Nhảy đến nội dung

Tranh danh đoạt lợi

 

TRANH DANH ĐOẠT LỢI                       

(CN. XXIX/TN - CN TRUYỀN GIÁO)

Ngồi buồn, mở tập cổ thi “Bach Vân Am Thi Tập” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) ra đọc, bắt gặp bài “Khuyến tu” (khuyên tu sửa bản thân). Bài thơ chữ Hán này (làm theo thể thất ngôn bát cú) rất hay, khuyên người ta nên tu tâm dưỡng tính hơn là sa vòng tục lụy, tranh danh đoạt lợi, tranh bá đồ vương. Bài thơ mở đầu bằng 2 câu: “Đoạt lợi tranh danh mãn thế gian, Bất như tích nội đạo nhân nhàn.” (Đoạt lợi tranh danh khắp thế gian, Chi bằng tích đạo sống an nhàn). Với chủ trương “thoát vòng danh lợi – vui thú điền viên”, Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ “Nhàn” đã tự nhận mình là “dại”, mặc cho những kẻ “khôn” mưu tính danh lợi, vàng son… bằng mọi giá (“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn lao xao.” Bài thơ kết thúc bằng một câu vượt trên nhân tình thế thái: “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao” (*1).

Trong cái xã hội nhiễu nhương, kiếm được một người “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”, mặc cho thiên hạ tranh danh đoạt lợi, quả thật rất khó! Bởi chỉ thấy toàn những cảnh tự cho mình là người khôn dùng đủ mưu gian chước lạ để chễm chệ ngồi trên nhung lụa vàng son, hoặc “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” (Mt 23, 2-3). Đó phải chăng là những kẻ “nhìn đời bằng nửa con mắt”, chỉ “ưa dạo quanh, súng sính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ." (Mc 12, 38-40). Rồi cũng từ cái vòng kim cô “Người khôn, người đến chốn lao xao” ấy phát sinh bao cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt, gà nhà bôi mặt đá nhau.

Không phải ngẫu nhiên mà ca dao Việt Nam có câu: "Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau", ngụ ý khuyên răn anh em trong nhà có cùng một huyết thống, cùng một cha mẹ sinh ra, phải thương yêu đùm bọc nhau, đừng nên tranh giành hơn kém rồi sinh ra cảnh "nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn". Lời khuyên răn ấy không chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình, mà còn mở rộng ra cả nước. Sự tích bà Âu Cơ đẻ 100 trứng nở ra 100 con, cho thấy quan điểm toàn thể dân tộc Việt Nam đều chung một gốc là "con Rồng, cháu Tiên" cả. Vì thế, nên phải biết "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng". Tuy vậy nhưng vẫn xảy ra không ít cảnh “huynh đệ tương tàn”, “gà nhà bôi mặt đá nhau” (tiếm ngôi, cướp ngôi nhau, triều này hạ bệ triều kia, loạn 12 sứ quân, Trịnh Nguyễn phân tranh, cõng rắn cắn gà nhà v.v… và v.v…).

Xã hội loài người không chỉ có cảnh anh em tàn sát lẫn nhau, mà còn hơn thế nữa, xảy ra cảnh “phụ tử tương tàn” nữa kia. Ngay từ thời Cựu Ước đã có chuyện "tranh bá đồ vương" giữa cha con với nhau xảy ra ngay trong hoàng cung một triều đại danh tiếng: Đó là vua Đa-vít và hoàng tử Ap-sa-lôm. Trong những người con của vua Đa-vit, thì Ap-sa-lôm là một người đẹp trai, tài giỏi, được vua cha yêu mến, nhưng chính Ap-sa-lôm đã muốn tranh giành địa vị của cha, rồi tự phong mình làm vua ở Khép-rôn. Cuộc khởi loạn này đã làm cho vua Đa-vít và cả triều đình phải chạy trốn khỏi thành Giê-ru-sa-lem, và Ap-sa-lôm đã tiến chiếm kinh thành; nhưng sau này đã bị đại tướng của vua Đa-vit là Giô-áp đánh bại và bị giết chết tại khu rừng gần Ep-ra-im. Cuộc chiến tranh "phụ tử tương tàn" này đã khiến cho 20 ngàn quân lính bị thiệt mạng! (xc. 2Sm, từ Ch. 15 tới Ch. 18). Quả thực từ cái tham vọng của người này nảy sinh ra cái ghen tức của người khác đã làm cho loài người xung đột, gây hấn với nhau, để rồi thì khủng bố, chiến tranh bùng nổ khắp mọi nơi.

Ôi chao! Tham vọng "tranh danh đoạt lợi, tranh bá đồ vương" vẫn là vấn đề muôn thủa của con người. Và cái "miếng đỉnh chung", cái "miếng giữa làng hơn sàng xó bếp" luôn luôn và mãi mãi là cái hấp lực khó lòng từ chối, dứt bỏ. Ngay đến các Tông đồ ở cận kề với Người Thầy luôn dạy dỗ môn đệ phải sống bác ái và khiêm nhường, vậy mà cũng có hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an muốn được "một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang." (Mc 10, 37). Tin tưởng khi Thầy mình được vinh quang sẽ làm Vua, mà lại xin được ngồi bên tả và bên hữu Người, thì chẳng phải đó là muốn được ngồi "cỗ nhất", được hưởng “miếng đinh chung” bảnh nhất là ”Tả hữu Thừa tướng” đó sao? Không phải chỉ có 2 môn đệ này thôi đâu, mà các môn đệ khác cũng tỏ ra tức tối ("Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an." – Mc 10, 41). Tức tối tức là ghen tị, là mong muốn mình phải được coi trọng hơn, và "chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh" xảy ra cũng là điều tất nhiên ("Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau." – Gc 4, 1-3).

Đức Giê-su quá hiểu tâm lý của con người ai cũng muốn mình có địa vị và được kính nể hơn người khác, ai cũng muốn làm ông chủ để được kẻ hầu người hạ và nếu có ai đó được hơn mình thì ngay lập tức ganh tị, thù hằn nhau. Vì thế, khi thấy Gio-an và Gia-cô-bê xin được ngồi “cỗ nhất”, Người phải nói thẳng: "Các anh không biết các anh xin gì!", rồi đặt câu hỏi: "Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" (Mc 10, 38). Cứ tưởng chén của Đức Giê-su sắp uống là chén rượu mừng vinh thăng và phép rửa Người sắp chịu cũng kiểu như phép rửa mà thánh Gio-an Tẩy Giả thực hiện trên sông Gio-đan, nên 2 Tông đồ mau mắn trả lời: "Thưa được". Thực ra, ở vào trường hợp đó, ít ai có thể ngờ được Đức Giê-su nói chén Người sắp uống là chén đắng, là chén "ĐỨC CHÚA đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội, Người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ Người, ý muốn của ĐỨC CHÚA sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, Người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, Người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ." (Is 53, 10-11).

Đó cũng là chén "Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại." (Mc 10, 33-34). Và là chén mà Tông đồ Phê-rô cầu xin Chúa Cha cho Thầy khỏi phải uống để rồi được Thầy gọi là “Xatan!” (Mc 8, 31-33). Ngay cả đến chính người Thầy đã nói về chén đắng ấy, với bản tình loài người cũng kinh sợ mà thốt lên cùng Chúa Cha: "Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con.” Tuy nhiên, ngay lập tức, bản tính Thiên Chúa đã trỗi dậy, và Người nói tiếp: “Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn." (Mc 14, 36). Thật không thể ngờ chén đắng ấy lại cũng chính là phép rửa thanh tẩy tội lỗi loài người để được sống lại từ cõi chết như Người đã sống lại.

Chỉ đến khi biến cố Thương Khó và Phục Sinh xảy ra, mọi người mới hiểu được hết ý nghĩa sâu xa Lời Thầy Chí Thánh nói về Chén Đắng và Phép Rửa mà Người phải chịu để đền vì tội lỗi nhân loại. Trước đây, vì chưa hiểu được ý nghĩa thâm thúy của Lời Chúa, nên các Tông đồ mới mạnh miệng nói là mình uống được chén mà Thầy sắp uông, nhưng tới lúc Thầy bắt đầu uống thì "Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26,56). Chỉ đến khi các môn đệ được chịu phép rửa "trong Thánh Thần và lửa" (Mt 3, 11) trong ngày Lễ Ngũ Tuần, thì các ngài mới thật sự dũng cảm uống chén đắng ấy, và hiên ngang chịu phép rửa như Thầy mình đã tiên liệu: "Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu." (Mc, 10, 39). Chính nhờ vậy mà Giáo hội và nói chung là toàn thể nhân loại được vui hưởng vinh quang Phục Sinh cho đến muôn ngàn đời.

Trải dài theo lịch sử Giáo hội, biết bao nhiêu thế hệ, biết bao nhiêu Ki-tô hữu đã uống chén đắng ấy. Chỉ riêng Giáo hội Việt Nam trong quá trình 5 thế kỷ truyền giáo, đã có tới 130.000 Ki-tô hữu anh dũng uống chén đắng. Chén đắng trong quá khứ do những thế lực thù địch hữu hình đưa tới cho sứ vụ truyền giáo, nó lại càng đắng hơn trong hiện tại và tương lai, vì thế lực thù địch ngày nay đã trở nên vô hình vô ảnh. Cũng vẫn những mũi giáo, lưỡi gươm, viên đạn xuyên phá khủng khiếp ấy, nhưng ngày nay tất cả chúng đều được bọc đường, một lớp đường hào nhoáng ngọt lịm. Chỉ đến khi chúng lọt vào thân thể và công phá mãnh liệt, lúc đó mới “à” lên một tiếng muộn màng. Cho nên, công cuộc truyền giáo hiện nay đòi hỏi người Ki-tô hữu phải tỉnh thức và có một động lực dấn thân, đó chính là: “Động lực của việc dấn thân loan báo Tin Mừng của họ là do xác tín rằng những người Ki-tô hữu không được run sợ trước thế gian, mà đúng hơn phải mạnh dạn chia sẻ kho tàng chân lý đã được giao phó cho mình. Cũng vậy, người Ki-tô hữu ngày nay, đang khi cởi mở với các thực tại hiện thời và tán đồng tất cả những gì tốt lành trong xã hội, phải có can đảm mời gọi mọi người nam và nữ hoán cải tận căn, cuộc hoán cải gắn liền với việc gặp gỡ Đức Ki-tô và khởi đầu một cuộc sống mới trong ân sủng. (Diễn văn của ĐTC Bê-nê-đic-tô XVI trong “Cuộc gặp gỡ đại kết” tại Tòa TGM Praha - CH Séc - ngày 27/9/2009).

Ấy cũng bởi vì: “Hôm nay, sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội đang phải đối mặt với những thách thức trong việc đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi dân tộc là trở lại với cội nguồn của họ và bảo vệ các giá trị của nền văn hóa. Điều này có nghĩa là chúng ta cần hiểu biết và tôn trọng các truyền thống và các hệ triết học khác, và nhận ra rằng tất cả các dân tộc và các nền văn hóa có quyền được giúp đỡ từ bên trong truyền thống riêng của họ để bước vào mầu nhiệm sự khôn ngoan của Thiên Chúa và đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng và là sức mạnh biến đổi cho tất cả các nền văn hóa.” (Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền Giáo - 2015). Vì thế, mọi Ki-tô hữu cần – rất cần – nhìn lại quá khứ, nhìn lại mình để “không được run sợ trước thế gian, mà đúng hơn phải mạnh dạn chia sẻ kho tàng chân lý đã được giao phó cho mình.” (Diễn văn của ĐTC Bê-nê-đic-tô XVI –nt– ). Nhìn lại mình để tôi luyện đức tin, trui rèn ý chí, không chùn bước trước mọi thử thách, sẵn sàng “tham gia vào sứ mạng của Chúa Ki-tô”.

Mong rằng mọi Ki-tô hữu sẵn sàng đón nhận lời dạy của ĐTC Phan-xi-cô: “Một nhà truyền giáo đích thực phải say mê Tin Mừng. Thánh Phaolô đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9, 16). Tin Mừng là nguồn mạch của niềm vui, sự giải thoát và ơn cứu độ cho tất cả mọi người nam nữ. Giáo Hội nhận thức ân sủng này, và vì thế Giáo Hội không ngừng loan báo cho mọi người về “điều đã có ngay từ đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt” (1Ga 1, 1). Sứ vụ của những tôi tớ của Lời - tức là các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân – là làm cho mọi người không trừ một ai được đi vào một mối liên hệ cá vị với Chúa Ki-tô. Trong toàn bộ các hoạt động truyền giáo đa dạng của Giáo Hội, tất cả các tín hữu đều được mời gọi sống cam kết khi chịu phép rửa đến mức viên mãn nhất, theo hoàn cảnh cá nhân mỗi người. Một lời đáp trả quảng đại cho ơn gọi phổ quát này có thể được đưa ra bởi những người nam nữ sống đời thánh hiến qua một đời sống cầu nguyện mãnh liệt và hiệp nhất với Chúa và hy tế cứu độ của Ngài.” (Sứ điệp Truyền Giáo 2015).

Ôi! Lạy Chúa! Cánh đồng truyền giáo hiện nay trên thế giới cũng như tại quê hương chúng con quả là lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít (Mt 9, 37). Cúi xin Chúa ban Thần Khí cho chúng con, để chúng con đủ can đảm bước ra khỏi “cái tôi vị kỷ”, “cái tôi chỉ ham tranh danh đoạt lợi”, để chúng con có đủ dũng khí đối diện với mọi thử thách, luôn sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, ngõ hầu trở nên những “thợ gặt” đúng như lòng Chúa mong đợi  Ôi! “Lạy Chúa! Xưa Chúa đã phán: Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt. Chúa hãy ban nhiều thợ biết nhiệt thành để Nước Chúa rộng lan khắp nơi. Xin Chúa ban cho đoàn chúng con nên Tông đồ thiện toàn mở Nước Chúa Trời” (Hoài Chiên - “Lời Nguyện Truyền Giáo” – TCCĐ). Amen.

JM. Lam Thy ĐVD.

-------------------------------

Chú thích: (*1) – Nguyên văn bài thơ “NHÀN” của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dù ai vui thú nào.

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”

Tác giả: