Tin Mừng Thánh Hóa Nội Tâm Trước Lệnh Lên Đường
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lm Nguyễn Văn Thượng
TIN MỪNG HÓA NỘI TÂM TRƯỚC LỆNH LÊN ĐƯỜNG
Tình yêu hiến tặng ban mai rực nắng
Sống trọn đời trao tặng những yêu thương
Tình nhân loại tựa vườn hoa nồng đượm
Người cùng người sánh bước tới Thiên Đường…
Một hôm, đọc được câu chuyện cảm động, thấy thích hợp làm chất liệu suy tư cho ngày Khánh Nhật Truyền Giáo, xin được góp nhặt “dông dài chuyện xưa đông tây” để nói chuyện ngày nay.
Truyện rằng: Có một soạn giả nhạc kịch biết mình mang một căn bệnh nặng. Ông nhận thức rõ giờ ra đi của mình sắp đến, nhưng niềm đam mê và tâm huyết với tác phẩm đã khiến ông xem thường cái chết đang đến với mình mà rất tập trung vào soạn tác. Cơn bệnh hành hạ ông đau đớn thường xuyên vẫn không làm ông nản chí. Ông đã làm việc ngày đêm không nghỉ. Nhiều người khuyên ông hãy nghỉ ngơi vì chắc ông sẽ khó lòng hoàn tất được vở ca kịch này. Những nốt nhạc chảy ra từ niềm đam mê của ông càng lúc càng khó khăn vì bệnh tật không cho ông sáng tác tiếp được nữa. Phút cuối đời, nhận thấy mình đã đến giờ ra đi, tác giả ấy cho gọi những học trò tâm phúc và căn dặn rất cảm đông: “Nếu thầy phải ra đi không kịp hoàn tất được vở ca kịch, thầy muốn các con tiếp tục công việc để hoàn thành tác phẩm ấy cho thầy”. Nói xong, người thầy đã trút hơi thở cách bình an…
Người học trò nhiều tuổi nhất họp anh em lại, nói rõ tâm huyết của thầy, rồi ông phân công mỗi người một phần tùy theo tài năng và đam mê để hoàn tất vở ca kịch để làm vui lòng thầy và cho mạch cảm xúc không ngưng trong tác phẩm. Sau những ngày tháng vất vả, họ đã hoàn tất được vở ca kịch và trình diễn chung với nhau tác phẩm ấy với một nhạc đoàn hoàng gia.
Mọi chuyện về người thầy và các môn sinh đến tai nhà vui. Nhà cua cho vời người nhạc trưởng, một môn sinh rất được nhạc sư tài hoa kia yêu mến. Nhà vua bày tỏ lòng kính trọng đối với nhạc sư quá cố và tha thiết muốn được thưởng lãm vở nhạc kịch có một không hai của thầy trò họ. Các môn sinh đồng ý và họ chuẩn bị trình diễn nhân ngày sinh nhật đức vua, có đông đảo quần thần và quý tộc hoàng gia tham dự trong đại hý viện hoàng gia.
Khi dàn hòa tấu trình diễn tới khúc nhạc được sáng tác dang dở, những giọt nước mắt đã rơi xuống trên khuôn mặt của người môn sinh điều khiển. Ông đã ngưng dàn nhạc lại, buông cây đũa điều khiển xuống, quay ra phía khán giả nói lớn: “Nhạc sư đã viết đến đây, rồi ông qua đời”. Cả nhà hát im lặng một hồi lâu không một tiếng động. Sau đó, nhạc trưởng cầm cây đũa, quay ra khán giả, mỉm cười mà mắt đẫm lệ và nói lớn: “Nhưng các môn sinh của ông đã tiếp tục hoàn tất tác phẩm này”. Khi vở ca kịch kết thúc, cả nhà hát bùng lên những tràng pháo tay như sấm nổ vang trời. Mắt mọi người đều rơi lệ và từ đó về sau không ai có thể quên được giây phút đáng nhớ ấy. (Khuyết danh).
Toàn công trình cứu chuộc là một công trình của tình yêu, một kiệt tác do chính Thiên Chúa Cha khởi xướng trong niềm đam mê nhân loại – thụ tạo phát xuất từ chính trái tim và Thần Khí của Người. Công trình ấy, qua ơn gọi Kitô hữu, mỗi chi thể Hội Thánh của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần được khuyến khích cộng tác viết tiếp những trang tuyệt tác của tình yêu, giải thoát nhân sinh khỏi những thương tổn, vực thẳm buồn thương đã bị rơi vào do dục vọng xấu.
Trong một thế giới đầy của cải vật chất, tiện nghi tối tân mà cô đơn tận nội tâm, giữa muôn người vây quanh mà cảm thấy xa rời, lạc lỏng. Công trình nhiệm mầu của Thiên Chúa hay thương xót là lời mời gọi vào cuộc sống tràn đầy phong nhiêu, chan hòa tình yêu và niềm hy vọng.
Thế giới biết nhiều về Mẹ Têrêxa thành Kolkata, một nữ tu, đúng ra một “nhà truyền giáo” thành công của thế kỷ 20. Tại sao? Mẹ không hề được bài sai đi truyền giáo, cũng không có ý định trở thành nhà truyền giáo đích thực theo luật, nhưng đơn giản vì người phụ nữ Tây Bengal, Ấn Độ này đã thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Đây là ngọn đèn thiêng, từ lửa Phục Sinh của Đấng Cứu Thế. Ngọn đèn Mẹ Têrêxa phả ánh sáng vào một thế giới kỳ thụ khép kín, thế giới chỉ biết chạy theo vật chất, hiệu năng và danh lợi để tỏa niềm tin yêu, san sẻ, hy vọng và nhất là ánh sáng ấy ôm ấp một tình thương nhân loại bất tận được Mẹ Têrêxa xem như chính Đức Kitô nghèo khó và chịu đau khổ để Mẹ phục vụ Người trong những ngôi vị ấy. Giữa đêm tối lạnh lẽo cô đơn của một xã hội phân giai cấp, day dẳng bất công, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy toả lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em – Đó chẳng phải nội dung truyền giáo cao thượng, thiêng thánh mà dân Công giáo đang nỗ lực thực thi hay sao?
Với dáng người nhỏ bé, nhưng với ý chí sắt đá từ một nội tâm sinh động được Chúa Thánh Thần lấp đầy, Mẹ Têrêxa thành Kolkata được giao phó sứ mạng công bố tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại, đặc biệt đối với những người bần cùng nhất. Người nữ tu này khẳng định: “Thiên Chúa vẫn mãi yêu thương thế gian và Người sai chúng tôi ra đi để biểu lộ tình yêu và lòng thương cảm của Người đối với người nghèo”. Chỉ có một tâm hồn tràn đầy ánh sáng Chúa Kitô, một tâm hồn bùng cháy tình yêu đối với Ngài và bị thôi thúc bởi một mong ước duy nhất: mới có đủ sức “xoa dịu cơn khát của Chúa: khát tình yêu và khát các linh hồn”. Ai được gặp gỡ và kinh nghiệm về Thiên Chúa, Đấng hằng chờ đợi ta mở cửa tâm hồn: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta (Kh 3,20). Mới có thể nói về Ngài, mới có thể loan báo “Đấng mình đã thấy, đã nghe và chạm đến” (x.1Ga 1,1-3).
Sống Tin mừng, diễn tả Tin Mừng bằng chính đời sống và cung cách phục vụ là di ngôn chính yếu cho mỗi Kitô hữu. Chúc thư này của Đức Kitô Giêsu được truyền cho các môn đệ phải được thực hiện mãi cho đến ngày thế mạt: “Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền choanh em. Và đây Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (x. Mt 28,19-20).
Lời mời gọi của Đức Giê-su thúc đẩy dân Công giáo hãy đến với tất cả anh chị em của mình bằng cả trái tim để gặp gỡ, sẻ chia với những người cùng khổ, bất hạnh: cho họ tình thương, niềm hy vọng và sự sống vì Đức Kitô Giêsu. Truyền giáo hay Tin Mừng hóa cách đơn giản là thăm viếng những khi hiếu hỷ gia đình và các dịp khác khi có thể. “Như Chúa Giêsu bên giếng nước Gia-cóp, Giáo Hội cũng cảm thấy phải ngồi cạnh những người nam nữ thời nay, để làm cho Chúa hiện diện trong cuộc sống của họ, nhờ đó họ có thể gặp Chúa, vì chỉ mình Ngài mới là nước ban sự sống vĩnh cửu đích thực” (x. Sứ điệp THĐGMTG. Tháng 12/ 2012).
Nhìn lại lịch sử bi hùng, vinh quang và cả hoen ố trong dòng chảy miệt mài, sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội tồn tại nhiều suy tư trăn trở nhưng vẫn hăng hái tiến lên với con tim tràn đầy đam mê nhân sinh và hiện sinh. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, sứ mạng truyền giáo cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều của thời cuộc, của văn hoá, của kinh tế, của chính trị trong chính môi trường sống mà Giáo hội cắm rễ đức tin.
Dù đã được hướng dẫn bằng những nghiên cứu sâu xa của Công đồng Vatican II với các Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng Muôn dân) năm 1965, Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng) năm 1965, Sắc lệnh Ad Gentes (Ðến với Muôn dân) năm 1965, Apostolicam Actuositatem (Hoạt động Tông đồ) năm 1965, cũng như nhiều văn kiện của các Ðức Thánh Cha, đặc biệt là ÐTC Phaolô VI với Thông điệp Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng) năm 1975, và ÐTC Gioan Phaolô II với Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Ðấng Cứu Thế) năm 1990, nhất là Thông điệp Hậu Thượng Hội đồng Ecclesia in Asia (Giáo Hội tại châu Á) năm 1999, nhưng thật tình có mấy kẻ trong gần 10 triệu giáo dân Công giáo Việt nhận thức đầy đủ về ý nghĩa trọng tâm của vai trò “người đưa Tin Mừng” của mình? Ðến ngày Khánh nhật Truyền giáo mỗi năm, chỉ nghe vang vang điệp khúc “Truyền giáo là bản chất của Hội Thánh” chứ cách thể hiện bản chất ấy thành những hành động cụ thể như thế nào trong đời sống thì dễ có mấy ai?
Sứ mạng truyền giáo là sứ mạng viết tiếp những trang tình yêu mà Thầy Chí Thánh đã khởi hứng và viết bằng cả cuộc đời và bản thể mình. Ðức Kitô Giêsu là Ngôi Lời hằng hữu đã được Chúa Cha sai đến trần gian (x. Lc 4,18) để mạc khải tình yêu cứu độ của Chúa Cha để ai tin Người sẽ được sống đời đời (x. Ga 3, 16). Tin Mừng cứu độ ấy được Ðức Kitô loan báo bằng toàn thể con người mình, bằng lời nói cũng như hành động. Chính Người muốn tiếp tục loan báo Tin Mừng qua đời sống và chứng tá của người môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho muôn loài thụ tạo” (x. Mc 16,15). Chúa Thánh Thần là sức mạnh và cố vấn kỳ diệu để giúp chúng ta hoàn thành sứ mạng ấy theo đúng ý Thiên Chúa.
Truyền giáo là cách gọi khác của hành vi làm lan tỏa tình yêu, niềm hy vọng, hiệp nhất và tương quan liên vị với niềm đam mê sự sống. Tình yêu Thiên Chúa và tha nhân thúc đẩy Kitô hữu loan báo Tin Mừng cho anh em mình. Nhiệm vụ đức tin là mạnh dạn dấn thân vào con đường đối thoại với tất cả khả năng của trí tuệ, sức mạnh của con tim và niềm tin tưởng lạc quan nơi quyền năng Thiên Chúa, Đấng tác tạo và hướng dẫn muôn vật theo kế hoạch yêu thương nhiệm mầu của Ngài. Lệnh truyền của Chúa Giêsu vẫn luôn cấp bách và có giá trị cho mọi thời và cho mọi nơi. Tuy nhiên, lệnh truyền này phải được thực thi trong một hoàn cảnh cụ thể, thích nghi, tùy hợp cách hiệu quả nhất để hoàn thành lệnh truyền của Đấng Cứu Thế.
Mỗi độ tháng 10, Hội Thánh lại nhắc nhớ rằng tình yêu đối với nhân loại không chỉ là hành vi từ thiện cấp dưỡng, an sinh mà phải truyền cảm hứng về Tình yêu Thiên Chúa cho thời đại. Mỗi Kitô hữu cần chứng minh không chỉ bằng lời nói, nhưng còn với việc làm. Và cả việc tuân giữ chặt chẽ các giới răn cũng được hiểu trong nghĩa hiện sinh, làm sao để toàn cuộc sống là bản hợp xướng của tình thương, của lòng kính sợ Thiên Chúa.
Danh hiệu Kitô hữu chân chính có nghĩa là tuỳ thuộc mọi khía cạnh đời mình vào con người của Chúa Giêsu Kitô và qua Người vào Thiên Chúa Cha. Kitô hữu tràn đầy nguồn sống Kitô can đảm khiến cho giáo huấn của Chúa Giêsu sống và hoạt động không bị thời gian xóa bỏ và làm suy yếu đi nơi chính bản thân mình. Mệnh lệnh truyền giáo được tháp vào con tim Công giáo. Cách tốt nhất để “Tin Mừng hóa bản thân và môi trường sống” là nội tâm hóa Tin Mừng ấy, biến toàn bộ Tin Mừng trở nên máu thịt Kitô hữu.
Tin Mừng hóa là công việc vất vả đòi hỏi nhiều hy sinh, thiệt thòi và oan khiên. Để vững mạnh trong đời sống “Tin Mừng hóa” luôn đòi hỏi phải tìm ra gốc rễ sâu xa, và suối nguồn bất tận hoạt động của mình trong tương quan với Thiên Chúa. Biết hiệp nhất trong tình yêu với Chúa, vì không ai có thể thực thi bác ái, thực thi lòng thương xót Thiên Chúa, nếu không sống trong ân sủng bằng chính sự sống của Chúa Kitô và trong giáo huấn Hội Thánh.
Chính Chúa trao phó cho tất cả những ai đã trở nên chi thể Hội Thánh nhiệm vụ làm sáng lên những trang Tin Mừng tình yêu bằng ngọn nến Phục Sinh qua đời sống chứng nhân giữa đời thường của mình. Hãy tươi vui quảng đại tận hiến cuộc đời cho tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Đó là con đường truyền giáo hợp thời trong thiên niên kỷ thứ ba này và cho mọi người ở mọi nơi.
---
Viết tại Nhà Thờ An Đức
Ngày 16 – 10 – 2016
LM. P.X Nguyễn Văn Thượng
Gp. Mỹ Tho