Nhảy đến nội dung

Tôi đã thấy Chúa!

Chia sẻ Tin Mừng Lễ Vọng Phục Sinh 2016 (Lc 24,1-12)

 

Tôi đã thấy Chúa!

Tour de France thường được xem như là cuộc đua xe đạp khó khăn nhất thế giới mặc dù thật ra địa hình đường đua không đòi hỏi cao hơn hai cuộc đua xe đạp vòng quanh quốc gia khác: Giro d’Italia (Vòng đua nước Ý) và Vuelta a Espana  (Vòng đua Tây Ban Nha). Đúng ra chính là các tay đua đã làm cho cuộc đua khó khăn hơn: ở đây người ta đua nhanh hơn, cứng rắn hơn và không nhân nhượng nhiều hơn tất cả các cuộc đua xe đạp khác.

Cuộc đua bắt đầu từ năm 1957 bằng phần gọi là prologue (khởi đầu), phần đua cá nhân tính giờ (khoảng 5 đến 10 km). Trong 20 chặng đua tiếp theo đó, sau mỗi chặng thường có 1 đến 2 ngày nghỉ, nước Pháp  được luân phiên chạy vòng theo chiều kim đồng hồ hay ngược lại.  Sau vụ tai tiếng về chất kích thích (doping) trong năm 1998,  chiều dài tổng cộng được giảm còn vào khoảng 3.500 km. Đường đua và các địa điểm cho từng chặng thay đổi hằng năm, chỉ có đại lộ Champs Élysées ở Paris, địa điểm chấm dứt Tour de France từ năm 1975 là không thay đổi. Một số đèo qua núi cao cũng được đưa vào đường đua hầu như mỗi năm.

 

Các ngày đầu tiên của Tour de France hầu như lúc nào cũng mang dấu ấn của các chặng đường bằng phẳng miền bắc nước Pháp, thích hợp cho các cuộc so tài ở tốc độ nhanh trước khi kết quả chung cuộc được quyết định trên các vùng núi cao Pyrénées và Alpes. Ngoài ra trong Tour de France còn phải đua tính thời gian cá nhân hai lần và từ năm 2000 lại có đua tính thời gian thời gian đồng đội.

Ngay từ thời kỳ đầu, đường đua đã vượt biên giới nước Pháp trong vài chặng riêng lẻ, từ năm 1954 địa điểm xuất phát cũng được tổ chức trong các nước lân cận không theo một quy luật nhất định (cho đến nay là ở Đức, Tây Ban Nha, Ý  các nước thuộc nhóm Benelux (gồm Bỉ, Hà Lan, Luxembourg), Thuỵ Sĩ, Anh và Ireland. Kế hoạch tổ chức xuất phát Tour de France từ New York hay từ các phần đất nước Pháp ngoài Châu Âu tuy đã có từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn chưa được thực hiện, vì các vấn đề về tiếp vận quá lớn. (Wikipedia)

Cuộc đua Tour de France tranh chiếc áo vàng, cùng tiền thưởng sôi động hằng năm, có thể gợi ý cho Tín hữu Kitô nhớ đến cuộc chạy của quý bà đạo đức, hai môn đệ Phêrô và Gioan, hối hả không kém, cùng chạy ra ngôi mộ trống tìm Chúa Phục Sinh. Tuy chẳng danh lợi, nhưng phần thưởng cực kỳ cao quý. Mỗi người tham gia đều nhận được một phần thưởng riêng, tuỳ theo thành quả đạt được từ tình yêu, tâm hồn nhiệt thành và quyết tâm tích cực.

Trích đoạn Tin Mừng thánh Luca của đêm vọng Phục Sinh, không nhắc đến kết quả mỹ mãn của bà Maria Mắcđala, nhưng các thánh sử Matthêu, Marcô và Gioan đều công bố bà Mắcđala đã được gặp Đức Giêsu sống lại. Vậy bà chính là người đầu tiên được diễm phúc hạnh ngộ với Chúa Phục Sinh. Nhờ đâu bà được diễm phúc như thế?

 

Lửa mến

 

Thánh sử Luca chỉ vắn tắt kể về bà Maria Mắcđala và quý bà đạo đức đi viếng mộ. “Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn…”(Lc 24, 1-11) Ba thánh sử còn lại đều tường thuật tương tự, nhưng khá chi tiết hơn. Chính xác, thánh sử Máccô còn quả quyết khẳng định: “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mắcđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ.” (Mc 16, 9) Thánh sử Gioan còn đặc biệt dành riêng một trường đoạn tường thuật khá tỉ mỉ cuộc hạnh ngộ: ”…. Bà Maria Mắcđala đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa!” (Ga 20, 11-18)

Sau khi được Đức Giêsu giải thoát khỏi bảy quỷ ám, khỏi những tội lỗi chế ngự, bà Maria Mắcđala hân hoan đón nhận ơn gọi theo Chúa ngay từ Galilê. Hăng say, nhiệt thành, rộng rãi, bà đóng góp của cải, lẫn công sức vào hành trình rao giảng Tin Mừng Nước Trời. “Thời gian sau đó, Ngài rảo qua các thành, các làng, mà rao giảng và loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Có nhóm mười hai đi với Ngài, và ít phụ nữ đã được chữa lành khỏi quỉ dữ cùng đau yếu: Maria gọi là người Mắcđala, có bảy quỉ đã xuất ra khỏi bà và Yoanna vợ của Khuza, viên quản lý của Hêrôđê, và Susanna cùng nhiều bà khác: họ đã lấy của cải của mình mà trợ giúp Ngài.” (Lc 8, 1-3)

Trong khi các môn đệ đồng loạt trốn chạy, bỏ rơi Đức Giêsu cô đơn chịu khổ nạn, bà Maria Mắcđala và các bà đạo đức vẫn âm thầm đồng hành với Người suốt chặng đường thập giá. Cả bốn thánh sử đều ghi tỏ tường bà Măcđala và các bà đứng chứng kiến giây phút sầu thảm trên đỉnh đồi Golgotha. (Mt 27, 55-56; Mc 15, 40-41 & Lc 23, 49) Dưới chân thập giá, ngoài Đức Mẹ Maria và môn đệ Gioan, vẫn không thiếu vắng Maria Mắcđala. (Ga 19, 25)

Rồi bà Maria Mắcđala và các bà cũng tiếp tục hiện diện trong cuộc mai táng Đức Giêsu trong mồ do ông Giôxếp chủ trì tẩm liệm, với “chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương”. (Mt 17, 57-61; Mc 15, 42-47; Lc 23, 50-55). “Cùng đi với ông Giôxếp có những người phụ nữ đã theo Đức Giêsu từ Galilê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày Sabát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền.” (Lc 23, 55-56)

Chỉ có thể lý giải vì lửa mến hừng hực, nồng nàn, mãnh liệt, bà Maria Mắcđala mới có thể trung thành, kiên trì theo Chúa từ Galilê đến tận đỉnh Golgotha. Chẳng lo ngại tính mạng, chẳng sợ bạo lực quân dữ, lẫn cơn say máu của giới lãnh đạo tôn giáo và quần chúng điên cuồng, bà Maria Mắcđala và quý bà đấm ngực, đau đớn, khóc lóc than thở, đều can đảm đồng hành với Chúa chịu khổ hình, đến tận Núi Sọ. “Ði theo Ngài, có đám dân đông đảo cùng phụ nữ: các bà này đấm ngực và khóc than Ngài.”  (Lc 23, 27)  

Tình yêu còn thêm đậm đà ngát hương từ bình dầu thơm, mang ra mộ vào sáng sớm tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần. Thánh Luca có lẽ muốn diễn tả lửa mến rất nồng thắm, thuần khiết, tinh tuyền và bền vững của bà Maria Mắcđala dành cho Đức Giêsu.

Niềm tin

"Làm sao các ngươi đi tìm Ðấng sống giữa những người chết? Ngài không có đây, nhưng đã sống lại. Các ngươi hãy nhớ lại Ngài đã nói làm sao với các ngươi, khi còn ở Galilê, rằng: "Con người phải bị nộp trong tay những người tội lỗi, bị đóng đinh thập giá, và sống lại ngày thứ ba." Lời thiên sứ phán dạy, mặc khải trực tiếp mầu nhiệm Phục Sinh cho bà Maria Mắcđala và những người đi cùng.

Đồng thời thiên sứ trao cho họ trách nhiệm làm chứng nhân cho Chúa Phục Sinh. Nhờ tình yêu Chúa dẫn dắt, họ sớm được vinh dự đón nhận hồng ân tin cậy vào Lời Chúa. “Và họ đã nhớ lại các lời của Ngài.” Vội vàng trở về, Bà Maria Mắcđala đã thành chứng nhân, Tông đồ cho các Tông đồ (Apostola Apostolorum). “Ði thăm mộ về, họ đã nói lại hết các điều đó cho nhóm Mười một, và các kẻ khác hết thảy, Ðó là các bà Maria người Mắcđala, Gioanna, và Maria mẹ của Giacôbê. Và các bà khác làm một với họ, đều nói các điều đó với các tông đồ. Nhưng trước mắt các tông đồ, các lời nói ấy có vẻ là lời nói sảng, và họ không tin các bà.”(Lc 24, 9-11)

Tiếc thay, các đấng còn nặng nề thành kiến, kỳ thị, phân biệt giới tính, không hề tin họ. Bất ngờ cuộc đua marathon xảy ra tự phát giữa các ông Phêrô, Gioan và bà Maria Mắcđala.”Nhưng Phêrô chỗi dậy chạy đến mồ. Cúi mình nhìn vào, ông thấy chỉ có những dải vải mà thôi. Và ông lui về nhà, kinh ngạc về sự đã xảy ra.” (Lc 24, 12)

Hạnh ngộ

Chung cuộc, chỉ có ông Gioan“đã thấy và đã tin.” (Ga 20, 8) Còn ông Phêrô vốn thủ lãnh, thì chỉ dám dè dặt ghi nhận sự kiện nóng bỏng ngôi mộ trống, cùng băng vải và khăn che đầu đã cẩn thận sắp xếp lại.“Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.” (Ga 20, 10)

Chỉ còn lại kiên trì một mình bà Maria Mắcđala, nước mắt giọt vắn giọt dài, vừa thống hối tội lỗi mình, vừa thương nhớ Đức Giêsu, lẫn hy vọng trông cậy.“Bà Maria Mắcđala đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ.” (Ga 20, 11) Bà lại thấy hai thiên thần mặc áo trắng xoá. “Thiên thần hỏi bà: "Này bà, sao bà khóc?" Bà thưa: "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu. Nói xong, bà quay lại và thấy Ðức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Ðức Giêsu. Ðức Giêsu nói với bà: "Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?" Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: "Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” (Ga 20, 13-15)

Trước lửa mến nồng nàn, tuyệt đỉnh yêu thương, Đức Giêsu không thể nào nhẫn tâm làm ngơ, chẳng nỡ từ chối lòng khao khát cháy bỏng. Bà Maria Mắcđala liền được diễm phúc hạnh ngộ, được Người thương yêu đáp lại, gọi đích danh.“Ðức Giêsu gọi bà:"Maria!"Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: "Rápbuni!"nghĩa là “Lạy Thầy,” Ðức Giêsu bảo: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: 'Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.” (Ga 20, 16-17)

Tình yêu dẫn đến niềm tin, rồi niềm tin dẫn đến cậy trông, hy vọng và tình yêu đáp lại. Bà Maria Mắcđala đã chân thành yêu Chúa, hoàn toàn tin Lời Chúa và đã hạnh phúc gặp được Chúa Phục Sinh. Bà đã nghe, đã sống trọn vẹn Tin Mừng: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.” (Lc 11, 9-10)

“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng Chúa phải chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241) 

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh hằng sống, Chúa đang hiện diện bên con, đang ẩn giấu trong anh chị em tha nhân. Xin Chúa mở mắt, mở tai, mở tâm hồn chúng con, để chúng con hạnh phúc như bà Maria Mắcđala, được gặp Chúa, nhìn thấy Chúa, cũng như lắng nghe được tiếng Chúa luôn mời gọi chúng con mãi đi theo Chúa.

Lạy Mẹ Maria, suốt đời Mẹ đồng hành cùng Chúa, nhất là trong mầu nhiệm thương khó và Phục Sinh. Xin Mẹ san sẻ, thương ban cho chúng con tình yêu Mẹ dành cho Con Mẹ, để tâm hồn chúng con bùng lên, nóng hổi lửa mến, niềm tin, đức cậy, để luôn được hạnh ngộ cùng Chúa Giêsu Phục Sinh. Amen.

AM. Trần Bình An

Tác giả: