Nhảy đến nội dung

Trông người xưa mà ngắm ta hôm nay - Ngài không làm phép lạ nơi quê hương ! - Sống với thái độ mới

TRÔNG NGƯỜI XƯA MÀ NGẪM TA HÔM NAY

Ngạn ngữ Hy Lạp có câu: ‘Triết gia khó sống tại quê hương’ (x. Dione Cristostomo, Epitteto), lẽ nào cùng nghĩa với câu tục ngữ Do Thái giáo mà Chúa Giê-su trích dẫn trong bài Tin Mừng theo Thánh Mác-cô hôm nay: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6, 4)? Nhưng ở đây Thánh sử Mác-cô mở rộng câu ngạn ngữ, áp dụng cho cả gia đình dòng họ như thể nối dài chiều hướng của sự kiện được kể ở Mc 3, 20-21: “Ngài trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Ngài và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Ngài hay tin ấy, liền đi bắt Ngài, vì họ nói rằng Ngài đã mất trí”.

Thật vậy, dân làng Na-da-rét lẽ ra phải vui mừng hoan hỷ đón chào Đức Giê-su trở về quê hương mới phải chứ, và đây cũng là dịp Ngài giảng dạy, làm phép lạ chữa lành cho dân chúng như Ngài đã từng thực hiện tại các nơi khác! Chẳng lẽ vì đầu óc định kiến, hẹp hòi của dân làng Na-da-rét đã bó buộc họ trong tư tưởng mà khiến họ chỉ nhìn vào lai lịch của Đức Giê-su: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-sép, Giu-đa và Si-mon sao? Chị e của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mc 6, 3), hoặc ‘quen quá hoá nhàm’, hay ‘bụt nhà không thiêng’?

Chuyện kể rằng: Thánh An-tôn ẩn sĩ (251-356) sinh tại Cos-ma, Ai-cập. Người khởi xướng đời sống ẩn tu trong Giáo hội. Một hôm sau khi nói về Bài Giảng Trên Núi, các giáo dân bèn tới hỏi ngài: ‘Thưa cha, chúng con phải làm gì để nên trọn lành?’ Thánh nhân đáp lời: ‘Tin Mừng đã dạy: “Ai tát má phải ngươi, hãy giơ cả má trái cho nó”’. Họ liền phản kháng: ‘Chuyện này khó quá, chắc chúng con làm không được!’ Thánh An-tôn nói: ‘Nếu không được, thì ít ra cũng không báo thù, phải tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình’. Nhóm giáo dân ấy đồng thanh: ‘Việc này vẫn khó ạ, không thể cứ để yên cho những kẻ xúc phạm mình được!’ Thánh nhân nghe đến đây, bèn quay sang bảo người môn đệ: ‘Con hãy đi nấu cháo cho những người này ăn vì họ quá yếu đuối. Còn ta, ta sẽ cầu nguyện cho họ’.

Là nhà truyền giáo, nhà thuyết giảng nổi danh như Thánh nhân cũng đôi lần gặp thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng. Ngay cả đến Chúa Giê-su, nhà giảng thuyết đại tài mà còn thốt lên câu: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6, 4). Điều này chẳng có gì lạ lùng cả, vì người dân làng Na-da-rét chỉ nhìn vào khía cạnh con người tầm thường, quá quen thuộc của Đức Giê-su; họ thiển cận, thành kiến, và đố kỵ; từ đó dẫn tới thái độ cố chấp, hẹp hòi. Họ chẳng tin Đức Giê-su vì chỉ nhìn thấy quá khứ rất ư bình thường của Ngài. Họ chẳng tin vì họ chỉ nhìn thấy hiện tại của Ngài không chút hào quang sáng chói. Họ chẳng tin vì họ chỉ nhìn vào lý lịch quá đỗi tầm thường của Đức Giê-su.

Trông người xưa kia mà ngẫm lại mình hôm nay. Ca dao Việt Nam có câu: ‘Yêu ai yêu cả đường đi / Ghét ai ghét cả tông chi họ hàng’ hoặc ‘Yêu ai thì nói quá ưa / Ghét ai nói thiếu nói thừa như không’. Nếu ta chỉ nhìn với thành kiến, định kiến của bản thân, thì như McKenzie khẳng định: ‘Người có tình yêu nhìn bằng kính viễn vọng, còn người ghen tị nhìn bằng kính hiển vi’. Nếu để định kiến điều khiển cách nhìn, lối suy nghĩ của bản thân thì không sớm thì muộn, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng bi đát như dân làng Na-da-rét xưa kia. Nếu cứ nhìn theo kiểu ‘bụt nhà không thiêng’ thì chắc hẳn chúng ta bỏ lỡ biết bao cơ hội đón nhận Chúa nơi anh chị em, đón nhận bao ơn lành trong đời, vì “…sức mạnh của Ta được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối…và vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (x. 2Cr 12, 8. 10). Nếu vẫn xét theo lai lịch, gốc gác, địa vị xã hội, thì tâm lý ‘con gà ganh nhau tiếng gáy’ vô hình chung phát triển vô tội vạ như ‘diều gặp gió’, và tâm lý đố kỵ, ganh tị với người tài hơn mình sẽ như ‘xe không thắng/phanh’ bởi tính kiêu ngạo, bởi mặc cảm thua kém, bởi lòng bất khoan dung, bởi thiếu trưởng thành nhân cách, bởi thói hùa theo bầy đàn. Như thế, tệ hơn sẽ dẫn tới thái độ rẻ rúng vì cố chấp, hẹp hòi. Giá như Đức Giê-su oai phong đạo mạo như thể ‘trang anh hùng hào kiệt xuất chúng, trâm anh thế phiệt, áo gấm sênh sang, vinh quy về làng’ thì còn cơ may được chào đón, chứ đàng này, ‘Ngài chẳng có đến cái gối tựa đầu, chẳng nhà cao cửa rộng, chẳng xe hơi sang giàu, chẳng tiền hô hậu ủng, chỉ có vài môn đệ tầm thường xuất thân thuyền chài khó nghèo tháp tùng…!’

Sau cùng, đọc lại những dòng suy tư bất hủ của Đức cố Hồng y F.X Nguyễn Văn Thuận, mong sao chúng ta vượt thắng sự yếu hèn mong manh của bản thân và cùng nhau cầu nguyện: ‘Mỗi ngày con phải bớt tự ái, mà thêm bác ái. Mỗi ngày con bớt tự tin, mà tin thêm vào Chúa” (Đường Hy Vọng, số 56). Amen!

Lm. Xuân Hy Vọng

***********

NGÀI KHÔNG LÀM PHÉP LẠ NƠI QUÊ HƯƠNG!

Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Hầu hết chúng ta đọc biết nhiều trình thuật kể lại việc Chúa Giê-su làm vô số phép lạ, nào là: cho kẻ chết sống lại, chữa lành bệnh phong hủi và các bệnh nhân, trừ quỷ, đồng thời dạy dân chúng biết bao điều về Thiên Chúa Cha, về Nước Trời, v.v…Tuy nhiên, Tin Mừng hôm nay cho thấy: khi Ngài trở về làng Na-da-rét, gặp gỡ đồng hương, họ hàng, làng xóm thân thuộc, Ngài không làm phép lạ nào cả! Thông thường, lúc ‘vinh quy bái tổ’ hay dịp trở về quê hương, ai mà chẳng muốn làm những điều tốt đẹp, tuyệt vời cho gia đình, họ hàng, làng xóm cơ chứ! Nhưng vì sao Đức Giê-su lại không làm dấu lạ nơi quê hương Ngài, chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua một số gợi ý suy niệm sau.

Trước hết, chúng ta có thể khẳng định rằng: Chẳng phải Đức Giê-su không muốn hoặc không thể làm phép lạ chữa lành, giải thoát bà con đồng hương của mình khỏi đau khổ bệnh tật, như Ngài đã từng thực hiện những dấu lạ phi thường cho dân chúng ngoài làng mạc quê hương của Ngài. Hơn nữa, dân làng Na-da-rét có thể cũng đã được nghe đến tiếng tăm của Đức Giê-su; nhưng thật lạ lùng, họ chỉ ngạc nhiên sửng sốt về lời giảng huấn của Ngài, và chỉ dừng lại ở đấy “… nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Ngài, nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Ngài làm được những sự lạ thể ấy?…” (x. Mc 6, 2), đến nỗi “…họ vấp phạm vì Ngài” (x. Mc 6, 3). Thế lí do gì mà Đức Giê-su không thực hiện những sự thể phi thường nơi quê hương mình?

Đọc thật kỹ đoạn Tin Mừng theo Thánh Mác-cô hôm nay, chúng ta sẽ thấy ngay sự cứng lòng tin của người làng Na-da-rét, “Ngài ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin” (Mc 6, 6). Họ không tín thác vào quyền năng của Đức Giê-su, mà có lẽ họ đã từng được chứng kiến đâu đó những việc phi thường và lời giảng dạy khôn ngoan của Ngài, hoặc cũng nghe về tiếng tăm của Ngài như một vị tiên tri, hay Đấng Cứu Độ rồi. Tuy nhiên, vì tâm hồn họ khép kín, chỉ dừng lại ở điểm ngạc nhiên, mà chưa vươn lên tìm hiểu, ra khỏi bản năng thành kiến trong cách nghĩ suy, trong tư tưởng của bản thân, nên họ chỉ thấy con người Giê-su ‘bình dân học vụ’ như bao nhiêu người đồng trang lứa thời đó mà thôi. Soi rọi vào đời sống đạo của mỗi người chúng ta, phần lớn tương tự như thế. Chúng ta khen tặng những lời giảng hay, sửng sốt, ngạc nhiên, tán thưởng câu chuyện biến đổi cuộc sống, các ơn lành lớn lao mà Chúa ban tặng cho chúng ta qua Giáo Hội, qua cộng đoàn, v.v…, nhưng nếu chỉ dừng lại ở điểm này, thì chúng ta cũng chẳng khác gì những người dân làng Na-da-rét. Hơn nữa, nghe giảng hay, chẳng ngần ngại chúc tụng, trầm trồ khen ngợi, nhưng tiếc thay chúng ta không sống, không chịu đào sâu Lời Chúa, vốn được thông truyền qua Giáo Hội, qua Thừa tác viên có chức Thánh. Thật sự tự hào là Ki-tô hữu, là người được trao ban đức tin, nhưng nếu đức tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất nhựa sống chờ ngày gãy đổ, thì chẳng khác gì thứ niềm tin mà cố Đức Hồng Y Phan-xi-cô, tác giả cuốn sách “Đường Hy Vọng” đã nhắc nhở: “Nhiều người nói tôi có đức tin, tôi còn đức tin, có lẽ đức tin của giấy khai sinh, không phải đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin. Đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết, hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái, và trung thành”.

Bởi lẽ ‘họ cứng lòng tin’, nên chắc hẳn họ không thể nào vượt ra khỏi lối suy nghĩ, cách nhận định mang tính định kiến như họ tự hỏi: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Ngài làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Ma-ri-a, anh em vi Gia-cô-bê, Giu-se, Giu-đa và Si-mon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” (Mc 6, 2-3). Nói cách khác, họ cho rằng họ biết rõ thân thế, gia đình và họ hàng của Đức Giê-su, vốn chỉ là những người tầm thường, bình dị gần gũi với họ như tình làng nghĩa xóm, chứ đâu có gì nổi bật hay nổi trội chi đâu. Chính lối suy nghĩ đậm đặc định kiến thế này mà khiến đôi mắt thân xác cũng như tâm hồn họ bị đóng kín, khép chặt, khiến họ không thể nhận ra những gì người khác cảm nhận và được lãnh nhận vô vàn ơn lành cao siêu từ Đức Giê-su. Với cách nhìn nhận và tiếp cận thế này của người dân làng Na-da-rét vô hình chung “đóng khung” Đức Giê-su, đồng thời tự nhốt họ trong định kiến hẹp hòi, ẩm thấp và ngột ngạt, còn đâu khoảng trống cho mình và cho người khác, còn đâu không khí thoáng mát để cảm nhận, để hít lấy hơi thở thánh ân qua con người Giê-su Ki-tô! Trong cuộc sống thực tế, chúng ta cảm nhận điều này rõ ràng hơn ai hết: định kiến giam hãm chúng ta mở lòng, đón nhận, chấp nhận người khác, và đồng thời cấm cửa tha nhân đi vào thế giới của bản thân ta. Hơn thế, trong đời sống đạo, lối suy nghĩ đậm đặc định kiến ấy sẽ khiến cõi lòng chúng ta rỉ sét, vì cánh cửa tâm hồn bị đóng chặt then cài lâu ngày rồi. Bản thân vừa không muốn bước ra khỏi đó, và tệ hơn Thiên Chúa, anh chị em chúng ta chẳng thể nào tiến vào được!!!

Tâm hồn khép kín, tư tưởng đầy ‘bùn lầy’ định kiến, quá tự tin vào những gì mình biết, dẫn tới tính tự mãn. Từ đó sinh ra thái độ xem thường “người của Thiên Chúa” (ngôn sứ) như lời bất hủ của Đức Giê-su: “không một tiên tri nào được chấp nhận nơi quê hương mình” (Lc 4, 24), và thảm hại hơn, thái độ không tôn kính “Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm”. Ngôn sứ là người được Thiên Chúa sai đến loan truyền cho dân sứ điệp, chương trình, ý định của Ngài, chứ không phải thực hiện nghị trình riêng của mình; thế nhưng, thân phận “người của Thiên Chúa” thật hẩm hiu như các câu chuyện của tiên tri Ê-li-ah, Ê-li-sa và các ngôn sứ khác vào thời Cựu Ước. Chúng ta nên tránh rơi vào lối mòn “gần chùa gọi Bụt bằng anh” hoặc “bụt nhà không thiêng”. Đành rành sự gần gũi xoá đi ngăn cách, khoảng cách, xua tan hàng rào vô hình, hầu trở nên thân tình, trở thành người hiểu chuyện và nên người bạn thân đúng nghĩa; chứ không dẫn tới thái độ đánh đồng, tệ hơn xem thường, không có thái độ đúng đắn với “người của Chúa”. Như thế, thái độ này có thể dẫn tới thói cao ngạo, ta đây, đặt mình trên người khác, ấy là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương Na-da-rét. Thái độ này trái ngược hẳn với cảm nghiệm nơi Thánh Phao-lô “...sức mạnh của Chúa tỏ bày trong sự yếu đuối..., vì khi tôi yếu đuối chính là lúc tôi mạnh mẽ” (2Cr 12, 9-10). Chẳng phải mạnh mẽ nhờ sự yếu đuối, yếu hèn, hay tính ương ngạnh của bản thân, mà chính là nhờ thái độ biết nhận mình yếu đuối, cần được đỡ nâng, đồng thời tin tưởng vào Chúa, Đấng thực hiện những sự phi thường trong điều tầm thường, Đấng làm nên việc vĩ đại trong những thứ vụn vặt, Đấng biến sự yếu hèn nơi con người thành sức mạnh trong Ngài.

Tóm lại, xuyên suốt câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy, người Do Thái "thích sự thật khi sự thật tán tụng họ, nhưng họ căm ghét sự thật khi sự thật lên án họ" (theo Thánh Âu-gus-ti-nô). Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta ‘đừng đi vào lối mòn’ ấy, trên hết luôn biết mở lòng, tín thác, loại bỏ mọi thành kiến hoặc định kiến, và hết tình cảm kích điều thiện lành nơi tha nhân, chứ không xem thường. Amen!

Lm. Xuân Hy Vọng

***********

SỐNG VỚI THÁI ĐỘ MỚI, ĐÓN NHẬN ƠN DỒI DÀO

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một sự thật có chút xốn xang, đau lòng: “Không một tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình” hoặc “ngôn s có b r rúng, thì cũng ch chính quê hương mình, hay gia bà con thân thuc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6, 4); nhưng không phải bởi vậy mà chúng ta không suy gẫm, không thực hành và không sống! Chính Đức Giê-su là nhân chứng rõ rệt khi Ngài trở về quê hương, họ hàng, thân thuộc chỉ biết nhìn khía cạnh con người của Ngài, không biết mở lòng đón nhận những gì tốt lành mà Ngài mang lại.

Nói đến đây, con nhớ một câu chuyện có thật: bạn của con là một linh mục, nhưng hoàn cảnh gia đình khó khăn nên từ nhỏ đã phải bôn ba vừa đi bán vé số, vừa học chữ. Hằng ngày phải rảo khắp vùng quê, bán càng nhanh càng nhiều vé số để kịp đến trưa trở về ăn cơm rồi đến trường. Thời gian cứ trôi như thoi đưa, vất vả của người bạn ấy vẫn cứ chất chồng, nhưng Chúa đã mời gọi và sắp xếp mọi việc một cách hoàn hảo không ngờ. Bạn ấy được gửi đi du học tại chủng viện Phi-líp-pin. Sau ròng rả nhiều năm đào tạo, đã được lãnh nhận tác vụ linh mục, rồi trở về quê dâng lễ tạ ơn cùng mọi người trong gia đình, gia tộc cũng như giáo xứ. Thánh lễ chuẩn bị bắt đầu, nhiều người trong giáo xứ xì xầm bàn tán nhỏ to ‘ê, chẳng phải ông cha đó trước kia con của bà này, ông kia, hằng ngày phải bán vé số mà! Bây giờ làm cha rồi sao?’ rồi thì người khen, người bỉu môi cười gượng gạo, người thì trầm trồ khen giỏi, người thì chẳng ý từ gì đến xung quanh cứ buông những lời khó nghe…

Trong đời sống thường ngày, chúng ta quá quen với câu nói ‘gần chùa gọi bụt bằng anh’ còn ‘gần nhà thờ gọi cha bằng...’ (tuỳ theo thái độ của người gọi!) hoặc câu nói ‘bụt nhà không thiêng’. Thái độ, cử chỉ, thói quen, lối suy nghĩ này không phải chỉ được diễn tả qua văn thơ trào phúng, ca dao tục ngữ đúc kết kinh nghiệm sống của các bậc tiền bối trong văn hoá Việt Nam chúng ta, mà nó cũng đã được đề cập đến trong Kinh Thánh, lối sống, cách nhìn nhận của người Do Thái thời Chúa Giê-su rồi, “không một tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình”, và hơn thế nữa “họ hàng vấp ngã vì Ngài” (x. Mc 6, 3). Nói một cách dễ hiểu, họ chỉ chú trọng đến khía cạnh con người của Chúa Giê-su, họ vấp ngã trong cách nhìn đóng khung, quen thuộc từ trước của họ, và họ không biết mở lòng đón nhận Chúa Giê-su như một tiên tri, như một người được sai đến qua lời giảng dạy hấp dẫn, qua các việc lạ lùng, phép lạ, chữa lành của Ngài. Và chính thái độ, lối nhìn, tư tưởng như vậy khiến Chúa Giê-su ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin (x. Mc 6, 6), cho nên Ngài không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa lành vài bệnh nhân (x. Mc 6, 5).

Tương tự, có thể chúng ta cũng trở nên giống như dân Do thái thời Chúa Giê-su hoặc dân Is-ra-en thời Cựu ước như sách tiên tri Ê-dê-ki-en thuật lại ‘họ không nhận biết có Thiên Chúa hiện diện giữa dân của Người qua vị ngôn sứ’ (x. Ed 2, 2-5) nếu chúng ta lặp lại thái độ hẹp hòi, suy nghĩ theo lối mòn, thiển cận, chú trọng đến bề ngoài, đến tính con người, mà quên đi sự hiện diện cao trọng của Thiên Chúa qua thừa tác viên có chức thánh cho dù sở hữu một diện mạo tầm thường, chẳng có gì ‘là chất, là đỉnh’, thì vô hình dung, chúng ta đánh mất ơn thánh thiêng, ân sủng, sứ điệp tình yêu từ Thiên Chúa qua vị thừa tác viên ấy.

Thái độ so sánh, và lối suy nghĩ ‘tốt khoe xấu che’ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc nhận ra, đón nhận ơn Chúa qua một người tầm thường, qua biến cố nho nhỏ, qua sự việc chẳng lớn lao phi thường. Ở điểm này, chúng ta cùng nhau noi gương thánh Phao-lô ‘tự hào vì sự yếu đuối của mình’ vì “khi tôi yếu đuối chính là lúc tôi thực sự mạnh mẽ” (x. 2Cr 12, 10). Ngài nói như vậy không phải đề cập đến thái độ ngủ vùi trong sự yếu hèn của bản thân, mà trái lại, mặc lấy cách nhìn khiêm nhu, tấm lòng khiêm tốn, cử chỉ khiêm nhường về chính con người thật sự yếu đuối của mình, thì lúc ấy, ơn Chúa sẽ được biểu lộ một cách rõ nét và mạnh mẽ “ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được bày tỏ trong sự yếu đuối” (x. 2Cr 12, 9).

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta nên mặc lấy một cách sống khiêm nhu, một thái độ rộng mở, thái độ vượt trên những định kiến, những lối suy nghĩ theo thói quen hay theo xu hướng ‘thời thượng’, để rồi, chúng ta ngày càng được cảm nhận, đón nhận dồi dào ơn Chúa trong từng bậc sống, từng tác vụ, sứ vụ của mình.

          Chúa ơi, đổi mới lòng con

          Vội vàng, khép kín chẳng còn trong con.

          Vượt thác ‘đố kỵ’, trèo non

          Yếu hèn chẳng sợ, Chúa còn bên con.

          Đỡ nâng, dìu dắt vuông tròn

          Hồn con yên ủi, sắt son một đời....Amen!

                                               

   Lm. Xuân Hy Vọng

Tác giả: