưng lại bị chôn vùi bởi nó là điều khó hiểu. “Trong đời tôi chưa bao giờ nghe nói về điều kiện sống vô nhân đạo như vậy” cha nói “Chuột còn sống tốt hơn thế”
Phần đông chúng ta đọc những bài báo về sự nghèo đói và những thảm trạng trên thế giới, chúng ta có một lời cầu nguyện rồi bỏ nó ra khỏi tâm trí. Nhưng cha Hewes nói “Trong ba mươi lăm làm linh mục không có gì đã ảnh hưởng sâu sắc đến tôi như vậy. Tôi không thể bỏ qua được”.
Đó không phải là vì thiếu các mối quan tâm khác. Cha Hewes gần đây được bổ nhiệm tới hai giáo xứ ở Savannah và Clyde, và đó không phải là một di chuyển dễ dàng bởi vì nó khiến cha phải xa nơi người mẹ già của cha sinh sống. “Chúa ơi, tại sao con ở đây?” cha nhớ đã hỏi như vậy khi lái xe vào sân nhà thờ St. John lần đều tiên. Sự lo lắng của cha đã tăng lên khi thân mẫu của cha bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư lần thứ hai và người anh duy nhất của cha, người săn sóc cho thân mẫu của cha cũng bị ung thư giai đoạn cuối. Nhưng Chúa đã có một kế hoạch sâu xa hơn.
“Miền Đất hứa”. Trong khi thi hành nhiệm vụ là một chính xứ cũng như đối với gia đình, cha Hewes bắt đầu tìm hiểu tình hình ở Phi Luật Tân. Cha được biết có 140 ngàn người sống trong cộng đồng Payatas (có nghĩa trớ trêu là “miền đất hứa”). Cả gia đình kiếm sống bằng cách bới rác và bán đi những gì họ kiếm được. Dân chúng ở đây là những người chiếm đất dựng lều trên đất của chính phủ xung quanh bãi rác. Không có nước sinh hoạt – dân cư phải trả tiền để mua nước được chở đến và một số đại lý vô đạo đức đã bán nước ô nhiễm với giá cắt cổ. Bệnh tật lan tràn và ít được chăm sóc sức khỏe.
Cha Hewes đã phải mất chín tháng trời nhưng cuối cùng cha đã tìm được một tổ chức giúp đỡ cộng đồng này – Cộng đoàn Dòng Trinh Nữ Maria. Công việc của họ được hỗ trợ bởi tổ chức Từ thiện Công giáo Edmonton, Alberta, Canada.
Cha Hewes đã có một số kinh nghiệm về việc gây quỹ vì vậy cha đã phát động một chiến dịch trong giáo xứ của cha và những giáo xứ lân cận. Cha cũng nhận được một khoản trợ cấp phù hợp từ một quỹ ở Edmonton. Đây không phải là nỗ lực công nghệ cao; cha chủ yếu một mình thực hiện bằng vách viết thư và điện thư tranh thủ sự trợ giúp của càng nhiều người càng tốt. Trước sự ngạc nhiên của mình, cha đã quyên góp được 40 ngàn Mỹ kim cho Payatas.
Số tiền này được dùng để mua hai chiếc xe chở nước do Dòng Trinh Nữ Maria và tổ chức Từ thiện Công giáo điều hành. Hợp tác xã cung cấp nước sạch với giá phải chăng và đã phục vụ ít nhất 1500 gia đình ở Payatas “Không ai phải sống không có những nhu cầu căn bản như thế”, cha Hewes nói “Chắc chắn tôi đã hiểu sâu hơn về những lời của Chúa Giêsu mà với tư cách là một linh mục tôi đã công bố trong thánh lễ và rao giảng về: ‘Ta khát, các ngươi đã cho uống’” (Mt 25” 35).
Nhìn thoáng qua kế hoạch của Thiên Chúa. Câu chuyện có thể đã chấm dứt ở đó – nhưng may mắn là chưa. Mặc dầu công việc đã hoàn tất, cha Hewes không ngừng suy nghĩ về điều kiện tồi tệ ở Payatas. Cha đã sớm biết được một lý do tại sao Thiên Chúa đã chỉ định cha đến ngoại ô New York – và tại sao Chúa Thánh Thần tiếp tục đặt người dân ở Payatas trong lòng cha.
Một thành viên lớn tuổi của giáo xứ St. John bị bệnh và con gái bà, Nancy Bryan đã trở về từ California để chăm sóc bà. Nancy và và chồng, John là những nhà soạn nhạc và sản xuất tài năng. Những bài hát của Nancy thậm chí đã được đưa vào một album được đề cử giải Grammy. Khi người mẹ qua đời, cặp vợ chồng đã quyết định ở lại Clyde. Họ đã biến một trong những phòng ngủ trong ngôi nhà của bà mẹ thành một phòng thu âm.
Cha Hewes đã từng thử viết nhạc khi ở chủng viện, vì vậy cha đưa cho Nancy một cuốn băng cat-sét có một số bài hát của cha. Cha đã được đánh giá cao khi vào lễ Giáng sinh người ta đưa cho cha bản ghi âm của một bài trong số đó. “Tôi rất kinh ngạc vì họ đã có thể tạo ra bài hát này vô cùng quyến rũ!” Và điều đó đã cho cha một ý tưởng: “Chúng tôi có thể sản xuất một CD nhạc với tất cả số tiền thu được sẽ giúp đỡ cộng đồng Payatas ở Phi Luật Tân”.
Nancy và John cùng với một nghệ sĩ thâu âm địa phương khác là Glenn McClure cùng làm việc “Đó là một lao động của tình yêu” vị linh mục nói “Họ đã bỏ vào ít nhất một trăm giờ cho một trong những bài hát”. Đĩa CD có tựa đề Những bài hát cho Miền đất hứa gồm năm bài hát của cha Hewes, bốn bài của Nancy và John và hai bài của Glenn. “Đó là một khoảnh khắc ngọt ngào pha lẫn cay đắng đối với tôi” cha Hewes nói “bởi vì đĩa CD đã được hòan thành ngay trước khi anh tôi qua đời và một thời gian ngắn trước khi me tôi được chuyển vào viện dưỡng lão”.
Đĩa CD không được bán cho mục đích thương mại mà dùng để tặng cho những người quyên góp tiền cho người dân ở Payatas. Cho đến nay tổng số tiền quyên góp lên đến 150 ngàn Mỹ kim. Đĩa CD đã được gửi đến ba mươi ba tiểu bang và mười chín quốc gia. Không chỉ thành công trong việc gây quỹ, CD còn nâng cao nhận thức về hoàn cảnh của những người sống trong những hoàn cảnh đau lòng như vậy
Cha Hewes tiếp tục gây quỹ cho Payatas (dự án hiện nay là hỗ trợ những nỗ lực của Dòng Trinh Nữ Maria để cung cấp giáo dục mầm non ở đó) và cha tiếp tục thấy bàn tay của Thiên Chúa trong dự án. Một hôm cha đã được giám đốc truyền thông của giáo phận Buffalo phỏng vấn nhưng cha đã thất vọng khi biết rằng chương trình chỉ phát sóng vào lúc 6 giờ 30 sáng Chúa nhật. Mấy ngày sau một người nghe được cuộc phỏng vấn đã gửi cho cha một tấm check trị giá 13 ngàn Mỹ kim.
Đức tin dời núi. Toàn bộ trải nghiệm đã là một trải nghiêm mạnh mẽ đối với cha Hewes “Đó là một lời nhắc nhở tôi về việc ân sủng của Thiên Chúa đang hoạt động trong những cách mà tôi không bao giờ có thể tưởng tượng được”. Nó mang lại cho cha một bài học rằng chúng ta đừng bao giờ cảm thấy qúa áp lực trước một hoàn cảnh khó khăn đến nỗi chúng ta trở nên tê liệt và không làm gì. Thay vào đó chúng ta nên tin tưởng vào Thiên Chúa để Ngài làm phần của Ngài trong lúc chúng ta làm phần của chúng ta. “Chúng ta cần hợp tác với ân sủng của Thiên Chúa. Thiên Chúa nuôi dưỡng chim chóc nhưng Ngài không đem thức ăn đến tận tổ của chúng”.
Việc sản xuất đĩa CD đã khiến vị linh mục cảm kích hơn về dụ ngôn của Chúa Giêsu nói về tài năng (Mt 25: 14- 30). “Những bài hát của tôi chỉ bình thường nhưng John và Nancy đã làm cho chúng trở nên xuất sắc” cha nói “Nó khiến tôi nghĩ đến việc Thiên Chúa phải cảm thấy thế nào khi Ngài thấy chúng ta dùng một trong những tài năng Ngài đã ban cho chúng ta và biến nó thành một thứ gì đó tuyệt vời”.
Cha Hewes được sự ngưỡng mộ của người dân Payatas và những người làm việc với họ. “Họ có một đức tin mạnh mẽ như vậy”.Và cha tuyên bố rằng cha “kính sợ” Dòng Đức Trinh Nữ Maria. Những chị em này “sống ngày này qua ngày khác với những người dân trong những điều kiện không thể tin được này, nhưng bạn có thể thấy trên khuôn mặt của họ niềm vui sâu xa và niềm hy vọng đáng kinh ngạc”.
Tất nhiên những tình huống khắc nghiệt như Payatas có thể khiến chúng ta tuyệt vọng về tất cả những công việc còn phải hoàn thành. Nhưng cha Hewes đặt niềm tin vào Chúa Kitô: “Như Chúa Giêsu đã nói, với đức tin chúng ta có thể dời núi. Tôi tin rằng cùng nhau chúng ta có thể chuyển đổi núi rác này thành một lâu đài của hy vọng”. Trong khi đó cha được an ủi bởi những lời lẽ của Chúa Giêsu nói với người phụ nữ mà cử chỉ giản dị xức dầu cho Ngài như được ghi nhớ trong Kinh Thánh (Mc 14: 6, 8): “Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. . . Điều gì làm được thì cô đã làm”./.