Nhảy đến nội dung

Tư Liệu Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu FABC Số 122

TƯ LIỆU FABC số 122

Chuyển ngữ: Lm. Xuân Hy Vọng

HỘI LUẬN DÀNH RIÊNG CHO TOÀN THỂ GIÁM MỤC Á CHÂU

CHĂM SÓC MỤC TỬ - ĐẶC BIỆT QUAN TÂM ĐẾN

CÁC LINH MỤC ĐANG GẶP KHÓ KHĂN

Trung Tâm Dòng Chúa Cứu Thế, Pattaya, Thái Lan

27 – 31 tháng 8 năm 2007

Biên soạn:

Lm. Lawrence Pinto, MSIJ

Văn phòng Giáo sĩ (OC) trực thuộc FABC

NỘI DUNG

  1. DẪN NHẬP – Lm. Lawrence Pinto, MSIJ, Thư ký Điều hành, FABC – OC
  2. Căn tính và Tôn chỉ của Sứ vụ Linh mục trong Bối cảnh Á Châu

Lm. Vimal Tirimanna, CSsR, Thư ký Điều hành, FABC – OTC

  1. Các vấn đề quan hệ và những nan giải của Linh mục đang Chi phối Công việc Mục vụ và Đời sống Mục tử

Gm. Vianney Fernando, Sri Lan-ka

  1. Chăm sóc Linh mục: Đào tạo Trường kỳ và Biện pháp Hỗ trợ

TGM. Orlando B. Quevedo, OMI,

               Tổng Giám Mục Địa phận Cô-ta-ba-tô, kiêm Tổng thư ký FABC

  1. CÔNG BỐ CHUNG CUỘC

Uỷ bản Soạn thảo gồm các Giám mục Tham dự viên

I. DẪN NHẬP – Lm. Lawrence Pinto MSIJ, Thư ký Điều hành, FABC – OC.

Bối cảnh và Khái quát

Tài liệu FABC này bao gồm bốn trong chín bài tư liệu được trình bày tại Hội thảo dành riêng cho các Giám mục, được Văn phòng Giáo sĩ trực thuộc Liên Hội đồng Giám mục Á Châu (FABC – OC) tổ chức. Công bố chung cuộc cũng phản ánh cảm nghiệm của các Giám mục với tư cách tham dự viên.

Được diễn ra vào tháng 12 năm 2004, Hội nghị Kandy của Văn phòng Giáo sĩ trực thuộc Liên Hội đồng Giám mục Á Châu (FABC – OC) dự phóng tổ chức một cuộc hội thảo dành riêng cho các Giám mục, bàn luận về những vấn nạn tác động đến linh mục – sau đó hy vọng giúp các ngài chăm sóc linh mục-đang-gặp-trở-ngại với lòng thương cảm và bằng nhiều cách thức hỗ trợ hiệu quả nhất có thể. Ban cố vấn về Đào tạo Nhân bản cho Linh mục – Những thách đố trong Bối cảnh Á Châu, đã đưa ra kế hoạch và được Văn phòng Giáo sĩ trực thuộc Liên Hội đồng Giám mục Á Châu tổ chức vào tháng 5 năm 2006, dành riêng cho các Giám đốc Đại Chủng viện tại Châu Á, với trọng tâm: là người Á Châu, chúng ta cần xác định rõ căn tính và tôn chỉ của người linh mục. Ban cố vấn nêu bật đặc điểm mà một linh mục Châu Á phải có, đó là người cảm nghiệm Thiên Chúa, và nhờ đức bác ái mục vụ thúc đẩy, họ năng nỗ truyền giảng Tin Mừng, cũng như sống luân lý trọn vẹn. Hơn nữa, linh mục là người luôn nồng hậu tiếp đón và có lòng trắc ẩn, sống hiệp nhất với người nghèo, biết kết nối và sống trong mối tương quan ngõ hầu xây dựng cộng đoàn, không ngừng cổ suý đối thoại, công lý và hoà bình, khiêm nhường đồng hành với vai trò anh em, cha mẹ, bạn hữu trên cuộc hành trình tiến về nhà Chúa, và sau cùng, linh mục là người lãnh đạo tôi trung trong một Giáo hội phục vụ.

Đối nghịch với các đặc tính trên, nếu quan sát kỹ, chúng ta sẽ nhận ra các linh mục tại Châu Á đang đối mặt với nhiều thách thức do thiếu niềm xác tín, hậu quả từ chủ thuyết thế tục, chủ nghĩa vật chất, chủ trương cá nhân, chứng vô cảm, dửng dưng, vô tri, tính thụ động, mà đối diện với giáo dân có vấn đề, cũng như tất cả những thay đổi văn hoá một cách chóng mặt. Ngoài ra, các linh mục cũng đang đứng trước tình trạng công việc quá tải, tiêu hao sức lực, chẳng thể nào đáp ứng những kỳ vọng của giáo dân, không có thời gian cầu nguyện hay chuyên tâm đời sống tu đức, thiếu kiên trì, rơi vào tình trạng cô đơn, nhu cầu quản trị đòi hỏi quá mức, thiếu tinh thần trách nhiệm, sa vào các vấn đề liên can tới phụ nữ và nạn nghiện ngập, mắc phải những nan giải tâm sinh lý, rắc rối trong mối tương quan với Giám mục, anh em linh mục và giáo dân. Tất cả những điều trên được cho là một phần trắc trở nơi các linh mục.

Tuy nhiên, theo nhãn quan của các Giám mục và giáo dân nói chung, những vấn đề này chẳng khác gì tình trạng mà vị linh mục chưa chín chắn trong đời sống nhân bản và tu đức, cũng như thiếu động lực sống tốt, sống khoẻ ơn gọi thánh hiến. Mọi vấn đề tâm sinh lý và tâm lý ảnh hưởng đến họ, dẫn đến tình cảnh thiếu nhiệt huyết trong sứ vụ và sứ mệnh của Giáo hội, thiếu cương trực trong lĩnh vực tài chính và dễ giải với các trách nhiệm trong đời sống linh mục. Họ đau khổ vì những rắc rối với giám mục và anh em linh mục khác trong linh mục đoàn, cũng như thiếu nghiêm túc đối với mọi giá trị luân lý và tu đức.

Tại cuộc họp Chuẩn bị Đặc biệt của Văn phòng Giáo sĩ trực thuộc Liên Hội đồng Giám mục Á Châu được tổ chức tại Trung tâm Mục vụ Địa phận Kuala Lumpur, vùng phía Tây Mã Lai, từ ngày 3-4 tháng 10 năm 2006, với sự tham gia của các Giám mục từ Ấn Độ, Miến Điện, Pa-kis-tan, Sin-ga-por, Mã Lai, Sri Lan-ka, và 3 cha Giám đốc Đại Chủng viện Mum-bai, Sin-ga-por và Miến Điện, đã cùng nhau thảo luận chi tiết về những điều kiện đòi buộc mà hội thảo dành riêng cho các Giám mục đặt ra. Ngoài ra, cách nhìn của Hội đồng Giám mục Việt Nam về các vấn nạn của Linh mục cũng được tổng hợp trong dịp này.

Những thành viên nhóm tại khoá họp này cảm nhận một cách mạnh mẽ rằng hội thảo này chắc hẳn sẽ hỗ trợ các Giám mục trong trách vụ chăm sóc linh mục đang gặp trắc trở. Do đó, cuộc Hội luận này được quyết định dành riêng cho các Giám mục Á Châu. Sau hàng loạt thảo luận, những mục tiêu được chọn cho Hội luận này là: 1. Giúp các Giám mục Suy tư về Căn tính và Tôn chỉ của sứ vụ Linh mục trong Bối cảnh Á Châu. 2. Hỗ trợ các Giám mục Xác định những Ngăn trở mà Linh mục đang gặp Khó khăn, phải Đối mặt trong Đời sống cũng như trong Sứ vụ. 3. Giúp các Giám mục Quan tâm Chăm sóc Linh mục đang gặp Trắc trở trong Mối tương quan với Bản thân, với Giám mục, anh em Linh mục, Giáo dân, cũng như mọi Vấn đề khác ảnh hưởng tiêu cực đến Công việc Mục vụ và đời sống Linh mục.

Chủ đề của cuộc hội luận: Vai trò Mục tử của Giám mục trong Mối tương quan với các Linh mục đang Thực hiện Sứ mệnh Giáo hội. Chủ đề này được trình bày rõ nét và chú trọng suốt cuộc hội thảo. Những rắc rối về mối Quan hệ và Vấn đề ảnh hưởng đến công việc mục vụ và đời sống linh mục được nhấn mạnh nhằm nhận biết và giải quyết các vấn đề, vấn nạn này, đồng thời thực hiện công việc mục vụ một cách hiệu quả, và giúp đỡ linh mục sống ơn gọi thánh hiến tốt đẹp. Một cuộc thảo luận về chủ đề như giá trị không lành mạnh về luân lý-tu đức mang lại cho các giám mục ý thức rằng linh mục cần được huấn dụ và hướng dẫn không ngừng nhằm giúp họ phục vụ trong tác vụ mục tử mà Giáo luật quy định, và họ phải thực thi tác vụ trong thế giới này với cả phẩm giá của sứ vụ tư tế.

Khi suy tư về đời sống linh mục trong bối cảnh Á Châu, chúng ta phải nhìn nhận linh mục tại châu lục này đang phải chịu đau khổ do tình trạng rối loạn nhân cách, hỗn loạn lo âu và những vấn đề tâm lý khác như bao nhiêu người ngoài xã hội rộng lớn kia. Cuộc hội luận sẽ đề cập phần lớn đến mọi khía cạnh của các tình trạng rối loạn này như: hội chứng, nguyên do, những biện pháp điều trị khả thi, nhằm giúp các Giám mục hiểu rõ các linh mục trong trường hợp này cần được quan tâm chăm sóc, cần được hỗ trợ điều trị và thương cảm sâu sắc. Nếu được để ý lưu tâm, họ sẽ có nhiều biến chuyển tích cực và trở lại bình thường với công việc mục vụ, cũng như đời sống linh mục.

Chủ đề sau cùng được bàn luận chi tiết là ‘đào tạo trường kỳ và các biện pháp hỗ trợ’ cho những linh mục đang gặp trắc trở. Có lẽ một mẫu hình được đưa ra nhằm giúp các Giám mục từ khắp nơi Châu Á trong việc tổ chức thường huấn và chương trình phục hồi cho linh mục tại những quốc gia cũng như giáo phận tương ứng.

Những bài tham luận trong tài liệu này mang lại ý thức đào tạo rõ nét về căn tính và tôn chỉ của linh mục tại Á Châu, cũng như đề ra chỉ dẫn chi tiết các khía cạnh chăm sóc mục tử mà họ mong muốn Giám mục giáo phận thấu hiểu và lưu tâm.

II. CĂN TÍNH VÀ TÔN CHỈ CỦA SỨ VỤ LINH MỤC TRONG BỐI CẢNH Á CHÂU – Lm. Vimal Tirimanna, CSsR, Thư ký Điều hành Văn phòng Quan tâm về Thần học trực thuộc Liên Hội đồng Giám mục Á Châu (FABC – OTC)

Theo dòng lịch sử, kể từ nhân loại được thiết lập mối liên hệ với hiện tượng ‘tâm linh’ dưới dạng thức một tôn giáo, tư tế nam nữ thuộc nhiều tôn giáo khác nhau đang sụt giảm. Thật vậy, có cả nam và nữ tư tế trong các nền văn minh cổ đại lẫn khu vực mà họ gắn liền. Tuy nhiên, chức linh mục Công giáo được thiết lập, xoay quanh nét độc nhất vô nhị của căn tính đặc thù[1]; và thừa tác vụ linh mục Công giáo trong những thế kỷ XIX/XX đã được xã hội công nhận, tin tưởng về mặt luân lý và được kính trọng không chỉ ở Châu Âu phần lớn theo đạo Ki-tô giáo, mà còn nhiều nơi tại Châu Á hầu hết chưa theo đạo Ki-tô giáo. Do đó, dẫu thời gian trôi qua mau, linh mục Công giáo vẫn được kính nể, tôn trọng hầu hết tại các quốc gia Á Châu: Họ là những người nhắc nhở giáo dân về tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa, nhưng thường bị dè bỉu[2]. Giáo dân biết linh mục Công giáo là người ra sao và các ngài được kỳ vọng cư xử đặc biệt thế nào; cụ thể, “văn hoá tư tế” tồn tại ở đây, nghĩa là cung cách mà các linh mục làm việc. Trên toàn thế giới, một vị linh mục Công giáo được xác định có căn tính rõ rệt và phổ quát.

Tuy nhiên, với nhiều cải cách sâu đậm trong toàn thể Giáo hội do Công đồng Va-ti-can II mang lại, sứ vụ linh mục Công giáo cũng trải qua một loại khủng hoảng căn tính. Vì thế, những năm sau Công đồng, hàng ngàn linh mục rời bỏ sứ vụ (huyền chức), còn một số khác thì tiếp tục, nhưng đối diện với khủng hoảng ấy. Vài thập niên sau, hiện tình trạng khủng khoảng căn tính này dường như chuyển biến từ xấu thành tệ hơn. Ngoài ra, các cuộc khảo sát khoa học khác nhau được triển khai tại một số quốc gia Châu Á, về hình ảnh của linh mục giữa hàng ngũ giáo dân, và nêu ra tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về sự tin tưởng mà đang chi phối quá nhiều linh mục ngày nay[3].

Cho dù kỷ nguyên hậu Công đồng Va-ti-can II có thể làm phai mờ căn tính phổ quát của sứ vụ Linh mục Công giáo, và dường như tương đồng với các ơn gọi khác, thì chức Linh mục tiếp tục tiến triển trong đặc tính thiết yếu của nó, đó là căn tính nguyên vẹn và sẽ không thay đổi ngay cả về sau. Trong bài tham luận này, tôi được yêu cầu nói về căn tính và tôn chỉ của sứ vụ Linh mục tại Á Châu. Trước khi đi vào chi tiết, tôi mặc định cả hai căn tính và tầm nhìn không chỉ liên kết nội tại với nhau thông qua chính sứ mệnh của sứ vụ linh mục, tất nhiên trong bối cảnh đã nêu, mà chúng còn là hai phương diện của một vấn đề. Vì thế, những gì được trình bày sau đây về căn tính linh mục có lẽ hợp lý cả với tôn chỉ của sứ vụ linh mục, và ngược lại. Bởi lẽ nội dung của căn tính và tôn chỉ thường đan xen và hội tụ trong sứ mệnh của thừa tác vụ linh mục trong bối cảnh nêu trên. Trước hết, công việc của tôi sẽ đề cập tới căn tính linh mục, đặc biệt liệt kê những đặc tính thiết yếu của căn tính ấy tại Á Châu, kế tiếp, bằng sự nỗ lực thiết lập ngắn gọn về tôn chỉ của chức vụ linh mục Công giáo cần phải có trong bối cảnh Á Châu, chính xác hệ tại căn tính ấy.

1. Căn tính Linh mục tại Á Châu

  1.  

1.1 Thụ phong trao ban ba ‘dấu ấn’ đặc thù

Trong nghi thức Thụ phong, có đoạn khi Giám mục truyền chức nói rằng các linh mục được chọn giữa vô vàn con người, và được tận hiến cho Thiên Chúa ngõ hầu thánh hoá chính mình. Do đó, Linh mục được loại biệt...để tận hiến, và trở nên ‘thánh thiện’ theo định nghĩa của thiên chức linh mục. Thật ra, Giám mục tấn phong cầu nguyện như sau trong Nghi lễ Thụ Phong: “Lạy Cha Toàn Năng, chúng con nài xin Cha ban chức Linh mục cho (các) tôi tớ Cha đây. Xin Cha đổi mới Thần Trí thánh hoá trong lòng (các) thầy”. Kể từ đó, theo niềm tin Công giáo ấp ủ bấy lâu, nghi lễ dâng hiến này liên quan đến sự biến đổi thật sự sâu sắc, nhờ ‘dấu ấn’ thiêng liêng, mà ‘đặc tính’ được trao ban cho linh mục ngõ hầu thay mặt Đức Ki-tô (in persona Christi) thi hành sứ vụ. Dựa trên truyền thống Công giáo lâu đời, đặc điểm chính yếu của căn tính Linh mục là: ngài được dâng hiến một cách đặc biệt, được loại biệt để thực hiện sứ vụ thay mặt Đức Ki-tô. Nhân danh Chúa Ki-tô và Giáo hội Người, linh mục khởi đầu sứ vụ để cầm buộc hay tháo gỡ.

Trong Sắc lệnh về Chức vụ và Đời sống Linh mục Presbyterorum Ordinis số 2, Công đồng Va-ti-can II trình bày: “Các ngài được Chúa Thánh Thần xức dầu, như thế linh mục nên giống Chúa Ki-tô Tư Tế, đến nỗi có quyền thay mặt Chúa Ki-tô là Đầu mà hành động”. Tương tự như bao thánh sủng khác, đặc sủng và đặc tính thụ phong này được trao ban cho các linh mục một cách như không, nhưng tuỳ thuộc vào cách đón nhận của họ; nếu không, nó sẽ chẳng biến đổi ứng viên chịu chức. Là linh mục, chúng ta cần tin tưởng, đón nhận và sống chân lý tuyệt hảo này nơi sứ vụ linh mục của mình. Nếu chúng ta sống chân lý này hằng ngày, mọi người sẽ nói với chúng ta như một vị khách đã từng thổ lộ với Cha quản nhiệm Giáo xứ Ars [Thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-an-nê] rằng: “tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa nơi một người”! 

Linh mục là người thánh thiện, được loại biệt để phục vụ Chúa và Dân Người; điều này quả thật đúng đắn, tuy không có nghĩa là: chức linh mục bí nhiệm như một ‘thực tại thánh thiêng’ hoàn toàn tách rời khỏi thế giới hiện tại và mọi người. Trong khi nỗ lực sống tốt lời mời gọi nên thánh, thì một linh mục Công giáo cần duy trì sự thánh thiện trong từng hành động phục vụ Chúa và Dân Người nơi thế giới thực tại này. Về điểm này, Jacob Parappally trình bày đúng đắn như sau:

Một xu thế nguy hại đang tồn tại muốn biến đổi sứ vụ linh mục Ki-tô giáo thành điều bí nhiệm. Quả thật, khác hẳn chức tư tế nơi các tôn giáo khác, nhưng chẳng có lí do gì để biện minh cho việc biến nó thành huyền bí cả. Trên thực tế, xu hướng này đã khiến một vài linh mục tự mình thông tri rằng họ chỉ là tư tế thực hành lễ nghi, chẳng khác gì mấy so với các tư tế thuộc giáo phái Mithras mà họ cũng được gọi là ‘cha’ hay như các tư tế phụng sự thần linh nào đó trong đền thờ. Chức linh mục Ki-tô giáo khác hẳn tư tế thuần tuý lễ nghi. Nó là một sứ vụ được trao phó cho linh mục nhằm phục vụ cộng đoàn dân Chúa, để Chúa Ki-tô hiện hữu nhiệm mầu qua các bí tích, ngõ hầu các tín hữu có thể gặp gỡ Đấng hằng sống mà họ xác tín, cũng như xây dựng toàn Thân Thể Người là các cộng đoàn.[4]

Nói cách khác, một linh mục được lãnh nhận căn tính đặc biệt qua việc ‘loại biệt’ là điều đúng đắn, nhưng không có nghĩa là các linh mục đoạn tuyệt, tách rời và trên cả Dân Chúa. Mà chính xác hơn, linh mục được đặt để phục vụ đoàn chiên. Mặc dù kỷ nguyên trước Công đồng Va-ti-can II cho rằng vị linh mục hoàn toàn tách rời khỏi mọi người, được lãnh nhận chức vụ tư tế lễ nghi độc quyền, nhưng Công đồng Va-ti-can II đã thay đổi quan niệm này. Công đồng thay thế thuật ngữ mang tính lễ nghi sacerdos bằng từ đậm chất Kinh Thánh, không hơi hướng nghi lễ presbyter hay ‘kỳ mục’. Đây là điều hoà hợp hoàn hảo với Đức Giê-su mà bốn cuốn Phúc Âm đã trình thuật: không sinh ra từ dòng dõi tư tế, và người dân thời ấy cũng không coi Người là một tư tế! Thật vậy, chính Đức Giê-su đã bãi bỏ chức tư tế lễ nghi thời Cựu ước; nhưng cộng đoàn tiên khởi nhận ra sự kiện toàn tuyệt đối cho mọi chức vụ tư tế của con người trong mầu nhiệm Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh của Chúa Giê-su[5]. Chỉ ngay sau cuộc hiến tế cao cả của Người trên Thánh giá, các môn đệ mới nhận ra Người thật là vị Thượng Tế Hằng Sống, như chúng ta đọc biết trong Thư gửi cho tín hữu Do Thái. Do đó, theo Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, bối cảnh của linh đạo linh mục là xây dựng và kiến tạo cộng đoàn Ki-tô giáo [như nhiệm tích Nước Trời mà Đức Giê-su rao truyền] trong sự hiệp nhất với Chúa Ki-tô là Đầu[6]. Chắc chắn căn tính linh mục xoay quanh Bí tích Thánh Thể [chức Linh mục và Bí tích Thánh Thể đều được Chúa Ki-tô thiết lập trong cùng một bối cảnh!], được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Bí tích Thánh Thể kiến thiết cộng đoàn Ki-tô giáo, còn linh mục là khí cụ chính yếu của Thiên Chúa trong việc xây dựng cộng đoàn. Do đó, một vị linh mục phải xác định bản thân hoàn toàn liên đới với cộng đoàn của ngài trong niềm vui cũng như âu sầu, lúc thành công cũng như thất bại, và luôn hiệp nhất với đoàn chiên.Tuy nhiên, ngài cũng phải khôn ngoan cẩn trọng khi minh định chính mình, chớ đánh mất căn tính linh mục thiết yếu này như Đức Hồng y Simon Pimenta thuộc Địa phận Mumbai quả quyết:

Vì lí do này mà phong trào đương thời cổ động vai trò của vài linh mục lúc nào cũng biến mình thành đồng dạng với thế giới xung quanh, và dường như họ trở nên những người khuyên nhủ tiêu cực xa lạ. Họ muốn cởi bỏ phẩm phục đặc thù của linh mục. Họ bị ám ảnh với ‘hội chứng: Gọi tôi là Charlie’! Họ hy vọng hoà nhập tiệm tiến vào bầu khí, hiện trạng của thế gian và thời đại mà họ đang sống. Nhờ quyền năng bí tích Truyền chức Thánh, các Linh mục loại biệt với những ai không có chức thánh. Và một khi cố làm mờ nhạt đi sự khác biệt thiết yếu này, thì chúng ta sẽ không còn phục vụ Chúa Ki-tô và dân Người[7].

Và ngài trình bày ở một luận điểm khác:

Linh mục là dấu chỉ; và sức mạnh của dấu chỉ này không tương đồng, mà lại khác biệt như ánh sáng với bóng tối, nhằm soi chiếu cho người lữ khách đang bước đi trong đêm. Muối cũng thế, khác biệt với thức ăn để tăng thêm phần hương vị. Đức Ki-tô mời gọi chúng ta trở nên ánh sáng và muối cho đời trong một thế giới đầy hỗn mang và hoang phí như chúng ta đang trải qua, thế nhưng sức mạnh của biểu tượng hiện hữu đích thật hệ tại nơi sự loại biệt này. Hoạt động tông đồ mời gọi dấn thân càng nhiều vào đối tượng con người, thì càng phải khác biệt rõ rệt.[8]

Trong xã hội chúng ta, cách riêng xã hội Châu Á, tồn tại một thời điểm tồn tại mà mỗi vai trò con người trong một xã hội nhất định được định nghĩa rõ ràng. Bác sĩ biết cương vị của mình là gì; một người đỡ đẻ cũng thế; người nông dân biết vai trò mình là gì; tương tự giáo viên cũng vậy, v.v…Chính chức năng vai trò nơi mỗi người xác định căn tính của họ. Tuy nhiên, ngày nay, trong khi một số vai trò vẫn còn nguyên sơ tại vài khu vực Châu Á, thì vai trò của một linh mục Công giáo thật sự đang bước vào thời kỳ biến chuyển [thậm chí rơi vào khủng hoảng/tình trạng rối bời], đặc biệt suốt vài thập niên vừa qua. Để bắt đầu lại, linh mục hôm nay mặc lấy nhiều chức năng như một phần của sứ vụ và sứ mệnh tư tế, chậm chí đến mức độ đánh mất/phủ nhận đặc tính thiết yếu của thừa tác linh mục. Kéo theo hậu quả ngày nay khủng hoảng nghiêm trọng về căn tính đối với chức linh mục hiện hữu. Một nghi vấn thường đặt ra hiện giờ là: “linh mục là ai?” còn giáo viên, người hoạt động xã hội, tư vấn viên hôn nhân, người quản trị, v.v…vậy họ là gì? Tuy nhiên, Đức Hồng y Pimenta cho biết, một người tranh đấu chống lại sự nghèo đói để giúp tư vấn hay điều hành những nhóm thanh thiếu niên, thì không cần phải chịu chức linh mục. Bởi lẽ, giáo dân thực hiện những điều này tốt hơn nhiều so với các linh mục! Nhưng, không một tín hữu nào có thể cử hành Thánh lễ hay hoàn thành bất cứ một vai trò thánh hoá nào của linh mục cả. Giáo dân không thể nào giải tội, và không được nhân danh Giáo hội giảng dạy chính thức. Linh mục là cánh tay nối dài của Giám mục [đấng kế vị các Thánh Tông đồ], và đây là lí do tại sao linh mục từ trước đến nay đều cần năng quyền nơi Giáo phận để thực hiện sứ vụ linh mục của mình[9]. Đức Giám mục là người kế vị trực tiếp của Thánh Tông đồ. Như vậy, linh mục Công giáo hành động thay mặt Đức Ki-tô (in persona Christi), và chính hành vi này mang lại căn tính loại biệt thiết yếu hàng đầu cho linh mục.

Trong Tông huấn về Việc đào tạo Linh mục trong Hoàn cảnh Hiện nay Pastores Dabo Vobis, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II viết:

Ngưi linh mc tìm gp trn vn s tht v căn tính ca mình trong s kin mình tham d mt cách loi bit vào Đc Kitô và ni tiếp chính Đc Kitô, v tư tế Ti Cao và đc nht ca Giao Ưc mi: linh mc là hình nh sng đng và trong sut ca Chúa Kitô Linh mc[10].

Như Hồng y Pimenta trình bày, Đức Giê-su đồng hoá chính mình với các linh mục trong khi thực hiện năng quyền tư tế của Người, mà Người trao ban quyền năng này cho chúng ta đến mức mà cá tính riêng của mình cũng được thay thế bằng tính cách của Người, vì chính Người hành động trong chúng ta là những linh mục [nghĩa là: thay mặt Đức Ki-tô (in persona Christi) thực hiện sứ vụ]. Chính Đức Giê-su hiện diện trong Hy tế Thánh hiến nơi Thánh lễ, biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Người. Tương tự, qua chúng ta, Đức Giê-su tha thứ tội lỗi. Chính Người nói khi vị linh mục thực hiện sứ vụ nhân danh Giáo hội và trên tinh thần của Giáo hội, công bố Lời Chúa…và cứ như thế, chúng ta có thể liệt kê hàng loạt những phương diện mà linh mục hành động thay mặt Đức Ki-tô. Sau hết, chúng ta cần lưu ý rằng chiều kích thánh thiêng của chức linh mục được tấn phong hoàn toàn cho chiều kích tông đồ, nghĩa là, sứ mệnh rao truyền và mục vụ[11].

  1.  

1.2 Ơn gọi nên Thánh/Việc thánh hoá Linh mục

Tất cả các tín hữu lãnh nhận bí tích Rửa tội đều được mời gọi nên thánh; nhưng không phải ai cũng được kêu mời trở thành linh mục. Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trình bày ơn gọi đặc biệt này đối với việc nên thánh của các linh mục trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, ngài viết:

Khng đnh ca Công Đng: “Li mi gi sng viên mãn đi sng Kitô hu và thc thi đc ái trn ho đưc ng đến mi ngưi tin vào Chúa Kitô, bt k bc sng hoc li sng ca h” [LG 40], đưc áp dng mt cách đc bit cho các linh mc: các linh mc đưc mi gi, chng nhng vi tư cách th nhân ca bí tích Ra ti nhưng còn, mt cách loi bit, vi tư cách linh mc, hiu như mt tưc hiu mi và tùy theo nhng th thc riêng, bt ngun t bí tích Truyn Chc Thánh[12].

Như đã đề cập, linh mục nên thánh nhờ dấu ấn hay ‘đặc tính’ không thể xoá nhoà mà họ được lãnh nhận trong ngày chịu chức. Họ thánh thiện cũng nhờ căn tính linh mục và thực thi những gì mà linh mục nên làm! Cử hành Thánh lễ, giải tội, xức dầu bệnh nhân, giảng dạy Lời Chúa, cầu nguyện cho đoàn chiên, quan tâm chăm sóc những ai bị bỏ rơi, lưu tâm tới người nghèo, giúp đỡ người cô thế cô thân, hiệp nhất với những ai bị áp bức, v.v…Từ những cảm nghiệm trong đời, chúng ta biết rõ ‘hữu thể’ và ‘hoạt động’ của con người liên kết nội tại với nhau và không thể nào tách rời. Nhà thần học luân lý xuất chúng người Mỹ, Richard M. Gula đã nêu ra: nếu chúng ta đề cập quá nhiều đến hành động hay hoạt động biệt lập, thì chúng ta đang có nguy cơ xem chúng như thứ gì đó ngoài bản thân chúng ta, và chúng có thực tại riêng, độc lập với con người hành động hoặc tác nhân. Nhưng các hành vi luôn là cách biểu hiện của một người[13]. Là Ki-tô hữu, chúng ta được gọi mời làm những việc ngay thẳng, thì tiên vàn, chúng ta cũng được mời gọi trở nên người sống bác ái yêu thương theo gương Đức Giê-su Ki-tô[14]. Về điểm này, linh mục không thuộc diện miễn trừ. ‘Tôi là gì’ quan trọng ngang bằng với ‘tôi làm gì’; ‘hữu thể’ hệ trọng như ‘hành động’. Gula viết:

Như thn hc luân lý Công giáo truyn thng dy rng: hu th sao hành đng vy (agere sequitur esse). Luân lý hng ngày bao hàm các vn đ v cung cách sng sao cho phù hp vi con ngưi chúng ta. Phn đông, chúng ta không suy nghĩ khi đưa ra quyết đnh. Chúng ta hành đng theo cách thưng làm, bi vì các điu kin bên ngoài thách thc chúng ta lt t nhng thói quen đã hình thành, nm cht nim tin, hình nh phn ánh bn thân, các lý tưng chúng ta khao khát, và nhn thc v nhng gì đang din ra. Tóm ti, chúng ta hành đng theo cách chúng ta thưng làm hơn, do tính cách mun thành hình hơn là nhng nguyên tc mà chúng ta áp dng[15].  

Nói cách khác, là linh mục, bất kể những gì chúng ta làm [mọi sinh hoạt mục vụ] đều phải bắt nguồn từ căn tính của mình, từ chính hữu thể đạo đức, và ngược lại. Chỉ khi chúng ta thực hiện đúng đắn với những lí do hợp lý, và chỉ khi ấy, căn tính đích thật của linh mục, tôn chỉ và ý nghĩa đời sống xuất phát từ những gì mà ngài làm thôi. Nếu không, kết cuộc, các linh mục sẽ trở nên ‘hoạt động viên’ chẳng có chiều sâu, hay ý nghĩa, hoặc căn tính loại biệt, và lúc ấy có lẽ chúng ta đành lặp lại lời thi sĩ trứ danh T.S. Eliot đã thốt lên trong một ngữ cảnh khác rằng: đây là s mưu phn, làm vic đúng đn cho lí do sai lm!

Trong thế giới đương đại, người ta đặt ưu tiên sai lầm lên ‘hành động’ hơn là ‘hữu thể’. Tuy nhiên, trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II hoán đổi và sửa lại điều này: sự hiện hữu của linh mục quan trọng hơn nhiều so với việc làm của ngài. Căn tính linh mục hệ trọng hơn những hoạt động ngài thực hiện. Dĩ nhiên, những gì ngài làm đều bắt nguồn từ căn tính ấy. Vì thế, Đức Thánh Cha nhắc nhở chúng ta là những linh mục, trên hết, phải trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su Ki-tô qua các Bí tích, Người vừa là Đầu vừa là Tôi trung, vừa là Mục tử vừa là Vị Lang quân của Giáo hội. Đây chính là bản chất của sứ vụ linh mục. Nhờ đó, họ được nâng đỡ trong tinh thần bác ái mục vụ tình yêu đáp đền tình yêu, phục vụ đáp lại sự gần gũi thân thiết với Thầy Chí Thánh[16].

Mới đây, một cuộc khảo sát giữa các bạn trẻ tại những nước Nam Á được thực hiện, đặt ra câu hỏi chua chát này: giới trẻ nhận thấy linh mục ngày nay ra sao? Trong khi ngưỡng mộ tính cởi mở và thân thiện của các linh mục thời nay [đối nghịch với linh mục thuộc kỷ nguyên trước Công đồng Va-ti-can II], thì giới trẻ cũng kỳ vọng các linh mục trở nên thánh thiện hơn! Với vô vàn cảm nghiệm đa dạng Á Châu, chúng ta có thể tiến tới nhất trí chung với nhau nơi các dân tộc châu lục này. Và có lẽ đây là lí do tại sao Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trong Tông huấn Giáo hi ti Á Châu (Ecclesia in Asia) đã nói: người dân Á Châu không trông mong các linh mục của họ trở thành người quản lý hay nhà xây dựng, nhưng mong họ nên thánh [đặc biệt hoà hợp với các nhà lãnh đạo thánh thiện của những tôn giáo lớn khác tại Châu Á]:

Dân chúng ti Á Châu cn khám phá nơi hàng giáo sĩ không ch là nhng ngưi chuyên lo vic bác ái hoc nhng ngưi qun tr cơ chế, nhưng nhng con ngưi mà tâm trí hưng v nhng gì thâm sâu ca Thn Khí (x. Rm 8, 5). Lòng tôn kính mà các dân tc Á Châu dành cho nhng k nm gi quyn bính, cn đi đôi vi s liêm chính đo đc rõ nét nơi nhng ngưi có trách nhim tha tác trong Giáo hi. Nh có đi sng cu nguyn, s nhit thành phc v và cách sng gương mu, hàng giáo sĩ làm chng hùng hn cho Tin Mng trong các cng đoàn mà h chăn dt nhân danh Đc Ki-tô[17].  

Về chức linh mục nói chung, một tác giả khác đề cập đến công cuộc canh tân thừa tác vụ linh mục, thừa nhận rằng căn tính và việc nên thánh của linh mục tương tác với nhau. Căn tính linh mục cần được phục hồi thế nào, thì việc nên thánh của linh mục cũng cần như vậy[18]. Nhưng ‘việc nên thánh của linh mục’ gồm những gì? Dưới đây, tôi xác định ba đặc điểm chính yếu của việc nên thánh của linh mục, đó là: cầu nguyện, phục vụ và hy sinh.   

  1.  

1.3 Ba đặc điểm Thiết yếu giúp Linh mục nên Thánh

1.3.1 Cầu nguyện: đặc điểm thiết yếu đầu tiên giúp Linh mục nên Thánh

Từ thời Cựu ước, vị tư tế phải đóng vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và dân chúng; ví dụ điển hình nhất là ông Mô-sê [cũng như các Tiên tri]. Thực tế, người dân Á Châu nhận biết, cảm kích, và kỳ vọng chúng ta thực hiện trách vụ cầu nguyện, có lẽ tốt hơn chúng ta tự mình làm, vì chẳng phải mỗi ngày họ mang đến chúng ta một nùi vấn đề của họ như mục vụ, cá nhân, tài chính và những điều khác sao? Chẳng phải họ đặt trước chúng ta nhu cầu và khát vọng từ trong sâu thẳm của họ sao? Chẳng phải họ thường nói: “Xin Cha cầu nguyện cho con, vì con trai con đã mất đức tin; vì bố/mẹ con đang bệnh; vì chồng con mất việc sao?” Lời họ xin cầu nguyện dài vô tận, nhưng mỗi ý nguyện đều từ tâm tư tín hữu và họ đặt niềm tin vào lời cầu nguyện đặc biệt của linh mục[19].

Là linh mục, chúng ta cần có tâm tình chiêm niệm trong hoạt động và hành động trong chiêm niệm. Hơn nữa, đời sống cầu nguyện không được tách rời khỏi cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên, chúng ta cần khởi sự từ đời sống cầu nguyện tối thiểu cụ thể! Trước hết, chúng ta cần chuyên tâm vào đời sống cầu nguyện chính thức của Giáo hội – cử hành Thánh lễ hằng ngày và trung thành với giờ Kinh Phụng vụ mà chúng ta đã long trọng khấn hứa trong lễ chịu chức. Ngoài ra, đây là hành động của việc kết hiệp tha thiết với thừa tác vụ linh mục phổ quát của Giáo hội Công giáo – kế đến, cầu nguyện cá nhân – như lần chuỗi Mân côi hằng ngày, viếng Thánh Thể, suy niệm Lời Chúa mỗi ngày, đi Đàng Thánh Giá, đọc sách thiêng liêng, v.v…hầu hết những việc đạo đức cá nhân mà chúng ta thực hành trước khi vào chủng viện. Ngày nay, cám dỗ nguy hiểm thật sự là bỏ những tập quán ‘đạo đức’ như thể ‘nền thần học lạc hậu’, và rồi cứ để vậy, chẳng thay đổi gì! Chúng ta cần nỗ lực tự chủ dành thời gian cho việc cầu nguyện và thinh lặng thường kỳ, hồi tâm, tĩnh tâm, đọc sách thiêng liêng, tất cả đều là thời khắc ân sủng của đời sống linh mục mà nơi này chúng ta thu nhận thêm năng lượng thiêng liêng cho bản thân. 

    1.  

1.3.2 Phục vụ: đặc điểm thiết yếu thứ hai giúp Linh mục nên Thánh

Công đồng Va-ti-can II trình bày rõ cách thức nên thánh cụ thể hệ tại nơi sứ vụ linh mục: “Linh mục được ơn thánh hoá mỗi khi thi hành tác vụ một cách chân thành và liên lỉ trong tinh thần Chúa Ki-tô”[20].

Giống như bao nhiêu người, linh mục là ‘con người-trong-tương-quan’ với tha nhân. Ai đánh mất chính mình, lạc lối trong vỏ bọc, hẳn không phải là linh mục Công giáo! Tương tự như Đức Ki-tô, linh mục là người dấn bước tiến đến với tha nhân, đặc biệt những ai bị loại trừ và bị vứt bỏ bên lề xã hội. Hơn nữa, với định nghĩa, linh mục được tấn phong cho mọi người, nếu không, chức linh mục chẳng có nghĩa gì. Như vậy, linh mục phải hướng đến tha nhân, và ngài được mời gọi trở nên một Ki-tô khác (alter Christus)!

Trước nhất, linh mục là một mục tử, mục tử tốt lành sẵn sàng ra đi tìm kiếm những con chiên lạc. Trình thuật Ez 34 minh hoạ tuyệt vời điểm này. Còn trong Tân ước, Đức Giê-su quả quyết Người là ‘vị mục tử tốt lành’! Tại bữa Tiệc ly, hai hành động chính yếu của Đức Giê-su, bẻ bánh và rửa chân, đã chứng thực cho nghĩa cử phục vụ khiêm hạ hết mình!

Linh mục không thể nào sở hữu những mối quan hệ độc chiếm được, vì nó sẽ huỷ diệt chính căn tính của họ; dựa trên định nghĩa, linh mục là người hoà nhã với hết mọi người, không loại trừ ai. Như vậy, ngài phục vụ và dấn thân bước tới với cả người già nua cũng như trẻ trung, đàn ông hay phụ nữ, kẻ giàu có cũng như nghèo hèn, những ai thánh thiện hay tội lỗi, người ngưỡng mộ hay chê bai, v.v…Một vị linh mục không thể nào có mối tương quan chỉ với một hoặc vài người mà loại trừ số khác. Đây là phần mảng mà đức khiết tịnh nơi đời sống độc thân can dự vào. Ngày nay, đáng tiếc thay khi một vài linh mục chúng ta sa ngã nghiêm trọng trong đời sống độc thân. Chúng ta không quy chiếu về một vấn nạn sa ngã theo thời kỳ, mà là ‘lối sống’! Về đời độc thân, một vài trong chúng ta biết rõ thủ thuật sống hai mặt[21] đã phá huỷ trầm trọng đặc tính nên thánh [và căn tính] của sứ vụ linh mục, gây biết bao vụ bê bối khủng khiếp [vd: bí mật có người tình/vợ, lợi dụng nhân viên hay người khác tự làm thoả mãn khoái lạc, thậm chí có con riêng; và cả tình trạng lạm dụng bé trai, v.v…]. Chắc hẳn đây là vấn nạn con người, và như thế, họ cần tìm đến các nhà tư vấn và phân tâm học để được điều trị hơn là cứ tiếp tục sống hai lòng, tâm thần phân liệt như vậy, bởi lẽ hành vi này chắc chắn huỷ hoại căn tính linh mục! Những người có vấn đề này, điều cần trước nhất là nhìn nhận bản thân đang gặp vấn đề, rồi sau đó tìm cách để thoát khỏi nó.

Chuyên gia về linh đạo Linh mục Triều danh tiếng Donald B. Cozzens đã nói:

Sự thân mật đích thật của con người là tiêu chuẩn xác nhận người lớn đã trưởng thành và khoẻ mạnh. Khả năng sẵn sàng cho các mối quan hệ chín chắn và chân thật cũng là đặc điểm nhằm đánh giá một cuộc sống đạo đức tốt lành và thăng tiến. Trong lúc mức độ thân mật biến thành vấn nạn của xã hội nói chung, thì dường như nó gây rắc rối đặc biệt cho các linh mục. Các nghiên cứu tâm lý-xã hội học về chức vụ linh mục tại Mỹ do Hội đồng Giám mục Công giáo Quốc gia uỷ lạo và phát hành đầu năm 1970 cho thấy: các linh mục không chín chắn tương tự như những người đàn ông có học vấn khác. “Đơn thuần nam bình thường, linh mục người Mỹ trông vẻ sáng sủa, có năng lực và tận tâm. Nhưng phần lớn những ai chưa phát triển đầy đủ thường rơi vào tình trạng thiếu nhận thức trọn vẹn về giá trị nhân bản và tôn giáo. Họ có thể rất hữu ích kể cả về mặt cá nhân lẫn chuyên môn, nếu họ được hỗ trợ đạt tới mức trưởng thành trong đời sống nhân bản cũng như tôn giáo cao quý hơn”[22].

Cozzens cho rằng rất nhiều linh mục ngày nay thuộc loại nguyên mẫu “mãi là trẻ con”, hay “cậu bé bất diệt” (puer aeternus)[23]. Theo Cozzens, những vị linh mục ấy chính là “những cậu bé giả làm người lớn”![24] Sự trưởng thành của họ bị kiềm hãm, còi cọc đâu đó, cho nên, họ chỉ là những cậu bé hay thiếu niên mãi chẳng chịu chín chắn, và hành xử như thể con nít hoài thôi[25]! Cozzens đưa ra ý kiến gồm ba chữ I, đó là Idenity (Căn tính), Intimacy (Sự Thân mật), và Integrity (Liêm chính); ba điều này chắc chắn như kiềng ba chân, cần được giữ quân bình nếu linh mục là người trưởng thành[26].

    1.  

1.3.3 Hy sinh: điểm thiết yếu thứ ba giúp Linh mục nên Thánh

Trong 2Cr 12, 15 Thánh Phao-lô nói: “Tôi rất vui lòng tiêu phí cả sức lực lẫn con người của tôi vì (linh hồn) anh em”. Đây mới là một minh hoạ cho lòng nhiệt huyết hy sinh mà Thánh Phao-lô Tông đồ đã tận hiến cho việc phục vụ Chúa và tha nhân. Ngoài ra, qua 2Cr 11, 23-28, chúng ta cũng nhận ra ngài đầy nhiệt tâm, hăng hái thi hành trách vụ được trao phó, bất chấp mọi khó nguy, gian nan xảy ra. Nếu từ ‘tông đồ’ có nghĩa là ‘được sai đi’, được sai đến phục vụ người khác, thì linh mục như thể là người kế thừa trực tiếp từ các Tông đồ, không thể tránh né sự nhiệt tâm hy sinh mà các Ngài đã tỏ lộ trên chặng đường truyền giáo. Chính xác hơn, đây là lòng trung tín của linh mục [sự hy sinh] cho sứ mệnh đã lãnh nhận, niềm tín trung đánh đổi sức lực và thời gian [thậm chí cả đời]. Mỗi lần chúng ta kiên định thưa ‘xin vâng’, đòi buộc chúng ta cũng kiên định nhiều lần nói ‘không’[27].

Đức Tổng Giám mục Fulton J. Sheen đặt để cuộc khủng hoảng căn tính của linh mục vào cái mà ngài gọi là ‘sự li hôn quá khủng khiếp’ giữa Linh mục và Hiến tế. Như vậy, Đức Ki-tô không chỉ là con người, cũng không đơn thuần là Thiên Chúa, mà Người chính là Linh mục-Hiến lễ. Người là Tôi tớ của Thiên Chúa, hay là Đấng Thánh đã đến chịu chết cho tội lỗi chúng ta[28]. Như Đức Hồng y Pimenta đã nêu Đức Ki-tô chịu chết vì lợi ích người khác, và đây là điểm khác biệt giữa Người với tất cả các tư tế khác – dân ngoại cũng như Do Thái. Họ phải dâng tế phẩm ngoại biệt với bản thân họ, còn Đức Ki-tô dâng trọn chính mình làm lễ vật hiến tế. “Đức Ki-tô đã tự hiến như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa, của lễ hy sinh thánh thiện và vĩnh cửu” (Dt 9, 14). Người vừa dâng hiến vừa là lễ vật, vừa là tư tế vừa là tế phẩm! Trong cuốn Tự Thuật, Thánh Âu-gus-ti-nô biện giải điều này rất tuyệt vời: “vinh hiển vì hiến tế” (Ideo Victor quia Victima). Nếu trong Đức Ki-tô, chức Linh mục gắn kết với lễ vật Hiến tế, thì cớ gì lại tách rời trong chúng ta, những linh mục, những “Ki-tô khác”? Là linh mục, chúng ta phải nhìn nhận bản thân không chỉ là người dâng lễ mà còn là của lễ; không chỉ là người giảng dạy, nhưng cũng là người tội lỗi, không chỉ là người hoạt động xã hội, mà còn là người giải thoát[29].  

Trong thư gửi cho các linh mục vào Thứ Năm Tuần Thánh 2000, cố Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô viết:

Linh mục và của lễ hiến tế! Chiều kích hy sinh này là dấu ấn sâu thẳm của Bí tích Thánh Thể; nó cũng là phương diện cần thiết cho chức tư tế của Đức Ki-tô, và do đó, cho sứ vụ linh mục của chúng ta. Nhờ ánh sáng chân lý này, chúng ta cùng đọc lại những lời trong thánh lễ hằng ngày…: “Tất cả các con, hãy nhận lấy mà ăn, vì này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con…Tất cả các con, hãy cầm lấy mà uống, vì này là chén Máu Thầy…”.

Vì các linh mục hành động thay mặt Đức Ki-tô (in persona Christi), nhưng thật sự họ phải đồng hoá bản thân làm của lễ hiến tế trong đời sống thực tại mà buộc trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô trong Thánh lễ nhiệm mầu không? Thái độ của một vị linh mục về sự hy sinh và chịu đau khổ trong cuộc sống bản thân là gì? Trong lá thư cuối cùng gửi cho các linh mục vào Thứ Năm Tuần Thánh 2005, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô viết về điểm này như sau:

Với ý nghĩa nào đó, khi Người nói: “hãy nhận lấy mà ăn”, thì linh mục phải học biết mà áp dụng điều đó cho bản thân, cũng như trình bày toàn bộ chân lý với lòng quảng đại. Nếu linh mục có thể hiến dâng mình làm của lễ, đặt mình vào việc phục vụ cộng đoàn hay bất cứ ai cần đến, thì cuộc sống của họ thật sự ý nghĩa biết bao.

Đức Giê-su Na-za-rét được vang danh vì xót thương muôn người. Từ ‘cảm thương’ có nghĩa là ‘chịu đau khổ với’. Qua mọi khổ đau của bản thân, chắc hẳn linh mục chịu đau khổ với những ai đang sầu buồn. Thay vì thương hại mình, thì linh mục có thể nhạy cảm hơn với nỗi đau của người khác. Trong cách này, vị linh mục ấy trở thành “người chữa lành vết thương” mà Henri J.M. Nouwen đã gọi; điều này không chỉ giới hạn với sứ vụ chữa lành, mà còn đóng vai trò như của lễ hiến tế cho tha nhân.

  1.  

1.4 Linh mục cũng là con người mỏng dòn!

Sau cùng nhưng không kém phần quan trọng, chúng ta đừng quên rằng vị linh mục cũng là một con người mỏng dòn, đang nỗ lực nên thánh và phục vụ nhân danh Đức Giê-su, Giáo hội Người, ngõ hầu là khí cụ thánh hoá toàn thế giới. Nói cách khác, ngài không chỉ đơn thuần là một con người với tất cả sự yếu đuối, mong manh, nhưng còn là “một vị có sứ mệnh đặc biệt”. Các linh mục là những người mang lấy “kho tàng trong bình sành bình sứ” (2Cr 4, 7). Theo như lời của Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II [trong thư ngài gửi cho các Linh mục vào Thứ Năm Tuần Thánh, 2000]:

Điều thật sự đúng đắn trong lịch sử sứ vụ linh mục, cũng như trong toàn bộ lịch sử Dân Chúa, bóng tối của tội lỗi luôn hiện hữu. Nhiều lần, tính yếu đuối mỏng dòn của con người nơi các linh mục khiến diện mạo của Đức Ki-tô trở nên khó nhận ra trong họ.

Tuy vậy, ngài tiếp lời rằng không nhất thiết chúng ta phải ngạc nhiên hay sửng sốt về điều này! Vì chẳng phải Giu-đa Is-ca-ri-ốt đã phản bội Thầy Giê-su, còn Phê-rô chối Người ba lần, mà cả hai đều được chính Đức Giê-su gọi là Tông đồ [‘tư tế tiên khởi’] đấy thôi! Trong thư gửi cho các linh mục, năm tới [2001] Đức Thánh Cha nói: Đức Ki-tô không e ngại chọn những thừa tác viên từ con người tội lỗi! Nói cách khác, khi chọn 12 người yếu đuối, mỏng dòn, Đức Ki-tô không hề ảo tưởng về việc Người đang thực hiện, nhưng qua sự yếu đuối, mong manh của những con người này, Người đặt để ấn tích hiện diện của Người. Tương tự ngày nay, qua nghi thức và trong lễ truyền chức Thánh, Chúa Ki-tô tiếp tục ghi dấu ấn tích Người trên những con người yếu đuối, mỏng dòn, ngõ hầu thánh hoá toàn thế giới. Như vậy, chúng ta nhớ lại ngạn ngữ Công giáo lâu đời: ân sủng kiến tạo nơi bản tính! Thực tế, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II nhấn mạnh đến việc đào tạo nhân bản trong khi ngài trình bày mọi khía cạnh của công cuộc đào tạo linh mục[30]. Nói cách khác, với xác tín, ngài lột tả mối dây liên kết nội tại giữa ân sủng và bản tính con người. Như vậy, bản tính con người càng khoẻ mạnh, thì ân sủng thẩm thấu và biến đổi con người từ bên trong càng lớn lao[31]. Vì sau tất cả, như đã bàn luận, linh mục không chỉ là một người bình thường, mà là ‘một con người với sứ mệnh đặc biệt’!

Như Phê-rô và Phao-lô [cả hai đều không xứng đáng; Phê-rô chối Chúa, còn Phao-lô bắt bớ và khuyến khích việc giết hại Ki-tô hữu tiên khởi!] cảm thấy thế nào, thì chúng ta, những linh mục bất xứng, vẫn tiếp tục sứ vụ cứu rỗi nhân danh Đức Ki-tô. Nhưng chúng ta biết rằng Đức Ki-tô đã chọn những con người tội lỗi làm việc mỗi ngày, và Người tiếp tục chọn họ, những người yếu đuối, tội lỗi làm thừa tác viên của Người. Vì thế, chúng ta cần biết ơn, cảm tạ [cảm thức tạ ơn không ngừng và tán tụng!] trước hết, vì chúng ta được Người chọn; kế tiếp, chúng ta cũng cần để ân sủng của bí tích Truyền chức Thánh trổ sinh nơi bản tính con người yếu đuối của chúng ta, bởi lẽ ân sủng kiến tạo nơi bản tính mà. Chúng ta mở lòng để Chúa Thánh Linh hoàn tất công trình thánh thiện của Người đã được bắt đầu qua chúng ta và nơi chúng ta; nhưng để điều nảy được diễn ra, trên phương diện con người thuần tuý, chúng ta cần cộng tác với ân sủng. Đây chính là lí do tại sao vị linh mục, bất luận bản chất con người yếu đuối, mỏng dòn, tội lỗi của mình, cần để Thần Khí Chúa thực hiện cương vị của Người nơi họ. Căn tính linh mục đúng đắn đóng vai trò to lớn trong việc này.

Đức Tổng Giám mục Helder Camara đã từng nói: “nên thánh nghĩa là trỗi dậy ngay mỗi lần anh em vấp ngã, với cả lòng khiêm tốn và niềm hân hoan. Điều này không có nghĩa là anh em chẳng bao giờ phạm tội; tuy nhiên, nó lại mang một ý nghĩa khác rằng anh em có thể thưa: ‘vâng, lạy Chúa, con đã trót ngã xa một ngàn lần, nhưng nhờ ơn Chúa, con đã đứng dậy một ngàn lẻ một lần!”

2. Nhãn quan về Sứ vụ Linh mục Công giáo trong Bối cảnh Á Châu

Một khi chúng ta nắm rõ căn tính chúng ta là ai, thì phạm vi truyền giáo của ta tự khắc được hiện rõ cụ thể; nói cách khác, đường hướng sẽ ra đời ngay từ căn tính. Như đã đề cập, vì cả hai ‘hữu thể’ và ‘hành động’ liên hệ nội tại với nhau, bất luận thời điểm hay nơi chốn, một người nhận thức ‘hữu thể’ [căn tính] của bản thân một cách rõ ràng, thì ‘hành động’ [đường hướng/tầm nhìn/nhãn quan] của người ấy sẽ không hề thay đổi[32]. Ở phần trước, chúng ta thấy rằng linh mục nói chung được mời gọi nên thánh tối thiểu trong ba phương diện: cầu nguyện, phục vụ và hy sinh. Phần này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đôi nét về việc linh mục nhận biết hay sống căn tính nên thánh thông qua và trong đời sống cầu nguyện, phục vụ, hy sinh thế nào nơi bối cảnh một Châu Á đa dạng văn hoá và tôn giáo.

Trong ngữ cảnh bài tham luận này, một mối liên kết chặt chẽ tồn tại, nhưng khác biệt giữa hai thuật ngữ ‘tầm nhìn/nhãn quan/đường hướng’ và ‘hình mẫu’. Nếu ‘tầm nhìn’ là một mơ ước hoặc kế hoạch hành động nhưng chưa được công nhận, thì ‘hình mẫu’ chính là kế hoạch hành động cụ thể được đề ra trong một không gian và thời gian. Hình mẫu cụ thể thành hình theo bối cảnh riêng biệt. Felix Machado nhắc nhở chúng ta rằng trải qua hàng thế kỷ, tồn tại vô vàn ‘hình mẫu’ khác nhau của sứ vụ linh mục Công giáo, và đã nêu ra năm loại hình ra đời trong từng thời kỳ riêng biệt của Giáo sử, và dĩ nhiên, phụ thuộc vào mẫu hình của Giáo hội thịnh hành: mô hình quyền tài phán, mô hình lễ nghi, mô hình ngôn sứ, mô hình mục vụ và mô hình phục vụ. Tất cả các hình mẫu này đều không rõ ràng, cũng như chia nhỏ vụn vặt[33]. Xuất thân từ Ấn Độ, và vẫn giữ sự kính trọng truyền thống dân tộc dành cho ‘người hiền triết’ hay ‘bậc khôn ngoan’, Machado tự hỏi: liệu một số nơi trên đất nước ông, linh mục không xuất hiện như một ‘bậc hiền triết’ sao; ở đây, ông đang suy nghĩ về một kiểu mẫu đan viện của sứ vụ linh mục[34]. Bởi vì Châu Á quá rộng lớn và phức tạp, nên có lẽ ai đó cần suy tư nghiêm túc về những dòng viết của Machado, ngõ hầu đưa ra mẫu hình sứ vụ linh mục nào tốt nhất, tương ứng từng vùng nơi châu lục này [đó là: một loại hình hội nhập văn hoá], dĩ nhiên, không được thay đổi bất cứ đặc điểm thiết yếu nào của căn tính linh mục, mà đã được trình bày. Kể từ các Giáo hội tại Á Châu và hầu hết mọi khía cạnh liên quan đến đời sống giáo hội tại châu lục này vẫn bị soi xét, ngờ vực về việc còn mang nặng ‘tính ngoại quốc’ [chính xác hơn là ‘tây phương tính’], mẫu hình linh mục thích hợp ấy chỉ dựa trên cảm thức Á Châu về việc nên thánh và sự vô tư liêm chính, là điều phải có trong sứ vụ linh mục Á Châu. Nhà thần học Châu Á nổi tiếng Arevalo nói, “Trở nên một Giáo hội tại Á Châu” là một quan tâm minh nhiên của FABC ngay từ mới thành lập, và lợi ích hay bận tâm này vẫn đang tiếp diễn[35]. Điều cần lưu ý và ích lợi nhỏ bé của cùng mối quan tâm “Trở nên Giáo hội tại Á Châu”, cũng là sự bận tâm hay giá trị trở thành “các Linh mục tại Châu Á”. Một hình mẫu linh mục xoay quanh những nhu cầu của kỷ nguyên nào đó, trong bối cảnh khác Á Châu, sẽ vẫn mãi xa lạ và khác thường tại châu lục này. Nếu thích hợp với Châu Á, thì bất kể kiểu mẫu linh mục nào không những thấm đượm đặc tính hội nhập văn hoá, mà còn liên kết với mọi trăn trở, đấu tranh của dân tộc Á Châu đa sắc. Mọi hình mẫu linh mục nào mà xa rời bối cảnh Á Châu, thì vẫn chỉ mãi là mô hình ‘cây cảnh’ tại châu lục này!

Các dân tộc tại Châu Á đồng thuận với nhau: khát vọng Thiên Chúa, khao khát lương thực là mối quan tâm nhị diện của Giáo hội Á Châu[36]. Vị linh mục tiếp tục sứ mệnh Giáo hội như thừa tác viên tại Châu Á, tuyệt nhiên phải biết hai mối bận tâm quan trọng của Giáo hội Á Châu theo chiều dọc cũng như chiều ngang. Như định nghĩa, linh mục Công giáo là ‘người- kết-nối-với-anh-chị-em’, hay chúng ta có thể nhìn vào hai quan tâm trên theo mối tương quan chiều dọc và chiều ngang, tương ứng với mối liên kết giữa phục vụ Thiên Chúa và phục vụ anh chị em.

Theo đường hướng nguyên thuỷ của Công đồng Va-ti-can II, các giám mục Á Châu đưa ra một biến đổi luận thuyết đáng kể trong môn giáo hội học khi trình bày về “cách thức mới mẻ để trở thành Giáo hội tại Á Châu” trong Hội nghị Khoáng đại lần thứ 5 của FABC tại Bandung, năm 1990. Với Công bố Chung cuộc, các giám mục khẳng định Giáo hội tại Á Châu những năm 90 phải trở thành một “Giáo hội thông phần”, và “Hiệp thông giữa các Cộng đoàn” [số 5 và 8]. Từ kiến thức về khoa giáo hội học này đã kéo theo một điều bất di bất dịch, rằng: linh mục tại Châu Á là người sống tinh thần hiệp thông. Và Cajilig nêu ra ba tác vụ của linh mục như một người sống tinh thần hiệp thông: 1) là người thánh hiến; 2) là người phục vụ khiêm nhường; 3) là người đối thoại[37]. Lưu ý rằng ba tác vụ này cũng chính là lối diễn tả mối tương quan tương ứng của linh mục với Thiên Chúa, với anh chị em và với các thực tại Á Châu.

  1.  

2.1 Mối Tương quan với Thiên Chúa

Là bậc sống thánh hiến, linh mục tại Á Châu trước hết phải là một người của Thiên Chúa, và vì vậy, bất cứ nhãn quan linh mục nào cũng không được phớt lờ thực tại căn bản này. Một điều tiên quyết (sine qua non) cho thực tại này là linh mục phải thật sự tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa. Như vậy, ngài cần được cảm nghiệm về Người, sau đó, có thể chia sẻ với giáo dân [cũng như học hỏi từ những trải nghiệm của họ]. Tuy nhiên, cảm nghiệm của linh mục về Thiên Chúa phải được phản chiếu qua những sinh hoạt của ngài, như: cách đối nhân xử thế, cử chỉ, lối nhìn trìu mến, quan tâm và thái độ thông hiểu, và trên hết, những đánh động nhân bản khi ngài đối diện với thực tại xung quanh cùng với giáo dân của mình[38]. Ngoài ra, là ‘người cảm nghiệm Thiên Chúa’, linh mục luôn nâng đỡ, hướng dẫn giáo dân biết biện phân Chúa hoạt động thế nào trong cuộc sống thực tế của họ mỗi ngày. Nói cách khác, tiên vàn, linh mục phải trở thành ‘nhà chuyên môn về Thiên Chúa’, và đối với Á Châu đa tôn giáo, thì đây là một điều không thể thiếu. Về điểm này, các giám mục Á Châu đã trình bày trong Hội nghị Khoáng đại đầu tiên của FABC:

Mỗi ngày chúng ta xác tín rằng theo dòng thời gian, Thần Khí không đưa chúng ta đến học thuyết hỗ lốn ngờ vực nào đó (mà tất cả chúng ta đều phủ nhận), mà Người dẫn dắt chúng ta đến sự toàn vẹn – sâu sắc và hữu hình trong đặc tính –tất cả những gì tốt đẹp nhất nơi cách thức truyền thống của đời sống cầu nguyện và thờ phượng trong kho tàng di sản Ki-tô giáo [số 35].

Như Fox bình chú đúng đắn, cụm từ “của chúng ta” được trưng dẫn phía trên nói đến những di sản tôn giáo và văn hoá mang tính “Á Châu”. Thách đố trí tưởng tượng bản thân, các Giám mục quyết định hợp nhất linh đạo Đông phương với Tây phương và cầu nguyện. Theo đó, dựa trên tư tưởng của các ngài, tiến trình hội nhập văn hoá mở ra hai lối, đó là: “mang Ki-tô giáo” vào Châu Á, và “mang nét Á Châu” vào Ki-tô giáo[39]. Nhiều nơi tại châu lục, nhờ đường lối này mà phương cách bản địa [thích hợp] của việc cầu nguyện và chiêm niệm trở nên bộ phần không thể thiếu của nhiều Giáo hội địa phương Á Châu. Trong đời sống cầu nguyện, vị linh mục Châu Á phải làm quen với thực tại bản địa một cách tự nhiên và thoải mái, rồi sau đó, tạo cho đoàn chiên của ngài cũng dễ chịu và tự nhiên như vậy.

  1.  

2.2 Mối tương quan với Anh chị em

Theo định nghĩa thiết yếu của nó, linh mục Công giáo là tư tế sống độc thân. Đây là quà tặng đặc biệt của Chúa vì lợi ích cho Nước Trời, cũng như các giá trị của Nước Thiên Chúa; và thông qua thừa tác linh mục Công giáo, mọi người rõ ràng nhận ra lối diễn tả hữu hình và hữu hiệu của tình yêu và phục vụ Chúa nơi dân Người với “cả tấm lòng”. Ở phương diện chiều ngang, ơn độc thân là cách yêu thương dân Chúa, nhất là người bất hạnh, bị áp bức, bị loại bỏ, người nghèo và những ai bị ghét bỏ; mỗi khi làm điều này, các linh mục cũng nhận ra phương diện chiều dọc. Các ngài chứng kiến, yêu thương và phục vụ Chúa, đặc biệt nơi và qua ‘những ai bị tước đoạt nhân phẩm’ đang hiện diện trong xã hội chúng ta. Sau cùng, tác vụ linh mục Công giáo là ‘linh mục thừa tác’ hơn là ‘chức tư tế lễ nghi’; noi theo gương Đức Giê-su vị Thượng Tế muôn đời, linh mục Công giáo là một thừa tác viên, ‘tôi tớ’ của Chúa và của dân Người. Đây là điều mà nhà thần học dòng Tên người Sri Lan-ka Aloysius Pieris trình bày khái quát về sứ vụ môn đệ Ki-tô giáo, thích hợp và rất hệ trọng, cách riêng đến chức vụ linh mục:

Thông qua người cần giúp đỡ, và các đấng thay mặt Chúa Ki-tô, Người đã phá vỡ lề thói hằng ngày của tôi. Thiên Chúa thi hành Quyền uy của Người trên tôi, khiến tôi từ bỏ những tiện nghi, tiền tài, thời gian, sức lực của bản thân thay cho họ, và kêu mời tôi trở nên khó nghèo vì Nước Trời, nhờ đó, tôi trở thành người môn đệ của Đức Giê-su. Từ bỏ Tiền tài vì Chúa (điều răn thứ nhất) cũng là từ bỏ Tiền tài vì các đấng đại diện Người ở trần gian (điều răn thứ hai). Bởi lẽ Thiên Chúa và Người nghèo không thể tách rời như một thực tại giao ước cứu rỗi. Trên thực tế, chỉ có một Thiên Luật, đó là kính yêu Thiên Chúa nơi tha nhân (Gl 5, 14). Ở đây, thuyết nhị phân không tồn tại; bác ái là phục vụ (abad) và đây mới là sự thờ phượng đích thật[40].

Mối liên hệ nội tại giữa đời sống độc thân của linh mục Công giáo và tinh thần phục vụ [diakonia] không chỉ mang nét độc đáo Á Châu rõ rệt nơi người tận hiến và thánh thiện, mà còn là dấu chỉ chắc chắn cho niềm tin của họ. Vì thế, bất luận nhãn quan nào về chức vụ linh mục Công giáo Á Châu thì không thể [và không được!] phớt lờ điều này[41]. Hơn nữa, mối kết nối nội tại khá quan trọng tồn tại giữa tương quan của linh mục với tiền bạc và nhiệt huyết phục vụ. Tại Châu Á, người thánh thiện tương đồng với những ai không vướng bận của cải vật chất. Do đó, lòng đạo đức mang tính Á Châu hoàn toàn hoà hợp với Mt 6, 24: “không ai có thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được”. Châu lục này ngày càng chịu ảnh hưởng xu thế toàn cầu hoá, và linh mục ngày nay cũng đứng trước thách đố ngày càng trở nên ngôn sứ trong việc phân định sự khác biệt giữa ‘hữu thể’ và ‘sở hữu’, đồng thời sống liêm chính, không chút vướng bận của cải vật chất. Ngoài ra, với một Châu Á vô vàn người nghèo, linh mục [noi gương Đức Giê-su] cũng được mời gọi hiệp nhất với họ, sống đời giản dị, thanh tao. Sự giản đơn trong cuộc sống cũng là giá trị tôn giáo Á Châu, và chắc hẳn là một đặc tính rõ rệt khác của niềm tin nơi người tận hiến. Vì vậy, trước mặt linh mục là sự chọn lựa giữa tiền của giàu sang với dân Chúa [và qua họ, chọn Chúa]. Đơn giản, ngài không thể chọn cả hai, cách riêng tại Á Châu, hàng triệu người nghèo, người bất hạnh mà qua đó ngài sẽ nhận ra những diện mạo Á Châu của Đức Ki-tô.

Sau cùng, linh mục cần luôn sẵn sàng hiện diện với đoàn chiên. Ngày nay, một vài người cho rằng thời gian như thể ‘tiền bạc’ [nhờ vào tiến trình toàn cầu hoá và điểm chú trọng của nó vào chủ nghĩa vật chất và thành công], cho nên, dành thời gian với ai để xã giao hay kiến tạo những mối quan hệ thân tình giữa người với người lại bị cho là ‘không đạt hiệu suất’. Tuy nhiên, khi thực hiện thừa tác vụ ngôn sứ, bằng mọi cách, linh mục phân bổ thời gian tiếp xúc với đoàn chiên của mình, cách riêng đối với những ai đang cần giúp đỡ và bị bỏ rơi bên lề xã hội.

  1.  

2.3 Mối tương quan với những Thực tại Á Châu

Công đồng Va-ti-can II khuyến dụ các linh mục hăng hái đối thoại với mọi thực tại hiện hữu xung quanh khi trình bày:

Thánh Công đồng này ước ao đạt được các mục tiêu mục vụ nhằm canh tân trong Giáo hội, rao truyền Phúc Âm khắp nơi, và đối thoại với thế giới đương đại. Vì thế, nhiệt tình thúc giục các linh mục sử dụng mọi phương tiện thích hợp mà Giáo hội đề xuất nhằm nỗ lực cho công cuộc thánh hoá vĩ đại hơn mà ngày càng trở thành những khí cụ hữu dụng trong việc phục vụ toàn thể Dân Chúa[42].

Từ lúc khởi sự, Liên Hội đồng Giám mục Á Châu [FABC] đã quả quyết rằng sứ mệnh của Giáo hội tại mảnh đất Á Châu này phải là công cuộc đối thoại với ba thực tại chính yếu đang hiện hữu, đó là: các tôn giáo lớn Á Châu, những nền văn hoá Châu Á cổ đại và đại đa số dân nghèo Á Châu[43]. Linh mục Châu Á không chỉ nhân tố liên hệ với ba thực tại hiện hữu chính yếu này, mà là người biết cảm kích chúng, bởi vì đó là thực trạng và điều gần gũi họ.

Châu Á nổi bật với thực tế chủ nghĩa đa thuyết, tồn tại trong các tôn giáo lẫn văn hoá, vì đây là châu lục đa văn hoá và đa tôn giáo. Chính Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II nhận ra tính đa dạng phong phú của châu lục này mà ngài diễn tả vẻ đẹp cổ xưa phức tạp của vô vàn văn hoá, ngôn ngữ, tín ngưỡng và truyền thống[44]. Thông thường, mỗi văn hoá đặc thù giao thoa đáng kể với một nhóm tâm linh hay tôn giáo nào đó. Vì thế, linh mục trong bối cảnh Châu Á, tiên vàn phải nhận biết và chấp nhận chủ trương đa thuyết này như một thực tại Á Châu hiện hữu. Như Công đồng Va-ti-can II và những văn kiện huấn quyền sau đó dạy chúng ta rõ ràng rằng linh mục [với toàn thể Giáo hội] cần chân thật nhìn nhận và đón nhận nơi các tôn giáo khác cũng tồn tại ‘những hạt giống chân lý’, ‘tia sáng sự thật’. Linh mục cần xác tín mọi hoạt động của Thiên Chúa không thể nào chỉ bó buộc vào những giới hạn hữu hình của Giáo hội Công giáo định chế. Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô đã nêu ra giáo hội học chân không biện giải chẳng tồn tại ngoài một Giáo hội Công giáo định chế hữu hình; các ân sủng của Thần Khí, những dấu chỉ nên thánh, thậm chí ơn tử đạo vì danh Đức Ki-tô cũng có thể được tìm thấy ngoài Giáo hội Công giáo[45]. Nơi khác, ngài diễn giải: “Thần Khí tỏ hiện chính mình đặc biệt qua Giáo hội và mọi thành viên của Giáo hội. Ngoài ra, sự hiện diện và hoạt động của Người là phổ quát, không bị giới hạn về mặt không gian hay thời gian”[46]. Linh mục Công giáo Á Châu cần ý thức rõ rằng ngài hay Giáo hội không thể truyền lệnh cho Thần Khí Chúa, nhưng hơn cả Giáo hội và chính ngài chỉ là thừa tác viên, khí cụ, tôi tớ của Chúa Thánh Thần mà thôi, bởi lẽ Thần Khí thổi đâu mà Người muốn [Ga 3, 8]. Linh mục cần học biết cách sống đối thoại hoà hợp với các tôn giáo khác, và hướng dẫn đoàn chiên tương tự; đừng ngại ngạc nhiên vì sự hiện diện và hoạt động của Thần Khí Chúa tại những nơi thường ít mong đợi. Vì thế, linh mục cần trở thành một người đạo đức thâm sâu, và sống theo Thần Khí.

Ngày nay, chúng ta biết rõ xu thế toàn cầu hoá của những nền kinh tế thị trường đang ảnh hưởng đến người dân Châu Á một cách sâu sắc và mạnh mẽ thế nào. Một linh mục Á Châu không thể không biết mọi tác động của hiện trạng toàn cầu hoá đến giáo dân kể cả tích cực lẫn tiêu cực. Ngài cần hướng dẫn giáo dân tự bảo vệ mình để khỏi rơi vào hệ quả nguy khốn, bất nhân của thực trạng toàn cầu hoá, và cũng nên hiểu biết, cũng như thừa nhận những hiệu quả tích cực của nó. Theo định nghĩa, linh mục Công giáo cũng chính là người thúc đẩy sự sống, và như vậy, ngài không những bảo vệ sự sống con người [kèm theo các trách nhiệm và quyền lợi của con người], mà còn nắm vững tối thiểu giáo huấn căn bản của Giáo hội về mọi vấn đề liên quan đến sinh học-y tế. Do đó, ngài cần sở hữu cảm thức nhạy bén về công lý, tôn trọng nhân phẩm căn bản của mọi người. Sau cùng, linh mục được mời gọi trở nên thừa tác viên thực thi sứ mệnh của Đức Giê-su, mà sứ điệp cốt lõi là triều đại Thiên Chúa và mọi giá trị của Nước Trời đặt trên phẩm giá căn bản của mỗi con người.

Giáo hội hiến trao nhiệt huyết phục vụ đệ huynh cho toàn thế giới qua các giáo huấn xã hội được giữ gìn, dưỡng nuôi. Cố Hồng Y Joseph Bernadin thuộc Địa phận Chi-ca-go đã từng nói, Học thuyết Xã hội của Giáo hội đã và đang trở thành một trong “những bí quyết tuyệt vời được Giáo hội gìn giữ”. Linh mục, cách riêng tại Á Châu, không thể giữ kín “bí mật” học thuyết đầy giá trị này một chút nào nữa. Trong vô số cách thức cụ thể nhất để tự làm quen với học thuyết xã hội của Giáo hội, đó là đọc [ít nhất 1 ngày 1 trang!] cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội vừa mới được xuất bản. Trong phần giới thiệu chính thức Tóm lược, Hồng Y Martino nói: “thể theo yêu cầu của Đức Thánh Cha” cuốn sách này “đã được giản lược nhằm trình bày bao quát giáo huấn xã hội của Giáo hội một cách xúc tích nhưng trọn vẹn”[47]. Sách đã được hoàn tất thành công, và mọi người có thể tìm đọc. Trong Thông điệp mới đây Thiên Chúa là Tình yêu (Deus Caritas Est), Đức Giáo Hoàng đương vị Bê-nê-đíc-tô XVI quả quyết cuốn Tóm lược này đã “trình bày trọn vẹn”[48] toàn bộ giáo huấn xã hội của Giáo hội và đây chính là giáo huấn đầy năng quyền nhất về học thuyết xã hội của Giáo hội.

Như là ngôn sứ-người đứng đầu cộng đoàn, Linh mục cần nhận ra những dấu chỉ thời đại và giải thích cho đoàn chiên mình. Để được vậy, ngài cần hoà mình sâu vào bối cảnh mà ngài hiện hữu và có thể nhìn vượt lên mọi thực tại hữu hình thông thường nhờ cảm nghiệm về Thiên Chúa và Lời Chúa chiếu soi:

Linh mục triều được mời gọi trở nên ngôn sứ với ý nghĩa là một người nhìn vượt xa những gì người khác có thể thấy. Ngài phải nâng tầm nhìn vốn bị bó buộc vào các giới hạn xã hội, và nhờ chính đôi mắt của Đức Ki-tô[49] mà quan sát.   

Do đó, linh mục thật sự cần đến một linh đạo đúng đắn và cập nhật thần học vững chắc, nghĩa là ngài cần tìm ra thời gian không chỉ cầu nguyện mà còn hứng khởi tự cập nhật, đặc biệt đọc sách thường xuyên, tối thiểu một hoặc hai tạp chí thần học định kỳ. Là Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, Đức Tổng Giám mục Foley cho biết: “Lẽ dĩ nhiên, đời sống văn hoá của linh mục phải được nuôi dưỡng cần mẫn hơn nhờ đời sống tu đức bản thân. Chẳng có gì đáng tự hào khi phát ngôn rằng: “Tôi không hề đọc sách kể từ khi được thụ phong”[50]. 

Đúng vậy, trước hết, linh mục ít nhất phải nắm vững Giáo lý căn bản một cách hệ thống và rõ ràng như đã được trình bày trong Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo. Nhờ các hiệu quả tích cực của toàn cầu hoá, mà các nước Châu Á đấu tranh với nạn mù chữ, và nhiều người dân tại châu lục này ngày nay cũng được đạt trình độ giáo dục cao. Nhưng trong bối cảnh đó, linh mục không thể phớt lờ dù chỉ là kiến thức phổ biến cơ bản, ngõ hầu ngài có thể giao tế nhã nhặn với đoàn chiên của mình mọi lúc khi cần. Và đây cũng cần thiết cho việc rao giảng Lời Chúa trong cách thức xứng hợp mà theo Công đồng Va-ti-can II nhìn nhận là ‘trách nhiệm quan trọng nhất’ của vị linh mục[51]. Chia sẻ Lời Chúa cho giáo dân qua việc giảng dạy, linh mục không những cầu nguyện, học hỏi, mà còn biết quan sát và lắng nghe. Trong bài giảng, ngài không đơn thuần cố gắng diễn tả điều gì đó trong tư tưởng của mình mà thôi! Nếu một linh mục chẳng thể nào làm thoả mãn sự khát khao Lời Chúa nơi bao nhiêu người, thì chẳng khác nào nói ngài không phải là mục tử! Vì vậy, Thánh Phao-lô thốt lên rằng: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao truyền Tin Mừng”! [1Cr 9, 16]. Do đó, không nhãn quan nào về linh mục lại phớt lờ vai trò thiết yếu của ngài trong việc chia sẻ Lời Chúa cho đoàn chiên theo cách thích hợp nhất.

Sau cùng, như mọi nơi trên thế giới, Châu Á ngày nay cũng thế, chúng ta rất cần một ‘văn hoá mục tử’[52]. Chỉ thông qua văn hoá mục tử đặc biệt này mà linh mục mới có thể giữ vững căn tính thích hợp của mình, và thấy rõ những gì phải làm trong sứ mệnh của bản thân. Thánh Phan-xi-cô Át-si-si đã từng nói: “Hãy thánh hoá chính mình và rồi anh chị em sẽ thánh hoá xã hội”. Điều này đúng với sứ vụ linh mục Công giáo ngày nay ra sao?!

[1] Thảo luận chi tiết về sự tiến triển lịch sử của sứ vụ Linh mục Công giáo, x. Kenan B. Osborne, Priesthood: A History of the Ordained Ministry in the Roman Catholic Church [tạm dịch: Sứ vụ Linh mục: Lịch sử về Sứ vụ Thừa tác trong Giáo hội Công giáo La-Mã], New York: Paulist Press, 1988.

[2] Donald B. Cozzens, The Changing Face of the Priesthood: A Reflection on the Priest’s Crisis of Soul [tạm dịch: Diện mạo Đổi thay của Sứ vụ Linh mục: Suy tư về Khủng hoảng Tâm linh của Linh mục], Minnesota: The Liturgical Press, 2000, tr. 3.

[3] Xem thí dụ, Joe Mathias, “Human Formation as the Basis of Priestly Formation”, Asian Journal for Priests [tạm dịch: “Đào tạo Nhân bản như thể Nền tảng của việc Đào tạo Linh mục”, Tạp chí Linh mục Á Châu], 49: 1 (tháng 1, 2004), tr. 14.

[4] Jacob Parappally, “Trinitarian Dimensions of Christian Priesthood,” Asian Journal of Priests [tạm dịch: “Những chiều kích mầu nhiệm Ba Ngôi nơi Sứ vụ Linh mục Ki-tô Giáo”, Tạp chí Linh mục Á Châu], 56: 6 (tháng 11, 2005), tr. 3.

[5] Jacob Parappally, “Challenges to Christian Priesthood Today - II,” Asian Journal of Priests [tạm dịch: “Những Thách đố cho Sứ vụ Linh mục Ki-tô Giáo”, Tạp chí Linh mục Á Châu], 48: 2 (tháng 3, 2003), tr. 7.

[6]  x. Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, số 12.

[7] Hồng y Simon Pimenta, Priest Forever: A Collection of Homilies on Priesthood [tạm dịch: Tư tế Muôn đời: Trọn bộ các bài Giảng về Thừa tác Linh mục] [ấn bản lần 2], Mumbai: St. Paul’s, 2000, tr. 26.

[8]  Như trên (từ đây viết tắt là nt/Nt), tr. 32.

[9] Hồng y Simon Pimenta, Priest Forever: A Collection of Homilies on Priesthood [tạm dịch: Tư tế Muôn đời: Trọn bộ các bài Giảng về Thừa tác Linh mục] [ấn bản lần 2], Mumbai: St. Paul’s, 2000, tr. 25.

[10] Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 12.

[11] Hồng y Simon Pimenta, Priest Forever: A Collection of Homilies on Priesthood [tạm dịch: Tư tế Muôn đời: Trọn bộ các bài Giảng về Thừa tác Linh mục] [ấn bản lần 2], Mumbai: St. Paul’s, 2000, tr. 30-31.

[12] Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 19.

[13] Richard M. Gula, Reason Informed by Faith: Foundations of Catholic Morality [tạm dịch: Đức tin Làm chủ Lý trí: Những Nền tảng Luân lý Công giáo], New York: Paulist Press, 1989, tr. 7.

[14] Nt.

[15] Richard M. Gula, Ethics in Pastoral Ministry [tạm dịch: Đạo đức học trong Thừa tác Mục vụ], New York: Paulist Press, 1996, tr. 33.

[16] x. Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 15, 21, 32.

[17] Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Giáo hội tại Á Châu Ecclesia in Asia (1999), số 43.

[18] Michael F. Hull, “Priestly Identity and Priestly Holiness,” The Priest, July 2005 [tạm dịch: “Căn tính và Việc nên Thánh của Linh mục”, Tạp chí Linh mục, ấn bản tháng 7 năm 2005], tr. 40.

[19] Pimenta, nt, tr. 68.

[20] Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 13.

[21] x. Gerald Coleman, “Priests who Break our Trust” [tạm dịch: “Những Linh mục Đánh mất Niềm tin nơi chúng tôi”], được in lại trong The Colombo Archdiocesan Bulletin, July 2001 [Bản tin Địa phận Cô-lôm-bô, ấn bản tháng 7, 2001], tr. 89.

[22] Donald B. Cozzens, “Tender of the Word” [“Nhẹ nhàng trong Lời nói”] trong Donald B. Cozzens biên soạn, The Spirituality of the Diocesan Priest [Linh đạo của Linh mục Triều], Minnesota: The Liturgical Press, 1997, tr. 47.

[23] Donald B. Cozzens, The Changing Face of the Priesthood [tạm dịch: Diện mạo Biến đổi của Sứ vụ Linh mục], tr. 75.

[24] Nt, tr. 72.

[25] x. nt, tr. 75-80.

[26] x. Cozzens, “Tender of the Word” [“Nhẹ nhàng trong Lời nói”], Nt, tr. 43-50.

[27] Scott Russel Sanders, “The Meaning of Fidelity: It’s Carrying on with what We Believe In,” The New Leader, 16-31 August, 1999 [tạm dịch: “Ý nghĩa của Lòng Tín trung: Tiếp tục sống với những gì Chúng Tôi Tin”, Tập san Người Lãnh đạo Mới, ấn bản 16-31 tháng 8, 1999], tr. 11.

[28] Pimenta, nt, tr. 14.

[29] x. nt, tr. 14-15.

[30] x. Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 43-44.

[31] Mathias, nt, tr. 15.

[32] Mặc dù tôi hoàn toàn nhận thức rằng ‘hữu thể’ đơn giản tương đồng với căn tính, và ‘hành động’ với đường hướng, nhưng vì mục đích bài tham luận này, nên tôi tạm chấp nhận kiểu tương ứng này!

[33] Felix Machado, “Spiritual Formation: A Direction of Future Priests” [tạm dịch: “Đào tạo Tu đức: Đường hướng cho Linh mục Tương lai”] trong Vincent G. Cajilig (biên soạn), Hundred Fold Harvest...Enjoyed [tạm dịch: Mùa gặt Gấp trăm...Tận hưởng], Manila: Văn phòng Giáo dục và Tuyên uý Sinh viên trực thuộc FABC, 1995, tr. 116-117.

[34] Nt, tr. 117.

[35] Catalino G. Arevalo, “Inculturation and Theological Reflections” [tạm dịch: “Hội nhập và những Suy tư Thần học”] trong Mario Saturnino Dias (biên soạn), Rooting Faith in Asia: Source Book for Inculturation [tạm dịch: Đức tin bám rễ sâu nơi Á Châu: Tài liệu nguồn cho Hội nhập văn hoá], Quezon City: Claretian Publications, 2005, tr. 311. 

[36] x. Vincente Cajilig, “Formation for Priesthood in Asia” [tạm dịch: “Đào tạo Linh mục tại Châu Á”], Tư liệu FABC, số 92d (Tháng 1, 2000), tr. 2. Xem them Vincente Cajilig, “Continuing Formation for Priesthood in Asia” [tạm dịch: “Đào tạo Trường kỳ cho Linh mục tại Châu Á”], Tư liệu FABC, số 92e (Tháng 1, 2000), tr. 3-4.

[37] Nt, tr. 4.

[38] Không có trong bản văn gốc tiếng Anh.

[39] Không có trong bản văn gốc tiếng Anh.

[40] Aloysius Pieris, God’s Reign for God’s Poor: A Return to the Jesus Formula [tạm dịch: Triều đại Thiên Chúa dành cho Người nghèo khó của Ngài], ấn bản thứ 2, Kelaniya (Sri Lanka): Trung tâm Nghiên cứu Tulana, 1998, tr. 43.

[41] Những gì mà Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II diễn tả trong số 43 của Tông huấn Giáo hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia); x. trưng dẫn trên tại chú thích số 17.

[42] Không có trưng dẫn trong bản văn gốc tiếng Anh.

[43] x.Gaudencio Rosales và C.G. Arevalo (biên soạn), For All the Peoples of Asia: Federation of Asian Bishops’ Conferences Documents from 1970 to 1991 [tạm dịch: Dành cho Mọi dân tộc Á Châu: Các Văn kiện của Liên Hội đồng Giám mục Á Châu từ 1970 đến 1991], Tp. Quezon: Claretian Publications, 1992, tr. 14-16.

[44] x. Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Ecclesia in Asia (1999), số 4-7.

[45] x. Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Ut Unum Sint (1996), số 12-13.

[46] Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris Missio (1990), số 28.

[47] x. Hồng Y Renato R. Martino, “Presentation” [tạm dịch: “Phần trình bày”] trong Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội (tái bản), Tp. Vatican: Libreria Editrice Vaticana, 2005, tr. XXV-XXVI.

[48] Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (2005), số 27.

[49] Vincent M. Concessao, “The Call of the Diocesan Priest” [tạm dịch: “Ơn gọi Linh mục Triều” được in lại trong Uva News [Tin tức Uva], tháng 7/2005, tr. 10.

[50] John P. Foley, “What a bishop hopes for the Future of the Priesthood” [tạm dịch: “Điều mà một Giám mục hy vọng cho Tương lai của sứ vụ Linh mục”], The Priest [Tạp chí Linh mục], Tháng 9, 2005, tr. 13. 

[51] Sắc lệnh Presbytororum Ordinis, số 4.

[52] x. bài viết của tôi, “Towards a Catholic Priestly Culture”, Living Faith 5:2 [tạm dịch: “Tiến tới một Văn hoá Mục tử Công giáo”, Tạp chí Sống Đức tin 5:2] (Tháng 12, 2004), tr. 49-60.

==========

III. Các Vấn đề Quan hệ và những Nan giải của Linh mục Chi phối đến Mục vụ và Đời sống Mục tử

  • Gm. Vianney Fernando, Sri Lan-ka

Dẫn nhập

Nhiều năm trước, khi tôi còn là Tổng Đại diện, vị tiền nhiệm của tôi đã nhận lá thư từ Bề trên thượng cấp Hội dòng, giới thiệu một ứng viên trẻ tuổi đang trong giai đoạn kinh viện dòng chuyển sang Linh mục Giáo phận. Trong lá thư ấy viết ứng viên này là chàng trai trẻ tài năng, nhưng họ đã phát hiện cậu ấy không phù hợp với đời sống Cộng đoàn, cụ thể, chẳng thể kết nối với bất cứ Cộng đoàn của Dòng khi được sai đến. Nhưng vị Bề trên thượng cấp này cũng đề cập trong thư rằng cậu ấy có thể trở thành một Linh mục Triều tốt, bởi vì không phải sống trong Cộng đoàn.

Vị tiền nhiệm của tôi vốn là người tốt lành thánh thiện, không thể phát hiện tính nguỵ biện ở luận cứ này, và đã chấp nhận ứng viên ấy vào Giáo phận, cũng như phong chức linh mục. Nhưng sau đó, thật tội nghiệp cho vị tiền nhiệm của tôi, ngài phải trả giá cho sai lầm này. Kể từ động từ ‘đi’ trở thành tai hoạ khi tân Linh mục ấy không thể nào kết nối với bất cứ ai trong một thời gian dài, và đã ‘chọc giận’ mọi người.

“Sứ vụ linh mục là sống tương giao thiết yếu. Vì thế, khả năng quan trọng đặc biệt của người Linh mục chính là kết nối với tha nhân. Đây hoàn toàn là nền tảng căn bản cho một người được mời gọi chịu trách nhiệm cộng đoàn và trở nên thừa tác viên của sự hiệp thông” (Tông huấn Pastores Dabo Vobis: Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, 1992).

Suốt 24 năm kinh nghiệm Giám mục, tôi nhận thấy quá nhiều thời gian và sức lực bỏ ra để giải quyết những nan giải quan hệ mà các Linh mục trong Giáo phận gây ra – kể cả với Giám mục hay giữa linh mục đoàn hoặc với giáo dân, và cũng chẳng có gì khác thường khi gặp rắc rối với tu sĩ đang phục vụ tại Giáo xứ.

Bằng việc đưa ra một số trường hợp cụ thể liên quan đến những vấn đề này, tôi xin phép bắt đầu bài suy tư của mình. Dĩ nhiên, danh tánh nhân vật được thay đổi, nhưng mọi trường hợp sau đều thật và đã xảy ra.

SƠ LƯỢC

1.  Cha Cliff là một Linh mục thông minh, đã nỗ lực hoàn tất mọi bằng cấp chuyên môn. Cha có năng lực và làm việc theo phương pháp, nhiều ý tưởng cấp tiến, tin Giáo hội phải là của người nghèo, cho người nghèo, và với người nghèo. Ngài có lối nhìn cứng rắn về các vấn nạn xã hội dựa trên những quan điểm cá nhân. Tuy nhiên, tính bất khả khoan nhượng với mọi quan điểm khác đến từ các thành viên trong Linh mục đoàn lại rõ nét. Trong khi thực hiện tích cực thừa tác Mục vụ, dường như cha có xu hướng phán xét người khác, cách riêng với anh em Linh mục. Đối với cha, mỗi lúc đề cập đến mối tương quan với tha nhân thì chỉ có “trắng” và “đen”. Ngài quên rằng người “khác” không hẳn luôn sai hoặc luôn đúng. Điều này chẳng làm ngài ấn tượng nhận ra con người là một hữu thể hoà lẫn phức tạp giữa điều thiện và điều dữ, dễ thương ở một vài khía cạnh, nhưng khó chấp nhận ở mặt khác.

Vì những thái độ và quan điểm này, Cha Cliff trở nên cố chấp hầu hết với các anh em Linh mục. Chẳng ai chấp nhận lập trường của ngài, đặc biệt về các vấn đề xã hội cũng như giáo hội, và họ cắt đứt quan hệ với ngài, với cuộc sống ngài. Dần dần, cha bị cô lập. Dĩ nhiên, chẳng vui chút nào về hoàn cảnh cô lập này, và cha cảm thấy không thể kết nối với đa số các anh em linh mục. Cha trở nên khó chịu, và điều này ảnh hưởng đến mối tương quan của ngài với giáo dân. Các bài giảng của cha được chuẩn bị chu đáo, nhưng thông thường theo hướng chỉ trích chính quyền và những ai bất đồng với ngài. Một vị linh mục thông minh, dấn thân, năng nỗ và làm việc có phương pháp, giờ đây kết thúc trong nỗi buồn ghê gớm vì những mối quan hệ của cha mà do thái độ và quan điểm cứng nhắc của bản thân ảnh hưởng sâu sắc.

(Biến cố này dường như là một ví dụ điển hình cho ứng viên chỉ thăng tiến trong thời gian đào tạo về mặt học vấn và thần học. Tuy nhiên, thiếu sự quân bình giữa cảm tính và trí tuệ đã gây ra khiếm khuyết, thiếu hụt trong các mối quan hệ con người nơi đương sự. Cha để xúc cảm chi phối mọi thái độ và các hành vi cá nhân. Ngài không dùng trí lực để xử lý các vấn đề trong cuộc sống và sứ vụ của mình. Rõ ràng nếu mối tương quan của cha tiến triển tốt, có lẽ ngài đã trở thành kỷ vật của bất cứ cộng đoàn nào rồi).

2.  Tính cách cha Jim có vẻ dễ chịu, nhưng tương quan với các anh em Linh mục lại rất hời hợt. Cha có chương trình nghị sự riêng, và ngụy trang bản thân là người niềm nở với hang loạt cử chỉ ấn tượng. Nhưng không một ai có thể biết được con người thật của ngài. Cha luôn bận rộn và không ưu tiên trách nhiệm công việc mục vụ. Ngài đi nhiều và không tham gia các sinh hoạt mục vụ thiết yếu tại Giáo xứ rộng lớn của mình. Giáo dân rất khó gặp cha, thậm chí ngài bỏ quên nhiều lời hẹn. Ngay cả nhu cầu mục vụ thông thường, giáo dân phải cố gắng tìm ngài.

Cha Jim ngạc nhiên khi những thiếu sót này nhắm vào mình. Cha quả quyết bản thân làm việc rất hệ thống. Cha yêu cầu rất nhiều khi nói đến các giáo dân cực kỳ nghèo khổ và bị loại bỏ, trong khi không tự kỷ luật bản thân mà chỉ đòi hỏi đoàn chiên mình. Bàn tới các mối liên hệ mục vụ, cha lại ít quan tâm, và khó thương cảm. Nếu lời than trách đến tai, cha trở nên cố chấp và thường trả đũa lại ai đã than phiền. Cha phản ứng gay gắt với họ.

Dù được nhắc nhở và khuyến cáo nhiều lần, cha vẫn phản kháng giáo dân trong trách nhiệm mục vụ.

Sự thể thiếu hụt trầm trọng trách nhiệm mục vụ dường như hiển nhiên đối với ai khác, chứ cha không nhận ra chính nơi mình. Lời than phiền lặp lại thường xuyên từ giáo dân rằng các bài giảng của ngài hầu như vạch lá tìm sâu, phanh phui lỗi lầm của họ, và toàn ngôn từ cạnh khoé có tính biện minh, nhưng gây thương tổn. Cha Jim có thể gây ra sụp đổ tại bất cứ cộng đoàn Giáo xứ nào, và trở thành cái gai cho vị Giám mục Giáo phận nào đó!

(Thiếu thái độ xét mình dường như là nguyên nhân cội rễ cho các nan giải quan hệ của Cha Jim. Có thể lưu ý rằng thiếu hụt khá nghiêm trọng động lực và tinh thần cam kết dấn thân mục vụ nơi ngài. Những phân mảng này lại chẳng được giải quyết trong thời gian đào tạo. Không gì tệ hơn khi phải đối diện với một linh mục chẳng hề chấp nhận giới hạn bản thân và vì thế không sẵn sàng thay đổi. Nói cho cùng, thừa tác vụ cũng như giáo dân phải chịu khổ rồi).

3.  Cha Young là một Linh mục sáng giá, được mệnh danh là từ điển sống bách khoa toàn thư. Ngài chú tâm tỉ mỉ đến trách vụ học vấn. Nhóm các cha bạn trong Linh mục đoàn ngưỡng mộ những thành quả chuyên môn của ngài. Tuy nhiên, cha căm phẫn với mọi quyền lực khởi đầu từ Giám mục. Không hẳn với con người của vị Giám mục, nhưng ngài không thể nhượng bộ bất kỳ ai có thẩm quyền. Lập trường chống bán quyền hạn mạnh mẽ của cha đã ngăn trở tính hiệu quả nơi công việc mục vụ. Thái độ tiêu cực của cha về vấn đề này dường như ảnh hưởng xấu đến các cha trẻ trong Linh mục đoàn, mà họ từng ngưỡng mộ về kiến thức học thuật và đóng góp của cha. Thậm chí, ngay cả lĩnh vực chuyên môn, cha cũng không hoàn toàn cộng tác bất cứ đề án nào, mà ngài phải khẩn khoản nài xin những bậc có thẩm quyền. 

(Có lẽ Cha Young là một nạn nhân của những hoàn cảnh sống trong thời kỳ lớn khôn. Thái độ chống bán thẩm quyền có thể bắt nguồn từ trải nghiệm khi còn trẻ về hình ảnh của một người cha chuyên quyền, hằng luôn gay gắt với con cái. Do đó, cha bị tổn thương nặng nề về mặt tâm lý, và dẫu cho ngài có những bước tiến đột phá trong lĩnh vực trí tuệ đi chăng nữa, thì vết thương lòng vẫn chưa được chữa lành, cũng như quá trình đạo tạo nhân bản của cha bị thiếu hụt, và không giúp ngài vượt qua cảm tính này. Vì thế, tính hiệu quả nơi sứ vụ quý giá của cha bị cản trở nghiêm trọng, do bản thân không có khả năng kết nối với các bề trên một cách trưởng thành và vô tư).

4.  Cha Michael là một Linh mục với trí tuệ trung bình. Nhìn chung ngài là Cha xứ khá tốt lành. Ngài không quá sáng tạo trong việc mục vụ chăm sóc đoàn chiên, khá chậm chạp, không dám mạo hiểm với những sáng kiến mục vụ. Ngài rất hợp với “hình mẫu lễ nghi” trong thừa tác Linh mục. Cha Michael thuộc týp người hướng nội, nên ít bạn bè trong Linh mục đoàn. Thường dễ nhục chí, chán nản trước những thất bại hay thách đố, do đó cha không ngần ngại xin đổi bài sai. Nhưng một lần nọ, khi khủng hoảng xảy ra, ngài lại xin trì hoãn việc thuyên chuyển, và lẽ dĩ nhiên tạo rắc rối cho Giám mục.

Dường như cha gặp khó khăn kết nối với cộng đoàn nữ tu tại Giáo xứ. Thậm chí chỉ một sự hiểu lầm mục vụ, mà ngài không do dự cắt đứt mọi mối quan hệ với các Sơ đang làm việc tông đồ nhiệt thành. Khi dâng Thánh lễ tại giáo điểm truyền giáo mà có các Sơ cư ngụ, cha từ chối ăn uống với họ, ngay cả dùng một tách trà tại Cộng đoàn. Ngài vội vàng quyết định cấm các Sơ làm việc mục vụ thông thường của mình. Cha Michael không ngần ngại dùng toà giảng mà chỉ ra những sai phạm của các Nữ tu. Tình hiệp thông rạn nứt nghiêm trọng giữa cha và cộng đoàn Dòng tu đã ảnh hưởng quá nhiều tiêu cực đến cộng đoàn Giáo xứ. Giáo dân nói chung cảm thấy chướng tai gai mắt, họ mất niềm tin nơi Cha xứ. Mức độ tin cậy vào bài giảng của ngài bị xói mòn. Thật khó có thể sửa chữa hư hoại này, khi giáo dân không còn kính nể kể cả Linh mục cũng như cộng đoàn Nữ tu, mà họ vốn là những người phải làm gương sáng cho sự “hiệp thông”.

Hiện tượng chung này xảy ra nhiều nơi các Linh mục, chỉ vì chút hiểu lầm với Bề trên hay cá nhân thành viên của một cộng đoàn dòng tu, mà không hề do dự tẩy chay họ và gây ra biết bao nhiêu bê bối cho Giáo xứ.

(Một lần nữa, các vấn nạn của cha Michael liên quan đến sự non nớt về mặt cảm tính, và chính điều này đang huỷ hoại mọi quan hệ, cũng như thừa tác vụ. Tuy im lặng, nhưng cha Michael có tư tưởng riêng khi đề cập tới các mối tương quan, và cha không thể nhận ra điều bất nhất trong các hành vi bản thân, ngay cả khi chỉ rõ mọi vấn đề cho ngài một cách hợp lý. Rõ ràng, trên phương diện nhân bản, tính cách ngài cần được trưởng thành hơn nhiều.)

5.  Cha Charles là một người làm việc âm thầm theo kiểu ‘kỵ binh đơn thân độc mã’. Ngài hoạt động chăm chỉ, và chịu gánh vác trách nhiệm. Tuy nhiên, các mối quan hệ nhân bản cần được phát triển hơn. Trước hết, cha thuộc trường phái “đa nghi”, nên khó lòng tin tưởng người khác. Cha rất thận trọng tìm hiểu những ai đến với ngài.

Chiều hướng quá thận trọng này ngay lập tức tạo ra rào cản trong các mối quan hệ. Thái độ hoài nghi của cha chi phối cả những người giúp việc trong nhà xứ, và đó là kết quả họ nhanh chóng rời bỏ sau khi giúp ngài một thời gian ngắn. Thậm chí với anh em Linh mục, cha cũng rất “thận trọng” khi bàn tới những việc nghiêm túc. Vì thế, ngài tạo cảm giác xa cách và vô hình chung gây tổn thương đến các anh em Linh mục vì thái độ đa nghi và thiếu sự cởi mở.

Thái độ này cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ của cha với những vị có thẩm quyền. Cha dứt khoát đoạn tuyệt với họ như thể không một ai hiểu được điều gì đang diễn ra trong chính tư tưởng của bản thân. Nhìn chung, một Linh mục với tính cách thế này thì không thể cởi mở với Giám mục được, bởi vì rõ ràng cha chẳng hoà hợp với một ai.

(Việc thiếu “trưởng thành nhân bản” một lần nữa được nhìn thấy ở đây, nếu không đã là một linh mục tốt lành rồi. Bất luận nhiều lần Giám mục kêu gọi cải thiện các mối tương quan với anh em linh mục và mọi người, thì cũng có thực hiện, nhưng còn quá ít. Ai cũng có thể thấy được tính hư hoại mà do não trạng “đa nghi” gây ra, nhưng đương sự dường như không nhận ra bản thân cần phải vượt qua mọi thiếu sót trong cách hành xử. Kết cuộc, Giám mục phải hao tổn quá nhiều sức lực, thời gian để dàn xếp những tổn hại mà do chính hành vi thiếu trưởng thành này gây ra.)

  1.   Cha Philip là một Linh mục trẻ đầy tài năng. Ngài hoạt ngôn với tính cách nổi trội thiên phú. Tuy nhiên, theo bản lượng giá thời kỳ đào tạo, cha luôn bị nhận xét là người “lảng tránh” và không cởi mở. Chẳng mấy ai có thể hiểu rõ con người thật của ngài. Dường như cha có chương trình cá nhân ngay cả thời gian ở Chủng viện. Dù linh đạo của cha “hơi hướng về phong trào canh tân đặc sủng Thánh Linh”, nhưng lại có nhiều cáo buộc khác thường rằng ngài thân thiết với các cô gái trẻ mà chẳng chút lành mạnh. Vì những lời cáo buộc này mà lễ thụ phong Linh mục của cha bị trì hoãn. Nhưng cuối cùng, cha cũng được chịu chức trước khi rơi vào tình cảnh rắc rối nghiêm trọng dài vì đã quan hệ tình dục với một phụ nữ trẻ, và kết cuộc với vô vàn hậu quả khôn lường. Theo cuộc điều tra chi tiết, mối quan hệ này dường như đã có khi ngài còn là chủng sinh. Dù được đào tạo trong thời gian dài, nhưng các vấn đề này không được giải quyết, và cứ thế tiếp diễn cho đến khi biến thành thảm hoạ không lâu trước lễ chịu chức Linh mục. Tính bất khả tương thích của mối quan hệ như thế với lời cam kết sống độc thân đã lộ rõ nơi cha Philip.

(Khi một ứng viên bước vào chủng viện, trên vai mang nhiều “túi đồ” đầy vết thương cảm tính chưa được chữa lành, đã kiềm hãm sự trưởng thành và tính thăng tiến. Hầu như chúng bị chôn vùi, cho nên việc rèn luyện nhân bản cần hỗ trợ ban đào tạo “khai quật” những nhu cầu cảm tính này và xử lý. Một linh đạo đào tạo đích thật không thể nào thiếu sự thăng tiến tương thích hiệu quả, bao gồm cả việc tự nhận thức bản thân, tự biết bản thân và tự bộc bạch. Như nhà thần bí dòng Đa-minh, Meister Eckhart nói: “để tiến sâu vào tận cùng sự vĩ đại nơi cõi lòng của Thiên Chúa, trước hết, chúng ta phải hết sức nỗ lực, ngõ hầu bước sâu vào cõi lòng của chính mình đã”.)

Hơn cả những nhận xét ngắn gọn trong mỗi trường hợp, tôi không muốn phân tích chi tiết từng cá nhân, bởi lẽ tôi chẳng phải là nhà tâm lý học. Nhưng dự định cũng như nhận xét trên chính là mục đích mà tôi muốn làm sáng tỏ chủ đề. Những vấn nạn mà từng cá nhân gây ra có thể quy cho vô số nguyên nhân như: tính khí, thiểu năng phán đoán, thiếu tự chủ, cảm nghiệm thời thơ ấu. Tuy vậy, tất cả những bất lợi này ắt hẳn sẽ giảm thiểu rất nhiều nếu chú ý hơn về quá trình phát triển cảm tính của ứng viên trong thời kỳ đào tạo. Một điều chung xuyên suốt mọi trường hợp trên, đó là sự non nớt về mặt cảm tính và thiếu hụt đào tạo hiệu quả.

Linh mục được mời gọi làm người lãnh đạo. Để trở thành một người đứng đầu hữu hiệu, giữa vô vàn phương cách không thể thiếu được, đó là ‘những kỹ năng của con người’. Các kỹ năng này được chỉ phát triển trong môi trường đào tạo, nơi đó chú trọng không những thăng tiến trí tuệ, mà còn cho cả sự trưởng thành cảm tính và xã hội nữa, hoặc có thể gọi là trí tuệ cảm tính và trí tuệ xã hội. Những thập niên gần đây, ngay cả trong thế giới tập đoàn công ty, cũng yêu cầu thay đổi đáng kể cho vai trò lãnh đạo. Lãnh đạo chẳng phải cai trị, mà nó liên quan đến nghệ thuật thuyết phục mọi người cùng nhau làm việc hướng tới một mục tiêu chung. Thời kỳ lôi kéo hay kiểu “ông chủ khai hoang” đã qua; những ai trình độ kỹ thuật cao trong kỹ năng giữa người với nhau mới là tương lai của các tập đoàn.    

Phần tiếp theo đây, tôi sẽ dùng các nguồn văn từ giáo hội cũng như xã hội để minh hoạ cho các khía cạnh mới mẻ nổi cộm trong quá trình tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề quan hệ, mà chúng định đoạt loại hình nào nan giải của linh mục trong khi thực hiện sứ vụ, tương tự như những trường hợp đã trình bày.

SỨ VỤ LINH MỤC LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG MỐI TƯƠNG QUAN

Một ứng viên được lãnh nhận ấn tính nhờ bí tích Truyền chức Thánh, không phải hưởng đặc quyền đặc lợi, nhưng để hoà nhập vào mạng lưới của những mối tương quan. Linh mục thừa tác có vị thế trong cộng đoàn như một thành viên của Giáo hội. Cũng như bao nhiêu người giáo dân khác, linh mục được khai tâm, gia nhập vào Giáo hội nhờ bí tích Thanh tẩy, được chịu phép Thêm sức và Thánh thể. Hơn nữa, qua bí tích Truyền chức Thánh, ngài đứng trước cộng đoàn như một thừa tác viên của mọi người, cho mọi người và vì mọi người. Do đó, căn tính của Linh mục gắn chặt sâu sắc với cộng đoàn. Ngài được nổi bật giữa mọi thành viên của cộng đoàn nhờ vào cách thức mà ngài kết nối với họ thế nào. Căn tính linh mục hoàn toàn nói đến vị trí của ngài trong cộng đoàn, chứ không phải tách rời khỏi cộng đoàn. Nó quy chiếu trọn vẹn cách thể mà ngài đại diện cho cộng đoàn trong vai trò đặc thù, thừa tác viên có chức thánh (Markham & Repka, 1997).

Điều này không nói về địa vị đặc biệt hay trổi vượt vì đặc lợi nào. Đặc tính bí tích chẳng phải là lời yêu sách cá nhân, nhưng là trách nhiệm cụ thể của thừa tác viên có chức thánh trong mối tương quan với Đức Ki-tô và cộng đoàn.

Chúa Giê-su là nhân vật trọng tâm trong mối tương quan này. Cuộc sống và sứ vụ của Người hoàn toàn thích ứng với các mối quan hệ. Người tái thánh hoá đời sống trên mọi cấp độ – cá nhân, xã hội, kinh tế, chính trị và tôn giáo. Và những mối tương quan được sắp xếp lại một cách trật tự dưới ánh sáng, theo nhãn quan của Người về cộng đoàn là niềm ‘Hiệp thông’ – Nước Trời. Qua Mầu nhiệm Vượt qua, Thần Khí được ban cho chúng ta để tiếp tục tái sắp đặt các mối tương quan này một cách trật tự.

Vì thế, thay mặt Đức Ki-tô (in persona Christi), vị Linh mục thông dự đặc biệt vào việc điều phối, sắp xếp trật tự các mối quan hệ đúng đắn. Như Đức Ki-tô, ngài thực thi vai trò gắn kết với lối nhìn của Đức Ki-tô về cộng đoàn cũng như về Nước Trời.

Linh mục trong sứ mệnh, không hề thụ động hay tham dự vào sứ vụ một cách riêng tư cá nhân, nhưng thông dự chung tích cực với Chúa và theo Chúa. Căn tính linh mục là được chọn để phục vụ trong Nước Chúa và cho thế giới này.

Đồng thời, thay mặt Giáo hội (in persona ecclesiae), linh mục thực thi vai trò trong cộng đoàn, hay trước cộng đoàn, cả hai đều đòi buộc phải có nhận định mục vụ trường kỳ. Vị Linh mục đứng vững như một Lăng trụ cho cộng đoàn, phản chiếu mọi khía cạnh của đời sống và chân lý nơi họ. Ngài phục vụ giáo dân, chứ không chiều theo ý thích của họ.

Một tương tác năng động: Linh mục lắng nghe  > những lời đáp > những thách thức > những hậu thuẫn

Linh mục và cộng đoàn cảm nghiệm sự thăng tiến trong việc trưởng thành, nên thánh và những gì hệ trọng. Ngài chẳng phải ở đó để làm hài lòng mọi người, nhưng đúng hơn, tận dụng mọi quà tặng ân sủng dưới nhãn quan sứ mệnh. Là linh mục, ngài được đặt để và trao phó thực hiện điều này – ‘đó là thực thi “Lệnh truyền” của Bí tích Truyền chức Thánh’.

TƯƠNG QUAN VỚI GIÁM MỤC

Cha Roger A. Statnick nói đến Mối tương quan giữa Linh mục – Giám mục với một vài suy tư khá hợp lý. Bản chất của liên đới này chỉ được hiểu dưới ánh sáng, theo ý nghĩa của bí tích Truyền chức Thánh, và được đặt trên nền tảng của thực tại thần học.

Các Giám mục đều có tính cách, triết lý sống và suy tư thần học khác nhau, nhưng Linh mục thường giản lược mối tương quan với Giám mục dựa trên việc yêu thích hay không ưa. Vai trò của Giám mục là nuôi dưỡng tình hiệp thông, cũng như chăm sóc mọi người được sống trong Thần Khí và nhờ Thần Khí. Vì vậy, mối liên đới này bắt nguồn từ cội rễ của mầu nhiệm Hiệp nhất Ba Ngôi Thiên Chúa, là mối tương quan sâu sắc – có thể nói sâu sắc nhất trong đời sống đức tin của chúng ta.

Nhờ những đặc sủng, Giám mục Giáo phận chia sẻ với các vị thừa tác viên có chức thánh trong việc thực thi lệnh truyền. Như thế, căn tính Linh mục định hình nơi mối tương quan độc đáo mà ngài liên đới với Giám mục tại Giáo hội địa phương.

Ngày nay, chúng ta thường nói đến ‘thụ phong’ của Giám mục, chứ không nói về ‘lễ thánh hiến’ của ngài. Thay đổi thuật ngữ phản ánh một chuyển biến lớn trong tư tưởng của Giáo hội. Trước kia, người ta tin rằng Giám mục là ‘Siêu-Linh mục’. Sự khác biệt giữa Linh mục và Giám mục được nêu ra không dựa trên lý chứng thần học cho bằng tính thẩm quyền cơ cấu chính thức. Trước đó, vai trò chính yếu của Giám mục được xem là vị có quyền tài phán và quyền hành. Sau Công đồng Va-ti-can II, chúng ta nói đến vai trò của Giám mục như một thừa tác viên được ‘thụ phong’. Ngài được ghi ấn thiêng nhằm điều phối mọi đặc sủng (xuất phát từ thuật ngữ ‘đặt để, sắp xếp’ [ordinare]) trong Giáo hội địa phương. Ngài được thụ phong, trở nên thành viên trong ‘Hiệp đoàn’ Giám mục, và coi sóc Giáo hội địa phương hay Giáo phận. Cũng như Đức Ki-tô, trách vụ của ngài là kiến tạo những mối tương quan thánh thiện.

Giám mục thực hiện sứ vụ này nhờ kêu mời cộng tác, chia sẻ đặc sủng (ơn Chúa ban); ngài hiệp lực với mọi đặc sủng của giáo dân, nam nữ tu sĩ hay giáo sĩ, ngõ hầu phục vụ cho lợi ích của Cộng đoàn và thi hành sứ mệnh. Ngài phải dựng xây tình hiệp nhất giữa các linh mục trong giáo phận nói riêng, thay vì tạo tính cạnh tranh, thì Giám mục kiến tạo tinh thần hỗ trợ, cộng tác với nhau. Hơn bao giờ hết, những ai lãnh đạo mục vụ ngày nay phải thấm nhuần lòng khát khao và sở hữu thái độ đặt để một trong những mục tiêu hàng đầu: nâng đỡ, duy trì ơn ích và đặc sủng của mọi người theo sự hướng dẫn, nếu không, họ chỉ giỏi làm, nhưng không phải là người cổ võ tài ba.

Thậm chí trong vấn đề trao bài sai cho các Linh mục, Statnic (1999) đúng đắn cho rằng Giám mục phải tuyệt tối giữ kín. Các Linh mục thường cảm nhận bài sai như trao quyền năng cho họ, chứ không phải cách thức điều phối mọi đặc sủng vì lợi ích của toàn thể Giáo hội. Vẫn còn tồn đọng xu hướng sợ hãi do bài sai hay thuyên chuyển, và có thể các cha theo chủ trương cá nhân, chỉ nghĩ đến tư lợi, đến bản thân mình khi được biết thời gian thuyên chuyển.

Điều cần thiết hơn hết là tạo ra bầu khí nơi sứ vụ cộng tác. Thuyên chuyển Linh mục có thể tạo ra nhiều cơ hội cho mọi phía liên quan, nhằm củng cố tình hiệp thông với nhau, giúp họ đặt ra những vấn đề liên quan đến cùng một sứ mệnh, đặc sủng thiết yếu, và mọi người chung tay cộng tác thế nào. Qua đối thoại và phân định, Giám mục cố gắng tìm hiểu nếu nhìn chung việc thuyên chuyển giúp cộng đoàn thăng tiến hơn. Do đó, ngài làm với cả tinh thần trách nhiệm của mình, ngõ hầu ‘điều phối, sắp xếp’ mọi đặc sủng của các Giáo hội địa phương.

Trong bối cảnh điều hướng đặc sủng, từ ngữ chủ trương giáo sĩ và tham vọng có lẽ giúp ích cho chúng ta hiểu rõ chân tướng. Chủ nghĩa giáo sĩ ảnh hưởng đến cả Giám mục lẫn các linh mục. Alexander Schemen trong Tạp chí chuyên môn đã trình bày “chủ trương giáo sĩ này bóp nghẹt, thâm nhập vào đặc tính thánh thiện toàn vẹn của Giáo hội; nó đặt quyền uy lên trên nhằm kiểm soát, dẫn dắt và điều hành; năng quyền cử hành các Bí tích nói chung trở thành uy quyền, một thứ “quyền hành được ban cho tôi”. Chủ nghĩa giáo sĩ luôn khiến lệch lạc chức vụ và tự mãn, ăn mòn đời sống trưởng thành thiêng liêng cũng như cảm tính của linh mục, Giám mục hay phó tế trong mạng lưới chằn chịt của nó. Bằng trực giác, giáo dân cưỡng lại các xu hướng trịch thượng bề trên và độc đoán nơi các linh mục mà họ đã thất thế trước chủ trương giáo sĩ này. Linh mục chuyên quyền thường giận dữ và thất vọng. Còn chủ thuyết giáo sĩ ngăn trở truyền thông giữa những người chân thật và nói cho cùng nó khiến giáo sĩ cô lập.

Một linh mục kiêm nhà tâm lý học đưa ra đánh giá rằng: “tương tự như tính dục, tham vọng là trực giác căn bản của con người”. Với lễ phục, mũ mão cân đai và quyền lực, mọi phần thưởng mang tính cơ cấu đều được theo đuổi trong bối cảnh hiện nay. Trong văn hoá giáo sĩ phong kiến, nơi mà nhiều linh mục vẫn còn sống, cử động và làm việc, thì họ trông chờ vào một cái gật đầu đồng ý của Giám mục, một ánh nhìn ấm áp của ngài sau đó. Trong lúc Giám mục phải thực hiện nghĩa vụ khuyến khích, chuẩn thuận và nhận xét mọi việc tốt đẹp của một linh mục, nếu cha ấy chỉ ao ước được chấp thuận “thăng tiến” về mặt con người, thì có lẽ điều này sẽ ngăn trở cha thật sự trưởng thành.

Giám mục là tôi tớ trước nhất và là người kiến tạo hiệp thông trong Giáo phận. Trên thực tế, Giám mục và các linh mục hiện hữu như tình “hiệp thông nhiệm tích” (communio sacramentalis), mà nó vốn được thông phần vào chức Tư tế của Đức Ki-tô, bất luận mức độ khác nhau thế nào, cũng như nơi nhân đức của sứ vụ thừa tác và sứ mệnh tông đồ.

TƯƠNG QUAN VỚI LINH MỤC ĐOÀN

Khi được thụ phong, ứng viên ấy được trở nên thành viên của một nhóm gồm các linh mục đang phục vụ tại Giáo hội địa phương. Nhóm này được gọi là Linh mục đoàn (Presbyterium),  là một thực tại thần học. Nhờ ơn nơi bí tích Truyền chức Thánh, các linh mục được thông phần vào vai trò của Giám mục để điều phối, sắp xếp mọi đặc sủng trong Giáo hội địa phương. Họ không đơn thuần là một ‘nhóm bạn thân’ hay bạn cùng khoá, mà được thông dự vào ‘bí tích Truyền chức Thánh’ và cả nhóm cùng san sẻ với những quan tâm của Giám mục cho toàn thể Giáo hội địa phương. Họ cam kết làm việc với nhau cũng như với Giám mục; và mối dây liên kết này không thể tách rời giữa Giám mục và Linh mục trong Giáo phận – với mục đích định hình từ mối tương quan của họ với Giám mục và với nhau. Nếu một linh mục tự tách biệt khỏi Giám mục – về mặt thể lý, cảm tính, tâm lý, tu đức, thì ngài cắt đứt mối dây liên kết sống động với Giáo hội và với Đức Ki-tô.

Như chúng ta biết vì một lí do nào đó, thật sự hay chỉ đơn thuần trí tưởng tượng, mà các linh mục cách biệt với Giám mục, gây tổn hại đến giáo dân, do từ chối nhắc đến tên của đấng bản quyền trong kinh nguyện Thánh Thể!!! Thông thường, bản thân Giám mục cũng phải chịu trách nhiệm về tình cảnh ấy, có lẽ vì thiếu đối thoại hoặc sai lầm trong biện phân các đặc sủng.

Căn tính hàng đầu của linh mục là thay mặt Đức Ki-tô (in Persona Christi) và thay mặt Giáo hội (in Persona Ecclesiae). Căn tính này định hình trong mối tương quan độc đáo giữa linh mục với Giám mục tại Giáo hội địa phương. Trong Thần Khí, sợi dây liên kết qua Giám mục Giáo phận – không như loại hình mẫu quản trị thế giới, mà nơi đó Giám mục đóng vai trò của một CEO (tổng giám đốc điều hành). Đúng hơn là, cùng với Giám mục và dưới sự hướng dẫn của Giám mục, các linh mục thực thi sứ vụ trên tinh thần cộng sự và tham vấn.

Linh mục đoàn không chỉ thể hiện ‘tình huynh đệ’ giữa các linh mục, nhưng nhờ tình đệ huynh hỗ trợ mọi thành viên trên mọi bình diện xã hội, tu đức hay những lợi ích mà họ san sẻ. Tuy điều này rất quan trọng, thế nhưng tiên vàn, Linh mục đoàn hiện hữu vì một lí do khác. Tất cả linh mục của một Giáo phận đều chia sẻ trách nhiệm của Giáo hội địa phương và Sứ mệnh của Giáo hội – tương tự họ san sẻ trách nhiệm ấy với Giám mục Giáo phận. Chính vì thế, mọi thành viên trong Linh mục đoàn đòi buộc gắn bó tình huynh đệ sâu sắc với nhau, dựa trên cùng một mục tiêu là tích cực thực hiện sứ mệnh của Giáo hội địa phương.

Lưu tâm và hỗ trợ lẫn nhau, hợp tác và cộng sự cần thiết để thực hiện vai trò lãnh đạo trong Giáo hội, cùng với Giám mục và dưới sự hướng dẫn của Giám mục. Phải xác định rõ rằng Linh mục đoàn hiện hữu vì lợi ích của Giáo hội, chứ không vì tư lợi. Do đó, cách cư xử tự phục vụ như lời nói và hành động tiêu cực, lời đồn thổi ác ý, tham vọng, lừa dối, quản lý tài chính tồi tệ, lạm dụng tình dục trẻ em và mọi vi phạm đến tình dục khác huỷ hoại sức mạnh từ sứ mệnh và cuối cùng mọi mối liên kết được tạo ra nhằm phục vụ, thực hiện sứ mệnh ấy bị tan vỡ. Điều này để lại một giáo phận sa ngã đồi bại luân lý và vô dụng trong sứ vụ.

TƯƠNG QUAN VỚI ĐOÀN CHIÊN

Đây là một lĩnh vực quan trọng khác của ‘niềm hiệp thông’ mà các linh mục đã cam kết phục vụ và nỗ lực kiến tạo.

Sự việc này căng thẳng như thể ‘bánh xe ma sát xuống mặt đường’, mà linh mục phải quản lý cả chuỗi hệ thống của vô số quan hệ phức hợp của nó, bao gồm các mối tương quan cá nhân. Mọi quan hệ khác sẽ phụ thuộc vào cách mà linh mục tự huấn luyện bản thân xử lý các tình huống cá nhân ra sao.

Căn tính của Linh mục Triều không thể nào tách rời khỏi mối tương quan với Giám mục Giáo phận thế nào, thì căn tính của ngài cũng kết nối với dân Thiên Chúa trong Giáo hội địa phương như vậy. Được biết với vai trò là thành viên Giáo hội, linh mục đứng vững giữa và trước cộng đoàn như một người tôi tớ-lãnh đạo dưới quyền của Giám mục. Ngoài ra, linh mục và Giám mục cùng nhau điều phối các mối quan hệ đúng đắn, thì sứ mệnh sẽ phát triển vượt trội, không giới hạn trong tính cánh, khả năng quản trị năng động hay những nhận định khác.

Andrew Greeley phận biệt giữa “người Lãnh đạo công cụ” (Intrumental Leader) và “người Lãnh đạo biểu lộ” (Expressive Leader) như sau: “người Lãnh đạo công cụ chu toàn công việc, tổ chức, điều hành, hoàn thành trách vụ. Họ là nhà hoạt động, người hoạch định và đưa ra quyết định.

Còn “người Lãnh đạo biểu lộ lại quan tâm về toàn cảnh và lưu tâm đến mọi người dưới sự dẫn dắt của mình hơn. Họ xác quyết tôn chỉ của cộng đồng phải rõ rệt và nhuệ khí của mỗi thành viên phải ở tầm cao. Họ soa dịu cảm giác tổn thương, trấn an những ai đang gặp rắc rối, động viên người yếu đuối, hoà hợp với người oán giận và tạo cảm hứng cho những ai thất vọng, chán nản”.

QUAN HỆ CÁ NHÂN ĐỐI TRỌNG VỚI QUAN HỆ CHỨC VỤ

Linh mục, cách riêng tân linh mục, trong các mối quan hệ thường cảm thấy an toàn, được bảo bọc và được chăm sóc khi thực hiện sứ vụ theo kiểu mẫu cơ cấu cộng đoàn, như liên đới với Giám mục, cha Tổng Đại diện, cha Quản lý, Giám đốc Nhân sự, các vị có Thẩm quyền khác, cũng như các cha đặc trách, giám sát nhiều loại công việc Tông đồ. Dựa trên cách thức trong hình mẫu cơ cấu này, thì hầu hết những mối tương quan trên sẽ tốt đẹp. Nói cho cùng, chúng ta được đào tạo trong Chủng viện nhằm tương thích với cơ chế phẩm trật này. Tuy nhiên, từ kiểu mẫu cơ cấu chiếm ưu thế, cảm thức gắn kết có thể phai nhạt, và có lẽ sẽ diễn ra nhanh hơn đối với một ít người. Vì thế, vài linh mục bắt đầu cảm thấy không được quan tâm, bảo bọc chu đáo như trước nữa, họ trở nên lung lay trong vai trò đảm nhiệm và bắt đầu cảm thấy không thuộc về Giáo phận, thậm chí không thuộc về Linh mục đoàn nữa.

Thời gian cứ dần trôi, có thể linh mục bắt đầu ước ao một kiểu mẫu gắn kết “mang tính cá nhân hơn”, mà nơi đó sự an toàn, đảm bảo đến từ cảm thức được ngưỡng mộ và được quan tâm. Tuy nhiên, dù ước muốn loại hình kết nối “cá nhân” ấy, nhưng nhiều linh mục không có các kỹ năng cần thiết để vượt qua giai đoạn chuyển tiếp.

Trong bối cảnh này, cha Clark (1986) nói: “tôi không nghi ngờ là Sứ vụ Linh mục Giáo phận có thể hoàn toàn tồn tại như một thực thể cơ cấu. Tôi cũng chẳng mong đến ngày khi tất cả cảm thức kết nối của chúng ta trở thành cá nhân độc quyền”; cha thêm rằng để duy trì nó, ắt hẳn phải mất nhiều năng lượng. Tuy nhiên, cha Clark quả quyết “chúng ta cần quân bình, nhưng sự quân bình ngày nay cần được bổ sung để tiếp cận một cách cá vị hơn”.

Ở điểm này, chúng ta thật sự bắt đầu chú trọng đến vô vàn vấn đề và vấn nạn liên quan đến mối tương quan mà vị linh mục đang phải đối diện. Từ lòng mẹ, chúng ta vốn có bản năng kết nối và kiến tạo quan hệ với người khác.

Trong tác phẩm ‘Being Sexual and Celibate’ (tạm dịch: ‘Hữu thể Tính dục và Sống Độc thân’), cha Clark đưa ra một số tư tưởng sâu sắc và giá trị đáng kể. Ngài nói “nhu cầu và khả năng đánh thức tôi nối kết với người khác giúp bản thân mình phát triển tới mức trưởng thành nhân bản, mà sự thân mật với người khác trở nên khả thi. Điều thúc giục, đánh động nhu cầu gắn kết với người khác là tất cả cấu thành nơi con người tính dục tôi. Nó cho phép tôi kết nối với người khác trong các mối tương quan vượt lên trên chức vụ; nhưng những thúc giục, động lực và nhu cầu tôi không bảo đảm rằng tôi sẽ đạt được những mối quan hệ cá nhân mà chúng mang lại. Tôi cần học hỏi, rồi chọn hành vi mà cho phép sự kết nối xảy ra” (Clark, 1986). Văn chương ngày nay về ‘Phát triển Nhân bản’ đầy dẫy với nhu cầu thăng tiến tâm lý – tính dục thông qua khả năng kết nối thân mật trong tình bạn giữa con người.

Sự thân mật là một khái niệm hệ trọng, liên quan đến việc phát triển nhân bản. Những lúc bàn tới ‘tính Thân mật’, chúng ta thường không được thoải mái, dẫu biết rằng nhiều nhà thần bí vĩ đại và các Thánh nhân đã không e ngại tình thân thiết này, thí dụ: Thánh Phan-xi-cô Át-si-si và Thánh Cla-ra, Thánh Tê-rê-sa A-vi-la (Tê-rê-sa Cả) và Thánh Gio-an Thánh Giá. Cảm giác phiền phức rầy rà này bắt nguồn từ thực tế cho rằng từ ngữ “thân mật” thường được hiểu theo nghĩa gần gũi về mặt thể lý hoặc tính dục hay thậm chí đụng chạm tới tình dục. Tuy nhiên, trong bối cảnh của chúng ta, nó nên được hiểu theo nghĩa tâm lý học. Sự thân mật phải gắn kết với tính thổ lộ, mà điểm bộc bạch thổ lộ này tự nguyện, tương tự như có khả năng tâm sự với người khác về những vấn đề cá nhân của mình, giúp họ hiểu rõ hơn về bản thân, biết hơn về diện mạo bên ngoài của bạn. Và điều này vượt trên những tri thức mà thu lượm được từ việc tương tác trong cương vị hay vai trò.

Các nhà tâm lý học ngày nay nhấn mạnh đến nhu cầu gắn bó thân mật trong toàn bộ quá trình phát triển con người. Wilkie Au và Noreen Cannon cho biết ‘Sự thân mật chính là phẩm chất chuẩn mực của đời sống Ki-tô giáo…Là tín hữu, chúng ta được mời gọi cảm nghiệm bản thân như những người con yêu dấu của Thiên Chúa, và biết ôm trọn đón nhận người khác như thể được Chúa ôm ấp yêu thương gần gũi chúng ta vậy. Quả thật, chúng ta gặp gỡ và loan truyền Thiên Chúa là tình yêu chỉ qua tha nhân mà thôi’.

Mặt khác, Erickson cho hay ‘tính thân mật liên quan tới sức mạnh cá nhân mà nó giúp chúng ta nỗ lực gần gũi gắn bó với người khác, là khả năng cam kết bản thân trong mối tương quan cá nhân cụ thể kéo dài theo thời gian, cũng như đáp ứng nhu cầu đồng hành nhằm thay đổi cách thức mà không hề thoả hiệp với sự đoan chính của bản thân’. Chúng ta quên rằng người sống độc thân vẫn là người có tính dục với mọi nhu cầu thân mật, cần nó thật sự phải được đáp ứng một cách thích hợp và toàn vẹn. Tuy vậy, điều này có lẽ chỉ xảy ra khi con người trưởng thành, và mọi khía cạnh liên đới hữu hiệu của nó mang ý nghĩa nơi hữu thể tính dục.

Các văn kiện khác của Đức Thánh Cha và của Giáo hội cũng đã khẳng định tương tự. Trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trân trọng viết rằng ‘toàn bộ việc đào tạo linh mục phải bắt nguồn từ nền tảng thiết yếu của nó, nếu không, sẽ thiếu đào tạo nhân bản thích hợp’. Rèn luyện nhân bản được mô tả như là ‘công cuộc đào tạo cần thiết’ mà mọi khía cạnh khác của việc đào tạo linh mục phụ thuộc vào nó. “Điều này thật sự căn bản đối với ứng viên được mời gọi chịu trách nhiệm cho một cộng đoàn và trở nên ‘con người của tình hiệp thông’” (PDV số 44).

Trong mọi văn kiện chính thức của Giáo hội, vấn đề này được trình bày với tiêu đề Phát triển Con người trong việc đào tạo linh mục, cụ thể là sự thăng tiến mọi khía cạnh liên đới hữu hiệu của những linh mục tương lai. Nói cách khác, phát triển con người chính là công cuộc hướng tới sự thăng tiến về mặt thể lý và tâm lý trong bối cảnh phát triển tu đức. Như chúng ta đều biết ân sủng kiến tạo nơi bản tính.

Tông huấn hậu Thượng Hội đồng 1990 Pastores Dabo Vobis liệt kê các phẩm hạnh mà một linh mục cần phải có:

  1. Khả năng liên đới với người khác, ngõ hầu Linh mục trở nên con người của tình hiệp thông.
  2. Sự trưởng thành về mặt cảm tính nơi Linh mục, giả thiết này đã được cho là vị trí trung tâm của tình yêu trong cuộc sống con người, và điều này đòi hỏi (c)
  3. Quá trình đào tạo rõ ràng, quyết liệt trong sự tự do tín nhiệm được gắn kết mật thiết
  4. Giáo dục lương tâm luân lý (PDV số 43-44)

Trong bối cảnh của nhiều vụ bê bối lạm dụng tình dục nghiêm trọng bên Tây phương, và đây cũng chẳng phải là điều bất thường nổi cộm tại Châu Á, mà cấp bách hơn bao giờ hết, vấn đề rèn luyện và đào tạo trong tiến trình trưởng thành cảm tính hữu hiệu phải được trình bày.

Về Chương trình Đào tạo Linh mục (ấn bản lần thứ V, 2006, số 77), các Giám mục Hoa Kỳ đã trình bày đầy đủ về chiều kích hệ trọng này như sau: (x. Trưng dẫn: tr. 4, bao gồm tr. 77-80, và tr. 90-92).

“Một cách thức cụ thể nào đó, đào tạo Nhân bản đi đôi với việc phát triển tính dục con người, và điều này hết sức đúng đắn cho những ứng viên đang chuẩn bị cho đời sống độc thân. Những phương diện khác của con người – thể lý, tâm lý và tâm linh – hợp thành nơi sự trưởng thành hữu hiệu, bao gồm cả tính dục con người.

Du có chính hiu và đưc tôi luyn thế nào chăng na, đc sng đc thân vn gi nguyên chiu hưng v cm tính và nhng thúc đy ca bn năng: do đó, các ng sinh linh mc rt cn đến s trưng thành v mt cm tính, nh đó h mi có kh năng sng thn trng, t khưc tt c nhng gì có th làm phương hi đến s chín chn y, biết thc tnh th xác cũng như tinh thn, s hu thái đ quí chung và tôn trng nhng mi tương quan liên v gia nam và n(PDV số 44).

“Phương thế sng trn đc khiết tnh đc thân bao gm tình bn chân thành; tình anh em linh mc; s liên đi h tr, linh hưng; đi sng kh hnh chân tht hưng đến s hy sinh mà đi sng đc thân đòi hi; và đc bit, Bí tích Hoà gii”.

Nhìn chung, đào tạo nhân bản diễn ra trong tiến trình ba bước: nhận biết bản thân, chấp nhận bản thân, nhìn nhận bản thân và mọi thứ đều là quà tặng ân sủng đức tin. Một khi quá trình này hoàn tất, con người trở nên đồng hình đồng dạng toàn vẹn hơn với nhân tính hoàn hảo của Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời trở nên xác phàm”.

Sự trưởng thành này có lẽ được đánh giá khôn ngoan đúng đắn bằng các minh hoạ; cảm thức hữu trách và sáng kiến cá nhân; năng lực dẫn dắt can đảm và quyết đoán; khả năng kiến tạo và duy trì tình bạn tròn đầy; khả năng làm việc chung một cách chuyên nghiệp với mọi người, nam cũng như nữ, đặt lợi ích cá nhân sau mọi nỗ lực hợp tác cho công ích.

Việc chuẩn bị cho đời sống độc thân là một trong những mục tiêu chính yếu của chương trình đào tạo nhân bản tại bất cứ chủng viện nào. Chắc hẳn mọi chủng viện đều có chương trình liên kết đa diện gồm: hướng dẫn, phân định đời sống cầu nguyện, đối thoại và động viên, giúp các chủng sinh hiểu rõ bản chất cũng như mục đích của đời sống khiết tịnh độc thân, và biết sống trọn trong đời họ. Mặt khác, tính dục thực sự có ý nghĩa khi tình yêu chín chắn mà thôi. Các chủng sinh nên biết bộc lộ lòng mến hoàn thiện như một bước đệm chuẩn bị cho đời sống độc thân. Vì thế, những suy tư của tâm lý học hiện đại có lẽ rất hữu ích, bởi lẽ mục tiêu của sự thăng tiến về mặt tâm sinh lý, xã hội và tâm linh là phải đào luyện chủng sinh thành người sống độc thân khiết tịnh, biến họ trở nên những mục tử đáng yêu của mọi người mà họ phục vụ” (các Giám mục Hoa Kỳ: Chương trình Đào tạo Linh mục, ấn bản lần V – 2006, số 77, 78, 90-92).

Vấn đề đào tạo nhân bản hướng đến đời sống độc thân nên nhắm tới sự trưởng thành hữu hiệu, mà đây vốn là khả năng sống tình bác ái đích thật và hữu trách. Các dấu chỉ của sự chín chắn hữu hiệu nơi ứng viên là khôn ngoan, cẩn trọng với thân xác cũng như tinh thần, lòng thương cảm, quan tâm đến tha nhân, khả năng diễn tả và đáp lại những xúc cảm, biết kính trọng và tôn trọng các mối tương quan giữa các cá nhân với nhau, giữa nam và nữ. Do đó, tình bạn đích thật chính là việc giáo dục trưởng thành về mặt cảm tính.

Nhiều vấn nạn cá nhân nơi các Linh mục như sự cô đơn, không có khả năng đối mặt với tình trạng cô độc, chứng nghiện ngập, nạn lạm dụng tình dục vị thành niên, đều liên quan tới hiện tình thiếu chín chắn về mặt cảm tính. Những vấn đề cơ bản chỉ ra sự thiếu hụt trong việc đào tạo mà nơi đó dẫn tới thái độ xa cách thực tế. Theo các nhà tâm lý cho biết, sự kiềm nén là quá trình vô thức rất nguy hiểm, nó phủ nhận những thực tại hiển nhiên khiến mức độ trưởng thành ngừng phát triển. Sau này, một loạt vấn nạn nảy sinh khi những cảm xúc bị kiềm nén lộ ra tự nhiên mà không thể chấp nhận được.

Vì vậy, ngày càng rõ ràng rằng nếu điều gì sai, thì không hẳn sai lầm về đời sống độc thân, mà là người sống độc thân chưa được đào tạo để đối mặt với các thách thức cần được giải quyết. Sống đời độc thân chính là phương cách yêu thương độc đáo. Còn tính dục là quà tặng Thiên Chúa ban cho, ngõ hầu giúp chúng ta bước vào các mối tương quan phong phú vẹn toàn mỗi khi thực hiện sứ vụ. Ngoài ra, thôi thúc tình dục và xung động tâm-sinh-thể lý phải được hiểu đúng theo nghĩa nguyên thuỷ mà Thiên Chúa ân ban.

Tuy nhiên, dấu hiệu mà bản thân tôi đang phủ nhận những thôi thúc cũng như xung động ấy (có thể phớt lờ nhu cầu thân thiết của tôi) biện chứng cho các hành xử lãng mạn hoặc liên quan tới sinh dục phù hợp với con người tôi và với lời cam kết dấn thân của tôi hay không? (trong trường hợp một số người). Tôi cần định hướng các xung lực ấy bằng tư tưởng cũng như tự do của tôi nếu nó liên hệ thích hợp với bản thân hoặc với tha nhân.

NHU CU MT THIT VÀ TÌNH BN

Quan trọng hơn, linh mục phải nhận thức và cần có nhu cầu mật thiết; những điều này tạo ra chiến lược đáp ứng trong lối sống độc thân của họ (Clark, 1986). Trên thực tế, nhiều linh mục không nhận ra, cũng chẳng xử lý tốt về nhu cầu thân mật này; nên đành phải chịu thất bại, đau khổ và thất vọng chán chường khi cảm nghiệm nỗ lực sống trung thành với lời cam kết sống độc thân của mình.

Ngược lại, một số lại e ngại ngay cả từ ngữ ‘mật thiết’, và rất ít sử dụng. Nhóm khác tin rằng họ vượt lên trên các vấn đề đó, đơn giản phớt lờ hoặc phủ nhận điều mà họ có bất cứ nhu cầu  thân mật nào. Hơn nữa, họ chẳng trông đợi cuộc sống sứ vụ thừa tác là nguồn lực mật thiết khả thi, nên sao lãng trong lối hành xử mà lẽ ra cho phép tính thân mật ấy thăng tiến. Trái lại, một số linh mục lại xử trí tốt tính mật thiết nơi bản thân. Chúng ta cảm nhận tình thân mật đích thật nơi các cặp đôi mà họ đặc biệt yêu thương và tôn trọng chúng ta, ngay cả bảo vệ chúng ta khỏi bị sa vào những mối quan hệ rủi ro, cũng như giúp chúng ta lớn lên trong sự thánh thiện và đầy nhiệt huyết. Cha Clark cho rằng ‘những ai sống độc thân mà không thừa nhận hay không có nhu cầu về tính mật thiết thân tình, thì sẽ nhìn tính dục là một vấn nạn’.

Tuy nhiên, chẳng phải lời cam kết sống độc thân đem đến cho họ vấn đề nan giải, mà do sự khước từ cũng như cách thức xử lý với nhu cầu thân mật của họ đã gây ra khó khăn. “Nếu họ huyền chức (Clark, 1986) để bước vào hành vi tình dục lãng mạn, mà ‘không hề thân mật hoàn hợp’, thì họ vẫn chỉ cảm nhận nỗi thất vọng ê chề thôi”.

Nói cách khác, chỉ bởi vì chúng ta chọn cam kết sống độc thân, không chấp nhận lối hành xử lãng mạn hay mang tính sắc dục, nhưng vẫn phải xử lý mật thiết tinh tế trong đời sống cam kết dấn thân của mình. Trong bối cảnh nghiên cứu của Dean R. Hoge về ‘The first five years of Priesthood’ (tạm dịch: ‘Năm năm đu tiên ca s v Linh mc’), chúng ta khám phá rằng một trong những đặc tính sứ vụ đúng đắn đó là mối liên đới, nhưng nhìn chung nhiều Linh mục được mô tả trong nghiên cứu này dường như không có năng lực kết nối; tưởng chừng họ chẳng thể nào đối diện với sự cô đơn, cảm tính, tình yêu kiến tạo và độc thân (Dean R. Hoge, Năm năm đu tiên ca s v Linh mc).

Bài nghiên cứu xác định những đặc điểm xác thực, đối nghịch với các thừa tác viên thành thạo trong liên đới.

  • họ đau khổ vì các vấn đề nan giải về mối tương quan giữa những cá thể
  • họ bộc lộ lo lắng quá về tính thân mật
  • họ thông thường tự tách biệt cảm tính/cảm xúc
  • họ sợ quyến luyến
  • họ học cách tiên đoán sự thất tín trong các mối quan hệ
  • họ sợ bản thân tổn thương hay bị bỏ rơi
  • dù họ khao khát yêu thương thân thiết, nhưng cảm nghiệm dĩ vãng ngăn họ bước vào các mối tương quan ý nghĩa.

Các linh mục này chắc hẳn sẽ là những nhà lãnh đạo nghèo nàn trong liên đới. Sofield đưa ra một số điểm sau: “các chương trình đào tạo linh mục và đào tạo trường kỳ cần nêu lên những vấn đề như tính mật thiết, sự cô đơn và định hướng tính dục bằng mọi phương cách trực tiếp nhất có thể”.

Hơn nữa, thiếu hụt sự quân bình cần thiết có thể sẽ dẫn đến một thái cực khác. Thánh Tô-ma A-qui-nô nhắc nhở chúng ta rằng ‘trung tâm ca quyn lc’ (‘in medio stat virtus’): đối với Thánh nhân, ‘s vô cm’ (‘insensitivitasi’) đơn giản chỉ là tội lỗi. Nhưng đời sống độc thân không khiến chúng ta nhạt nhẽo, lạnh lùng, mà ngược lại, thêm sức cho chúng ta mến yêu hết mọi người như chính Đức Ki-tô đã yêu thương.

Sự xa cách tình cảm cũng khiến Linh mục sống đời độc thân cằn cỗi nhợt nhạt. Chúng ta thường nghe nói về giá trí làm gương chứng nhân nhờ ơn sống độc thân. Paul J. Bernier (1995) đúng đắn nói rằng “tình trạng độc thân chẳng minh chứng cho bất cứ điều gì, nhưng người sống đời độc thân lại là chứng nhân. Giả như họ lạnh lùng và khó gần, thì họ đang làm chứng rằng tình Chúa yêu thương trong đời họ chưa đủ lớn. Trái lại, nếu họ ấm áp và hoà đồng, thì họ trở nên gương sáng phản chiếu sức mạnh của tình yêu Chúa, mà tình yêu này có thể biến đổi tất cả mọi thứ trong đời. Lòng mến hiện hữu nơi đời sống độc thân ám chỉ đến sự lan toả của tình ấm áp thân thiện với anh chị em, nhạy cảm với tính riêng tư và cá thể. Mối quan tâm cho lợi ích và sự trưởng thành là khả năng hoà nhập với những ai bị tổn thương, và cũng là cách biểu hiện tình mến của mình một cách phù hợp. Ngược lại, nó sẽ trở nên khiếm khuyết cho những ai sống đời độc thân, nào là thiếu khả năng hữu ích trong tình cảm đối với cả người nam lẫn phụ nữ, nó chỉ kéo ghì về tính sắc dục, hoặc đơn giản chỉ hướng tới quan hệ thể lý thuần tuý, và như thế tương đồng với hành vi xa lánh cảm tính (tr. 323-324). Chúng ta cần lưu ý khuyến cáo của Bernier (1995), vì chẳng ngạc nhiên gì khi quá nhiều linh mục lớn tuổi, đầy thiện chí và nhiệt tâm theo cách riêng của họ, kết cuộc lại trở thành những người đàn ông độc thân lớn tuổi, lạnh lùng trong sứ vụ”.

Điều này không phải là không cần chú ý tới; mà nói đúng hơn do các mối quan hệ rủi ro đến từ sự kém cỏi, nhu cầu thiếu thốn. Có lẽ chúng ta thiếu quá nhiều trong những mối tương quan của mình, hay cảm thấy bị tước đoạt đến mức chúng ta phải đi tìm các mối quan hệ riêng biệt hơn, mà nơi đó mình được yêu thương và được mộ mến. Ngoài ra, những ai muốn bám víu vào chúng ta có lẽ bản thân họ thiếu sự thông truyền thân thiện và sâu sắc trong đời. Những mối tương quan ấy chỉ phục vụ bản thân, gần như quá yêu chính bản thân hay tự nhận mình đáng thương. Và rồi nó khiến chúng ta lợi dụng người khác để thoả mãn nhu cầu bản thân.

Chúng ta phải ý thức nhu cầu cần tình thân, cách riêng trong Linh mục đoàn. Cộng đoàn linh mục là nơi chúng ta cảm thấy thoải mái như ở nhà, ở nơi đó chúng ta được đón nhận, bất luận những dị hợm khác biệt, là nơi mà chúng ta có thể trở về và biết rõ những thứ chúng ta thuộc về. Như vậy, một cảm thức hiệp liên trong Linh mục đoàn chính là phương thế bảo vệ mạnh mẽ cho các ngài sống đời độc thân.

Được rèn luyện về tính thân mật và tình bằng hữu trong những năm đào tạo thiết yếu như một phương tiện phát triển các mối quan hệ lành mạnh. Đời sống độc thân đòi hỏi việc tăng triển cảm tính. Keith Clark, nhà Đào tạo dòng Anh em Hèn mọn Phan-xi-cô Ca-pu-chin, trình bày rất hay rằng “những ai chọn đời sống độc thân là hữu thể mang nét tính dục”. Tất cả chúng ta đều đạt đến ý nghĩa ấy nhờ sống và yêu thương một cách thân mật có thể, không chiếm hữu, không sai khiến, nhưng giáo dưỡng ‘tha nhân’, mà giúp họ đạt thành quả khả thi. Để thật sự sống thân mật, chúng ta phải đến với nhau trọn vẹn bằng cách không bao giờ huỷ hoại bản thân cũng như người khác, vì lẽ nổi giận hoặc đối nghịch trong tính cách luôn tồn tại. Tuy nhiên, những mũi tên đối ngược này chỉ có thể xảy ra, nếu có tình yêu tự trọng và tôn trọng sâu sắc người khác (Clark, 1986).

Xin mượn thuật ngữ của Adrian Van Kaam, “giữ khoảng cách kính trọng” ngụ ý một tình yêu không chiếm hữu và áp đặt, ngay cả khi hai con người đến với nhau trong tình thân sâu xa nhất. Nó cũng ám chỉ lòng mến tự trọng khiến những ai cam kết sống đời độc thân sẽ không cho phép mình bị sai khiến hay bị trấn áp hay nô dịch hoặc bất cứ hình thức nào gây huỷ hoại mối quan hệ thân thiết. Một linh mục chín chắn về mặt cảm tính biết rằng có nhiều giới hạn không bao giờ được vượt qua, trừ phi họ đi ngược với lời cam kết sống độc thân của mình.

KT LUN

Ngày nay, Giáo hội được nhìn nhận là “một cộng đoàn bác ái và ân sủng, nhờ bởi các mối tương quan cá vị thân tình giữa mọi thành viên bất luận ở cương vị, bậc cấp nào, sự liên đới giữa bề trên và bề dưới, giữa tất cả thành viên với Thiên Chúa”. Linh mục như một người lãnh đạo chịu trách nhiệm hàng đầu cho sự phát triển các mối quan hệ này, theo chiều dọc cũng như chiều ngang. Khi chịu trách nhiệm, bản thân linh mục phải bộc lộ năng lực kiến tạo các mối tương quan lành mạnh và đầy sức sống. Vì chẳng thể nào trọn vẹn cả khi không chịu dựa vào tính nhân văn và sự thiện lành của nhau để hoàn thành trách vụ. Như đã luận bàn, chúng ta phải ý thức phát triển mọi tiềm năng nơi con người trong khi phục vụ. Trên hết, cũng cần đề xuất thăng tiến những năng lực này qua các mối quan hệ chân thật. Sự thân thiết hết sức sinh động, không chỉ giảm thiểu mọi rối loạn tính dục, mà trong tất cả các vấn đề liên đới. Tình bạn thâm sâu giúp khai sáng và phân tích điểm tối như những khía cạnh ngoài ý muốn, mang tính phủ nhận và kém phát triển nơi bản thân (Johnson, 1991; Zwieg và Abrams, 1991). Quả thật, một trong vô vàn mục tiêu trong mọi chương trình đào tạo linh mục đó phải là hỗ trợ ứng viên trưởng thành về mặt cảm tính. Nếu đạt được điều này, nhiều vấn đề nan giải cơ bản trong các trường hợp mà chúng ta đã biết, có thể sẽ thuyên giảm tối thiểu đối với các linh mục này, ngõ hầu họ hiện diện không chỉ là những linh mục sáng suốt, mà còn là những con người dễ mến và chân thực.

Vì tính chất hội thảo dành riêng cho các Giám mục, nên cho phép tôi thêm phần “tái bút” ở phần này.

Linh mục là công sự viên thân cận nhất của chúng ta trong việc chăn dắt đoàn chiên. Nếu họ hạnh phúc, chắc chắn chúng ta chẳng có lí do gì phải băn khoăn cả. Với một ý nghĩa nào đó, việc chăn dắt của chúng ta phải khởi đầu từ cách chúng ta chăm sóc các linh mục của mình. Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã trình bày trước một nhóm gồm các tân Giám mục (23/9/2002) số 4 mà Tờ báo Quan sát viên thành Rô-ma thuật lại rất tuyệt vời. Tôi xin trích lại như sau: “trong l truyn chc Linh mc, khi ng viên tuyên ha vi Giám mc ‘hết lòng kính trng và vâng phc trn tình con tho’, thot nhìn có l đây là c ch mt chiu. Nhưng thc tế, c ch này cam kết c hai, k c Linh mc và Giám mc. Tân linh mc trao chn bn thân cho Giám mc, và v phn Giám mc, ngài phi chăm lo cho nhng đôi tay này”.

Chúng ta đừng quên rằng linh mục cũng là con người, họ cũng bị tổn thương, và mọi vết đau này có thể từ thời thơ ấu. “Giám mục phải liên đới với các Linh mục của mình như một người cha và một người anh cả luôn trìu mến, lắng nghe, đón tiếp, sửa dạy, hỗ trợ, mời gọi cộng tác càng nhiều càng tốt, và hằng quan tâm đến thiện ích của họ trên phương diện sứ vụ thiêng liêng, nhân bản cũng như tài chính” (Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Pastores Gregis, 2003, số 47).

Là giám mục, chúng ta được mời gọi trở nên “người chữa lành vết thương”. Mỗi ngày, chúng ta cần nỗ lực “tìm kiếm tâm hồn” nhiều hơn, nhằm nhận ra: bản thân có phải là nguyên nhân gây ra cho các Linh mục những vấn đề trong mối tương quan hay do định kiến nào đó hay không. Tâm trạng, thành kiến và định kiến mà chúng ta dùng như lăng kính để nhìn các Linh mục có thể gây ra nhiều tổn thương cho họ.

Vô hình chung, chúng ta trở nên nguyên do của quá nhiều khổ tâm và lo lắng mà khiến các Linh mục bất hạnh và thương tổn. Trong Tông huấn Hậu thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về Giám mục, Tôi tớ Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô vì Niềm hy vọng cho Thế giới, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II viết như sau:

“Tưc v Giám mc cho công cuc phc v, ch chng phi đ li lc danh giá; cho nên, mt Giám mc nên n lc sinh nhiu ích li cho ngưi khác hơn là cai tr h. Đây chính là gii răn ca Thy Chí Thánh…Quyn hành trong Giáo hi nhm xây dng dân Chúa, ch không phi đ hu dit h (x. 2Cr 10, 8). Kiến to đoàn chiên ca Đc Ki-tô trong s tht và thánh thin đòi hi Giám mc các đc tính c th, bao gm đi sng mu mc, kh năng xây dng mi tương quan chân thc và mang tính dng xây, s hu năng lc khuyến khích cũng như phát huy s cng tác, nhn ni và tt lành nơi bn thân, biết thu hiu, cm thương nhng ai đau kh v th xác ln tinh thn, có tâm hn khoan dung và v tha. Sau cùng, noi gương hết sc có th Hình mu Ti thưng, chính là Đc Giê-su Ki-tô, V Mc t Tt lành” (Pastores Gregis, 2003, số 43).

THƯ MC THAM KHO

  1. Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis. St. Paul’s Publication, 1992.
  2. Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Pastores Gregis. Vatican City, 2003.
  3. Hướng dẫn Mục vụ cho các Linh mục Giáo phận tại những Giáo hội trực thuộc Bộ Loan truyền Phúc Âm cho các Dân tộc, 1989.
  4. Giám mc và S v Giám mc. Urbania University Press, Vatican City, 1998.
  5. Chương trình của Hội Đồng Giám mục Hoa Kỳ trong việc Đào tạo Linh mục (ấn bản lần thư V, 2006).
  6. Mùa gt Gp trăm, Đào to Linh mc trong mi Trng hung ti Á Châu Hôm nay; Hội thảo lần II dành cho Giám đốc Chủng viện và Linh hướng tại Á Châu, FABC, 1995.
  7. Pinto, Lawrence biên soạn. Giáo sĩ Á Châu: Đào to Nhân bn cho Linh mc – mt s Quan tâm Hin nay. Mangalore, 2006.
  8. Hoge Dean R. “Năm năm đầu tiên của Sứ vụ Linh mục: một nghiên cứu về các Tân Linh mục Công giáo”. Quezon City: Claretian Publication, 2001.
  9. Cozzens, Donald B. Din mo Chuyn biến ca S v Linh mc. Collegeville, Minnesota: Liturgical Press, 2000.
  10. Clark, Keith. Hu th Tính dc và Sng Đc thân. Notre Dame, Indiana: Ave Maria Press, 1986.
  11. Pinto, Lawrence. Vn đ Tình dc hin nay nh hưng đến đi sng Linh mc. FABC – Văn phòng Giáo sĩ Á Châu, 2006.
  12. Sperry Len. Lược sử những kẻ Lạm dụng Tình dục, “Phát triển Con người”, tập 24, Mùa xuân, 2003.
  13. Statnic, Roger A. Mối quan hệ giữa Linh mục và Giám mục, “Phát triển Con người”, tập 20, Mùa hè, 1999.
  14. Parappuly, Jose. Đào to Nhân bn cho Linh mc: Nhng thách đ và s Can thip Tâm lý-Tu đc, Văn phòng Giáo sĩ Á Châu, FABC-OC, 2006.
  15. Machado, Felix. V Đào to Thiêng liêng, Đnh hưng cho Linh mc Tương lai, trong Mùa gt Gp trăm, FABC, Văn phòng Giáo dục FABC-OE, 1995.
  16. Bernier, Paul J. “Ý nghĩa của sự Độc thân”, trong Mùa gt Gp trăm, Văn phòng Giáo dục FABC-OE, 1995.

========

IV: CHĂM SÓC LINH MỤC: ĐÀO TẠO TRƯỜNG KỲ VÀ CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ

  • Đức Tổng Giám mục Orlando B. Quevedo, O.M.I, Tổng Giám mục Địa phận Cô-ta-ba-tô

Dẫn nhập

Theo khôn ngoan tập quán thông lệ trước kia cho rằng mọi vấn nạn mà các linh mục trải qua có lẽ được giải quyết nhờ vào lời cầu nguyện liên lỉ, xưng tội cách trọn, ăn năn toàn diện và sám hối hết lòng. Một kỳ nghỉ dài nhằm lấy lại sinh lực cũng hữu ích cho việc tránh xa mọi cội rễ của cám dỗ. Thay đổi bài sai đã là biện pháp hỗ trợ thông thường. Bên cạnh đó, giải pháp khác là cho đương sự tham dự vào các khoá học cập nhật về đời sống thiêng liêng, thần học và mục vụ mở rộng. Còn đối với nhiều trường hợp nghiêm trọng, chúng ta cũng đề xuất linh thao nhằm cảm nghiệm sâu sắc về Chúa. Ngoài ra, chúng ta tin chắc rằng tĩnh lặng và cầu nguyện giúp giải quyết những vấn đề nan giải nhất.

Thật ra, chúng ta không thể đánh giá thấp giá trị của kinh nguyện và cách sống khổ hạnh trong việc xử lý những vấn đề nan giải liên quan tới các linh mục. Tuy nhiên, nhờ điểm sáng từ những bài tham luận được nghe trong mấy ngày qua, chúng ta càng hiểu rằng nhiều vấn nạn sẽ không được giải quyết đơn giản bằng “cầu nguyện và ăn chay”. Nhiều nguyên nhân ẩn mình sâu thẳm nơi tính cách, hoàn cảnh giáo dục, và môi trường chi phối. Chúng ta sẽ sai lầm khi chỉ đơn thuần hành động, mà không biết những nguyên nhân sâu xa, phức tạp nơi cách hành xử tội lỗi của các linh mục.

Nay, chúng ta biết rõ hơn bao giờ hết, rằng phải biện phân một cách cẩn trọng toàn bộ quá trình liên quan đến ơn gọi, lưu ý nhiều đến đặc điểm tính cách, gia đình, hoàn cảnh trưởng thành và môi trường sống. Những nhân tố này ảnh hưởng lớn lao đến việc chiêu mộ, chọn lựa các ứng viên cho đời sống linh mục hay tu sĩ, tác động tới công cuộc đào tạo khai tâm cũng như đào tạo trường kỳ. Các nhân tố tương đồng đóng một vai trò như những biện pháp hiệu quả hỗ trợ linh mục đang gặp khó khăn đặc biệt. Linh đạo, Giáo luật, hướng dẫn và tư vấn, tâm lý học và các chuyên ngành xã hội khác, tựu chung lại tất cả chỉ nhằm giúp đỡ chúng ta trong tiến trình biện phân, giáo dưỡng và trợ giúp ơn gọi.

Tôi được yêu cầu lãnh trách nhiệm đưa ra một phần của tiến trình này, cụ thể là chương trình đào tạo trường kỳ cho các linh mục, cũng như những biện pháp hỗ trợ giúp các linh mục, đặc biệt đang trong tình trạng khó khăn. Thiết nghĩ hai vấn đề này khác biệt, nhưng không phải không hề liên quan với nhau.

Nghi vấn tôi đặt ra là: Thể loại đào tạo trường kỳ nào mà các linh mục chúng ta cần? Khi rơi vào tình trạng khủng hoảng, chúng ta có thể đưa ra biện pháp hỗ trợ nào để trợ giúp các linh mục?

Sau đây, tôi sẽ trình bày từ cảm nghiệm của các Giám mục Phi-luật-tân và đơn giản chỉ chia sẻ với cử toạ những gì các ngài đã thực hiện.

  1. Đào tạo Trường kỳ cho Linh mục – Cần một Tôn chỉ

Trong bối cảnh khủng hoảng ơn gọi và rối bời sau Công đồng Va-ti-can II, vấn đề đào tạo trường kỳ trở thành mối bận tâm bất biến. Vô số chương trình được đề cử bắt đầu, cũng như được chú ý nhiều và mong thành hiện thực. Giống như ưu tiên mục vụ của việc xây dựng các Cộng đoàn Giáo hội Cơ bản (BEC), mọi khó khăn thực hiện nó đã xảy ra.

Nói chung, các chương trình đào tạo trường kỳ được những học viện theo thời mang lại, gồm một loạt khoá học, dài như thực đơn giải khát vậy, có lẽ thu hút khẩu vị và đáp ứng sở thích mỗi người. Chúng tôi nhận thấy quá nhiều khoá học như thần học lượng tử, nhạy cảm với giới tính, phương pháp đọc Kinh Thánh theo chủ trương nữ quyền, linh đạo theo bối cảnh, linh đạo sinh thái, phụng vụ bao hàm, vai trò lãnh đạo tham dự, v.v…Các khoá này tự nó có lẽ rất hữu ích.

Nhưng xét về đòi hỏi thật sự, thì điều không có không được hay điều kiện tiên quyết (conditio sine qua non) chính là lí do tại sao và nơi nào mới cần cập nhật bổ sung và đổi mới khoá học. Quả vậy, bối cảnh của việc đào tạo trường kỳ cũng đòi hỏi cấp bách như thế. Đào tạo trường kỳ phải có tầm nhìn/tôn chỉ, mà trong đó mỗi khoá học riêng biệt, ngay cả các quá trình cũng trở nên cần thiết, mang tính thời sự, được mong muốn và hữu dụng cho linh mục nơi mỗi hoàn cảnh cụ thể.

Tuy nhiên, tầm nhìn/tôn chỉ này phụ thuộc nhiều vào nhãn quan của sứ vụ linh mục mà chúng ta cần có. Từ chiều kích này, đương sự nhận ra tầm quan trọng cốt lõi của hội nghị mà cha Vimal Tirimanna, CSsR đã trình bày trong buổi khai mạc Hội thảo: “Căn tính và Tầm nhìn của Sứ vụ Linh mục trong Bối cảnh Á Châu”. Một nhãn quan về chức linh mục Á Châu cần phải xem xét mối quan hệ của nó với các thực tại châu lục này. Tôi phải thêm rằng chúng ta cũng nên nhìn vào căn tính cũng như tôn chỉ của chức linh mục trong những bối cảnh địa phương cụ thể. Tại địa phận của tôi, một vài đặc điểm riêng biệt mà các linh mục đang phải trải qua, đó là vùng Cô-ta-ba-tô (48% Công giáo và 47% Hồi giáo) nghèo nàn và quê mùa, chắc hẳn khác xa với các linh mục ở thủ đô Ma-ni-la sầm uất, công nghệ hiện đại cao và hầu hết theo Ki-tô giáo. 

Tương tự, chúng ta cần có tầm nhìn đào tạo thật cụ thể và xác thực với Á Châu hơn, ngay cả khi khác biệt về địa phương và giáo phận chăng nữa. Lẽ hiển nhiên, nhiều đặc tính căn bản trong đào tạo trường kỳ cho linh mục thì đồng nhất ở Tây cũng như Đông phương, Bắc cũng như Nam. Tuy nhiên, những nét đặc thù cụ thể này có khi lại cần thiết cho việc đào tạo trường kỳ tại Đông Nam, hay tại Thái Lan và In-đô-nê-si-a, hay tại Ma-ni-la và các cộng đoàn Ki-tô giáo-Hồi giáo ở Cô-ta-ba-tô. Đối với tôi, sẽ chẳng có nghĩa gì khi đơn thuần gửi một linh mục đi tham dự khoá học bồi dưỡng về “sứ vụ cho sự thế tục”, trong lúc nhu cầu cấp thiết hơn cho các linh mục đang phục vụ tại các vùng quê đầy truyền thống, tập tục hoặc có thể tham gia vào tiến trình đối thoại và hoà bình liên tôn.

Dựa trên chiều kích mà tầm nhìn của Giáo hội và sứ vụ linh mục, chúng ta có thể liên kết những hoạt động tưởng chừng tách biệt trong đào tạo trường kỳ của linh mục đoàn như: tĩnh tâm hàng tháng, họp bàn thảo về sinh hoạt mục vụ mỗi tháng, tĩnh tâm năm, các hội nghị thần học và mục vụ theo thời điểm cụ thể, thăm viếng linh mục, hội thảo mục vụ, v.v…Tất cả những hoạt động này đều hướng tới tầm nhìn cụ thể về Giáo hội và sứ vụ linh mục – một Giáo hội thánh thiện với các linh mục tốt lành.

  1. Tôn chỉ của Giáo hội và Tầm nhìn của Sứ vụ Linh mục tại Phi-luật-tân

Năm 2005 Rô-ma đã chuẩn nhận Chương trình Cập nhật Đào tạo Linh mục tại Phi-luật-tân, mà nó được soạn thảo ròng rã suốt mười năm. Chương trình đổi mới này trình bày chi tiết tầm nhìn của Giáo hội Phi-luật-tân về sứ vụ linh mục với các mục sau:

  • Bối cảnh mục vụ của Phi-luật-tân;
  • Tôn chỉ của Giáo hội mà Hội đồng Khoáng đại Phi-luật-tân lần II (PCP-II, 1991) đã nêu chi tiết trong năm 1991;
  • Những ưu tiên mục vụ mà Hội đồng Tư vấn Mục vụ Quốc gia về Canh tân Giáo hội (NPCCR) đưa ra trong năm 2001.

PCP-II đưa ra viễn cảnh một Giáo hội canh tân đổi mới tại Phi-luật-tân như là:

Cộng đoàn thuộc các Môn đệ của Đức Ki-tô (giữa sự phân rẽ xã hội, cũng như tách biệt giữa đức tin và cuộc sống):

  • một Giáo hội của Người nghèo (nhìn vào hiện trạng phớt lờ người nghèo ngày càng lan rộng và hố sâu cách biệt kinh khủng giữa giàu và nghèo);
  • một Giáo hội với Sứ mệnh rao truyền Tin Mừng canh tân trọn vẹn (sứ mệnh cứu độ và giải thoát).

Dựa trên tầm nhìn này, công cuộc hội nhập văn hoákết nối với bối cảnh là hai nhân tố căn bản.

Nhờ các điểm sáng từ tình hình mục vụ và tôn chỉ của Giáo hội, mà linh mục như những người đại diện Đức Ki-tô trong bí tích, đồng hình đồng dạng với Người nhờ bí tích Truyền chức Thánh, họ thật sự đứng đầu cộng đoàn, nhưng với vai trò của người lãnh đạo trong tinh thần tôi tớ trung thành. Họ là những người cổ vũ và xây dựng cộng đoàn đức tin. Tâm hồn họ có khó nghèo, liên đới với người nghèo, thực hiện sứ vụ ngôn sứ qua đối thoại với người nghèo trên tinh thần hợp tác với mọi người từ các nền tính ngưỡng khác nhau. Tóm lại, họ kiến tạo cộng đoàn dân Chúa, ngõ hầu phản chiếu tôn chỉ của Giáo hội tại Phi-luật-tân.

Linh đạo như người lãnh đạo-tôi tớ được bắt nguồn và tập trung nơi Đức Giê-su Ki-tô. Đó là thừa tác vụ, lớn lên trong sự hiệp nhất với Thiên Chúa, thông qua việc trung thành thực thi sứ vụ. Đó là hiệp đoàn, thắt chặt mối dây hiệp thông với các Giám mục, linh mục đoàn, tu sĩ nam nữ và giáo dân. Các linh mục sống linh đạo này trên tinh thần của những lời khấn Phúc Âm. Nhằm phục vụ Giáo hội địa phương, linh đạo tư tế cũng đồng thời là linh đạo truyền giáo. Sau cùng, đây chính là linh đạo Thánh Mẫu, mà Mẹ Ma-ri-a có một chỗ đặc biệt trong tâm hồn của các linh mục.

Hướng về tôn chỉ của Giáo hội cũng như của linh mục người Phi-luật-tân, công cuộc đào tạo linh mục trong mọi giai đoạn và mọi lĩnh vực được mô tả trực diện trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis. Chương trình Cập nhật Đào tạo Linh mục tại Phi-luật-tân nhấn mạnh đến ba đặc trưng cơ bản của việc đào luyện: bản tính toàn vẹn của công cuộc đào tạo Linh mục, bối cảnh cộng đoàn, và tính tiếp diễn của các giai đoạn đào tạo.

Tất cả những đặc tính trên cùng được thực hiện trong một chương trình đào tạo trường kỳ tại Phi-luật-tân. Đây chẳng phải là một tiến trình nhằm đáp ứng (ad hoc) một số tình trạng nan giải nảy sinh, mà điều này không hơn không kém là một phân mảng căn bản của công cuộc đào tạo linh mục suốt đời, hướng tới sứ vụ hữu hiệu và nên thánh.

Chúng ta cần nhận thức rõ ràng hơn, bởi vì các khía cạnh đào tạo nhân bản cho các linh mục được đề cập nhiều lần sau khi chương trình đào tạo chủng viện, như:

  • tự trọng và tự hiến;
  • thái độ đối với thẩm quyền;
  • đức khiết tịnh trong đời sống độc thân và tính dục;
  • biết từ bỏ và tập lối sống giản dị;
  • hướng tới sự trưởng thành;
  • cảm thức công bình;
  • lương tâm luân lý.

Vì vậy, vai trò của việc đào tạo trường kỳ rất hệ trọng. Trong bối cảnh phức tạp và tính bận rộn nơi công việc mục vụ đang không ngừng tiếp diễn, thì sự phát triển nhanh chóng của nền văn hoá cũng như khoa học giữa nhiều đổi thay xã hội đối trọng với truyền thống, vai trò dẫn dắt giáo dân của linh mục ngày càng được đòi hỏi, những thách thức xây dựng cộng đoàn, nhu cầu Phúc Âm hoá toàn diện, và tính mất cân đối của các kiểu mẫu truyền thống đào tạo trường kỳ (vd: tĩnh tâm, thường huấn, các hội nghị và khoá học cập nhật bổ sung).

Tắt một lời, điều mà ngày nay đang cần không gì khác hơn là một chương trình đào tạo linh mục trường kỳ quy cũ, với cả hệ thống hỗ trợ toàn vẹn (nhân sự nguồn lực, tài chính, v…)

  

  1. Khái quát Chương trình Đào tạo Linh mục Trường kỳ

Sau đây, tôi xin phép trình bày một nỗ lực mang bản sắc Phi-luật-tân, hướng tới hệ thống hoá chương trình đào tạo trường kỳ.

Vào năm 1993, dựa theo nguồn cảm hứng của Tông huấn Pastores Dabo Vobis, Địa phận Ma-ni-la soạn ra một chương trình tiêu biểu kéo dài năm tuần lễ cho việc đào tạo linh mục trường kỳ, với nhan đề “Chương trình Canh tân Tập trung cho các Linh mục”. Mục tiêu của nó là:

  1. cảm nghiệm được tình huynh đệ thật sự và đầy ý nghĩa giữa các linh mục với nhau;
  2. tham dự quá trình trải nghiệm mục vụ-nhân bản, nhằm hoàn tất đời sống cá nhân và mục vụ thừa tác tốt hơn;
  3. cập nhật các lĩnh vực của đời sống và sứ vụ linh mục trên phương diện thần học, tu đức-mục vụ;
  4. cảm nhận đời sống thiêng liêng thâm sâu qua những cảm nghiệm canh tân trọn vẹn.

Nội dung của chương trình kéo dài năm tuần lễ bao gồm:

Tuần I   xây dựng cộng đoàn, giúp tham dự viên ý thức về nhu cầu của cộng đoàn giữa họ với nhau, thông qua việc đào luyện quan hệ nhân bản, gồm: tự khám phá bản thân, kiểm soát áp lực và xung đột, những kỹ năng giao tiếp hiệu quả, kỹ thuật làm việc nhóm nhằm giải quyết vấn đề.

Tuần II  Đào tạo nhân bản, tập trung vào các vấn đề và mối quan tâm liên quan đến con người linh mục, nhờ gương sáng nơi nhân tính của Đức Ki-tô. Những chủ đề bao gồm: phát triển nhân bản, cảm tính, sự thân mật và tính dục.

Tuần III   Ki-tô học, nhấn mạnh đến việc trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, là Đầu và là Mục tử.

Tuần IV Giáo hội học, tập trung vào vai trò lãnh đạo-tôi tớ của linh mục trong Giáo hội, dựa trên nhãn quan của Hội đồng Khoáng đại Phi-luật-tân lần II (PCP-II).

Tuần V  Kiện toàn, tổng hợp và hợp nhất toàn bộ tiến trình nhờ cung cấp cho tham dự viên những nguyên lý căn bản về vai trò quản lý và lãnh đạo trong mục vụ. Giai đoạn này bao gồm Tĩnh tâm dài ngày trong thinh lặng và cầu nguyện. Đưa ra kế hoạch và tiến trình trở về với sứ vụ một cách tích cực sẽ là phần đúc kết chương trình.

Theo Tông huấn Pastores Dabo Vobis, Chương trình chọn cách tiếp cận mọi mặt của việc đào tạo linh mục trọn vẹn – nhân bản, tu đức, trí lực và mục vụ.

Linh đạo được nhấn mạnh xuyên suốt cả quá trình qua các nghi thức phụng vụ đầy ý nghĩa và những buổi cầu nguyện. Giờ chầu Thánh Thể hằng ngày là phần thiết yếu của chương trình; ngoài ra, sức khoẻ và thiện ích của tham dự viên cũng được kiểm tra y tế.

Năm 1994, Uỷ ban Giáo sĩ trực thuộc Hội đồng Giám mục Phi-luật-tân (CBCPCC) liên kết với Địa phận Ma-ni-la phổ biến thực thi chương trình toàn quốc. Do phân bổ thời lượng tương tác cá nhân tối ưu cũng như muốn có sự kết nối giữa các linh mục với nhau, nên tham dự viện bị hạn chế. Trong mười năm đầu hoạt động, gần 300 linh mục được chọn lọc hầu hết từ các giáo phận tại Phi-luật-tân để tham dự chương trình canh tân tập trung kéo dài năm tuần lễ.

Cuối những năm 1990, nhờ lời mời gọi canh tân của PCP-II và được Hội dòng Tôi tớ Đấng Bầu Cử (nhà mẹ tại Hoa Kỳ, chuyên về mục vụ canh tân cho các linh mục) trợ giúp, mà CBCPCC đưa ra một số khoá học ngắn hạn giúp các linh mục Phi-luật-tân canh tân. Dựa vào hạng tuổi mục vụ, các linh mục được phân chia thành nhiều nhóm: Giáo sĩ Trẻ (1-5 năm), Giáo sĩ Sơ đẳng (6-10 năm), Giáo sĩ Trung niên (11-24 năm), và Giáo sĩ Thâm niên (25 năm trở lên). Nhiều giáo phận đã điều chỉnh phù hợp với hoàn cảnh của mình, ngõ hầu tham dự các khoá học ngắn hạn này.

Chương trình dành cho các Giáo sĩ Trẻ bao gồm chương trình nội trú trong suốt thời kỳ chuyển tiếp từ chủng viện sang mục vụ giáo xứ. Cha Linh hướng sẽ “đồng hành” với họ. Các linh mục trẻ sẽ được hướng dẫn suốt một năm với chủ đề về việc Linh hướng định kỳ. Phần thứ hai của chương trình thì tập trung vào “ Đào luyện Kỹ năng trong Thừa tác mục vụ”

Chương trình dành cho Giáo sĩ Sơ đẳng đề xuất tiến trình gạn lọc các giá trị, vì từ những năm đầu tiên của thừa tác mục vụ là thời kỳ các giá trị dần được hấp thụ và bắt đầu thẩm thấu. Họ phải kiểm chứng những giá trị này dựa trên giá trị Phúc Âm và hồng ân của sứ vụ Linh mục. Qua việc chia sẻ nhóm và tư vấn chung sẽ làm sáng tỏ các giá trị và họ là chủ thể kiểm nghiệm cũng như xác minh nếu muốn. Trong quá trình này, cảm thức trách nhiệm và cương vị quản lý lẫn nhau được triển nở.

Một số chủ đề cho việc gạn lọc/phân loại giá trị: sự Hiệp thông Linh mục, Sở hữu Vật chất, tính Thân mật, Sứ mệnh, Đời sống cầu nguyện trong Sứ vụ. Và vị Linh mục đại diện sẽ hỗ trợ điều phối tiến trình này.

Đối với nhóm Giáo sĩ Trung niên, Chương trình Canh tân Tập trung kéo dài năm tuần lễ tại Ma-ni-la đã được trình bày ở trên. Một khoá học canh tân cũng như cập nhật bổ sung được đề ra, mang lại cách tiếp cận toàn vẹn cho nhu cầu của các linh mục.

Riêng nhóm Giáo sĩ Thâm niên được chia thành 2 nhóm theo tuổi đời mục vụ: nhóm 1 (25-33 năm và còn sống), nhóm 2 (36 năm trở lên, mà còn năng nổ hoạt động và vẫn sẵn sàng mục vụ)

Nhóm 1 các thành viên được mời gọi nhìn lại đời sống linh mục, các ân sủng được lãnh nhận, đặc tính của hồng ân linh mục cũng như những món quà tự hiến trong mục vụ, các thử thách đã trải nghiệm, và sứ vụ linh mục tác động đến bản thân họ thế nào. Cũng hướng tới việc chuẩn bị cho giai đoạn mục vụ tiếp theo khi thuộc nhóm giáo sĩ thâm niên: ôm trọn mầu nhiệm Thập giá, nuôi dưỡng đời sống linh mục, thắp lên ngọn lửa cam kết nên người lãnh đạo-tôi tớ, và trở thành người liêm chính trong ánh sáng của niềm vui cũng như ưu tư khi mục vụ.

Cứ cách một năm, khoá học 5 ngày được tổ chức cho giáo sĩ thâm niên, với vô số diễn giả và các cha linh hướng.

Nhóm 2 yêu cầu mọi thành viên xác minh mới mẻ và cảm thức thích đáng dựa trên ánh sáng của ân sủng mà họ cảm nhận trong đời. Các tham dự viên tập trung vào sự tăng trưởng của giáo xứ hoặc giáo phận mà họ đã từng đóng góp. Phần “tính trọn vẹn nơi bậc sống” mà khoá học ngắn hạn sẽ giúp họ thắt chặt những liên hệ lỏng lẻo, cũng như xác định các lĩnh vực cần được chữa lành và củng cố. Chương trình hỗ trợ tham dự viên định hình lại những đặc điểm vẫn còn hữu ích khi đối diện thời kỳ nghỉ hưu. Đây là khoá học 3 ngày rất năng động, chủ yếu chia sẻ và giải bày suy nghĩ cũng như cảm xúc.

  1. CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ: Quan tâm đến các Linh mục đang gặp Khó khăn Đặc biệt

Cuối những năm 1990, một chương trình canh tân tập trung lần 2 được giới thiệu dựa trên sự chuyên môn của các Cha dòng Tôi tớ Đấng Bầu Cử, với tên gọi: Chương trình Canh Tân Tập trung Hỗ trợ (Chương trình AIR) hoặc đơn giản là Chương trình Hỗ trợ.

Đối tượng chủ yếu gồm các linh mục, tu sĩ có nhu cầu hoặc gặp nan giải về nhân bản, cảm xúc, đời sống thiêng liêng và ơn gọi, cũng như rơi vào những tình trạng như: chán nản, lo âu, giận dữ, khó khăn trong tính cách và ơn gọi. Ngoài ra, bao gồm kể cả các vận nạn về tâm sinh lý có thể liên quan hoặc không liên quan tới việc lạm dụng cũng như bạo hành biên độ. Đối với những đối tượng dính đến bạo hành biên độ, thì chương trình cung cấp phương thức khôi phục đặc thù theo các tiêu chuẩn chuyên môn được hoàn toàn chấp nhận và tương thích với những giáo huấn Công giáo chân chính về tính dục cũng như đời sống độc thân.

Chương trình Hỗ trợ có 3 giai đoạn:

  1. Đánh giá: kéo dài 3 ngày, nhờ vào công dụng của mọi đánh giá trên các bình diện phân tâm, y tế, tâm lý và tu đức. Giai đoạn này giúp từng cá nhân đưa ra quyết định có tiếp tục tham gia vào giai đoạn 2 của chương trình hay không.
  1. Lưu trú: chương trình lưu trú tập trung kéo dài 3 tháng, hỗ trợ tham dự viên tìm hiểu hoạt động về các vấn đề bản thân trong khung cảnh của một cộng đoàn tin tưởng, an toàn và quan tâm. Các tham dự viên sẽ trải qua 3 thời kỳ:
  1. nhận thức và chấp nhận bắt đầu xử lý các vấn đề;
  2. khám phá sâu sắc (các) vấn đề;
  3. thực hiện hoặc đưa ra kế hoạch để khôi phục.

Trước khi kết thúc chương trình lưu trú, Giám mục hoặc Bề trên dòng hoặc cha Đại diện sẽ tham gia buổi họp hoạch định. Một đối tác hữu trách được tham dự viên chọn hoặc được Giám mục hay Bề trên dòng chuẩn thuận, cũng được tham dự buổi họp hoạch định.

Cấu thành của Giai đoạn Lưu trú bao gồm:

    1. Tư vấn cá nhân: hai lần/1 tuần, thông thường kéo dài từ 45-60p cho một người;
    2. Tư vấn nhóm: 3 lần/1 tuần, kéo dài từ 2-2,5 giờ/ 1 buổi;
    3. Linh hướng cá nhân: 2 lần/1 tuần, từ 45-60p/1 người;
    4. Linh hướng nhóm: 2 lần/1 tuần, từ 2-2,5 giờ/1 buổi;
    5. Hội nghị, hội thảo và các buổi đọc sách liệu pháp chữa trị;
    6. Linh thao và cử hành Phụng vụ chung;
    7. Lượng giá kết quả kiểm tra y tế và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ khác.
    8. Những sinh hoạt cộng đoàn và các buổi kết nối.

Đối với những tham dự viên cần quan tâm lâu dài, thì có chương trình Chăm sóc Mở rộng.

  1. Chăm sóc diễn tiến: giai đoạn này gồm thực hiện kế hoạch đã được quyết định ở cuối giai đoạn Lưu trú. Những đề xuất tiêu biểu cho việc chăm sóc diễn tiến: tư vấn cá nhân và/hoặc linh hướng, hỗ trợ của nhóm, thành viên tổ chức chương trình Hỗ trợ thăm viếng sau khi tham dự viên trở lại công việc mục vụ, các hội thảo hoà nhập, tư vấn phân tâm diễn tiến. Những đề xuất khác phụ thuộc vào nhu cầu của cá nhân. Giai đoạn chăm sóc diễn tiến này thông thường kéo dài 2 năm.

Thành công của Chương trình phụ thuộc nhiều vào sự cởi mở và hợp tác của tham dự viên, đặc tính của đời sống cộng đoàn và các nhóm hỗ trợ được thiết lập, đời sống canh tân cầu nguyện của tham dự viên, chất lượng tư vấn, giúp đỡ về mặt phân tâm học, linh hướng, và hình thức chắm sóc diễn tiến được đối tác hữu trách điều phối và hướng dẫn.

  1. Các Chương trình Hỗ trợ

Hai chương trình được hình thành nhằm bổ trợ Đào tạo Trường kỳ Tổng quát và Chương trình Hỗ trợ.

Đầu tiên là chương trình đào luyện tập trung cho hàng loạt nhân sự, mà họ là những người hỗ trợ sơ khởi cho các linh mục đang gặp khó khăn, cũng như đóng vai trò của đối tác hữu trách. Và nay, chúng tôi đào tạo linh mục ở mỗi vùng tại Phi-luật-tân.

Vào năm 1998, Uỷ ban Giáo sĩ trực thuộc Hội đồng Giám mục Phi-luật-tân, nhờ các cha dòng Tôi tớ Đấng Bầu Cử trợ giúp, đã tổ chức buổi Hội thảo/Thường huấn Hỗ trợ trong quy mô nhỏ dành riêng cho Giám mục Phi-luật-tân. Chương trình này giúp các ngài làm quen không chỉ về mặt chuyên môn mà còn tích cực hỗ trợ cũng như quan tâm sâu sắc đến vấn đề canh tân đời sống linh mục nói chung và mối tương quan với linh mục đang gặp khó khăn nói riêng.

Những chủ đề được phát triển xuyên suốt trong hội thảo/thường huấn:

  • Đào sâu tính nhạy cảm đối với Nạn nhân thất bại trong Đời sống Tận hiến Độc thân;
  • Những Tiểu tiết Khác biệt trong Nỗ lực Sống Đời độc thân Tận hiến;
  • Trình bày một Hình mẫu sống động đích thật cho Tính dục, Đức Khiết tịnh, và sự Thân mật đối với các Linh mục;
  • Phát triển Nhân bản như thể Nền tảng cho Đời sống Độc thân Tận hiến;
  • Phát triển Nhân bản cho Linh mục có Xu hướng Đồng tính;
  • Nạn nghiện rượu
  • Tình trạng can thiệp Mục vụ
  • Án lệ Dân sự và Giáo luật liên quan tới các Linh mục đang gặp khó khăn;
  • Những Giới hạn trong các Mối tương quan Thừa tác;
  • Nạn lạm dụng Trẻ em và Ấu dâm
  • Các Tính cách rối loạn Thần kinh trong các Hội dòng.

Mỗi ngày trong Hội thảo/Thường huấn đều có thời gian suy niệm riêng, chia sẻ và dành một giờ đồng hồ Chầu Thánh Thể.

  1. Kết luận

Trong những năm từ 2000-2002, Giáo hội tại Phi-luật-tân đã bị tan nát do những vụ bê bối tình dục liên can đến nhiều linh mục và một số thành viên ở vị trí lãnh đạo. Hội đồng Giám mục Công giáo Phi-luật-tân (CBCP) đã phản ứng nhanh chóng nhằm chặn đứng mọi thiệt hại đến Giáo hội, cũng như đề xuất nhiều giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn nạn.

Biện pháp trị liệu dài hạn cũng chính là nỗ lực nhanh chóng cập nhật Chương trình Đào tạo Linh mục tại Phi-luật-tân. Bên cạnh đó, giải pháp ngắn hạn được đề ra nhằm biên soạn một nghị định thư về các hành vi tình dục không đứng đắn của linh mục. Đặc biệt, giải pháp này gặp khó khăn khi xem xét mọi yếu tố đặc thù trong văn hoá Phi-luật-tân, cũng như tất cả nỗ lực từ các Hội đồng Giám mục đề xuất nghị định thư tương tự khi phải đối diện với nhiều vụ bê bối không ngừng làm lung lay Giáo hội tại Hoa Kỳ. Cho đến nay, nghị định thư Phi-luật-tân này chưa được hoàn thành, nhưng phần khái quát và các chỉ thị đã được đặt ra tại nhiều Giáo phận.

Phần trình bày toàn bộ này nói đến nỗ lực từ phía các Giám mục ở cấp độ quốc gia, nhằm nêu ra yêu cầu mà Uỷ ban Giáo sĩ trực thuộc Hội đồng Giám mục Phi-luật-tân đề xướng. Tuy nhiên, chúng tôi ý thức hơn rằng nhiều Giáo phận tại Phi-luật-tân đang cố gắng hướng tới chương trình đào tạo “vĩnh viễn” hiệu quả và các biện pháp hỗ trợ cho những linh mục khó khăn vẫn được tiếp diễn.

Đồng thời, ở cấp độ CBCP, chúng tôi thành lập Uỷ ban đặc biệt nhằm đào sâu Chương trình Đào tạo Trường kỳ của các Giám mục. Khá hữu ích nếu mỗi năm tổ chức được những hội luận cho Giám mục và tĩnh tâm năm dành cho Giám mục. Từ mọi hoạt động này, chúng tôi học hỏi và bổ trợ cho nhau.

Thư mục tham khảo:

  1. Hội đồng Giám mục Công giáo Phi-luật-tân (CBCP), Chương trình Câp Nhật Đào tạo Linh mục tại Phi-luật-tân, Uỷ ban Giám mục về các Chủng viện, 2006, tr. 108.
  2. Mọi tài liệu tham khảo khác đều là bản văn được biên soạn hoặc viết tay từ Ban Mục vụ Chương trình Hỗ trợ, mà thời điểm soạn thảo không được ghi chú.

IV. CÔNG BỐ CHUNG CUỘC

Văn phòng Giáo sĩ FABC đã tổ chức Hội thảo Quốc tế dành cho các Giám mục Á Châu từ 27/8 đến 31/8/2007 tại Trung tâm Dòng Chúa Cứu Thế, Pattaya, Thái Lan, nhằm thảo luận vai trò, trách nhiệm của Giám mục trong việc chăm sóc giáo sĩ, đặc biệt những linh mục đang trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. 74 tham dự viên, bao gồm một Hồng y, 68 Tổng Giám mục và Giám mục, cùng với 7 diễn giả chuyên môn đã tham gia hội thảo. Hội thảo nêu ra ba mục tiêu: 1) giúp Giám mục suy tư về căn tính và tôn chỉ của sứ vụ linh mục trong bối cảnh Á Châu, 2) hỗ trợ các ngài xác định những trở ngại mà linh mục đang đối diện trong cuộc sống cũng như trong mục vụ, 3) giúp đỡ Giám mục trong việc quan tâm, săn sóc hơn nữa các linh mục trong tình cảnh khó khăn về những mối tương quan với bản thân, với giáo dân và người khác, với Giám mục, và với chính Thiên Chúa. Cuộc hội thảo được khai mạc do Đức Khâm sứ Toà Thánh, Tổng Giám mục Salvatore Pennacchio. Ngài nhắn gửi tình gắn kết thân thiết cũng như tinh thần hiệp nhất của Đức Thánh Cha đến với mọi tham dự viên, ngõ hầu cùng nhau cân nhắc các chủ đề hệ trọng đối với đời sống của Giáo hội.

Và sau đây là bản công bố chung cuộc từ tất cả Giám mục với vai trò tham dự viên:

Là những Giám mục, chúng tôi ý thức rõ vai trò chăn dắt đoàn chiên trong Giáo hội, xác định trách nhiệm của mình khi chăm sóc toàn thể Giáo phận nhằm diễn tả tình mến đặc biệt dành cho các linh mục, những cộng sự viên mục vụ gần gũi nhất của chúng tôi. Suốt buổi thảo luận, chúng tôi càng xác tín hơn về tính cấp bách của việc đào tạo trường kỳ diễn tiến dành cho các linh mục, ngõ hầu họ được thăng tiến trong ơn gọi và sống trung thành với lời cam kết thực thi sứ mệnh.

Chúng tôi hết lòng cảm kích các cộng sự viên-linh mục, nhiều vị trong số này đang phục vụ tại những nơi hoàn cảnh khó khăn và đầy cam go. Trong bối cảnh Châu Á hiện nay, nhu cầu đòi hỏi các linh mục ngày càng nhiều, và có thể dẫn tới kiệt sức, lao lực. Nhưng chúng tôi cảm thấy thôi thúc trong vai trò hỗ trợ mọi linh mục thực hiện sứ vụ một cách vui tươi và hữu hiệu, luôn noi theo gương sáng của Vị Mục Tử Tốt Lành.

  1. Hoàn cảnh

Linh mục tại Châu Á đang phải nếm trải chung một nỗi lo âu lo, căng thẳng mà chính xã hội chúng ta cũng trải qua do sự thay đổi văn hoá nhanh chóng, do các thế lực thế gian, hoà lẫn trong chủ nghĩa khoái lạc và lối nhìn về cuộc đời mang tính chủ thuyết tiêu thụ chi phối. Hơn nữa, họ phải đối mặt với biết bao thử thách nảy sinh từ các quan niệm biến thiên về căn tính cũng như sứ mệnh của linh mục trong thế giới hiện đại, và tính phức tạp ngày càng tăng trong hoàn cảnh mục vụ. Không ít vị đã sống cô lập giữa nhiều bối cảnh xã hội khác nhau, chịu áp lực quá nhiều từ công việc, đôi khi rơi vào tình cảnh mâu thuẫn, thỉnh thoảng cảm thấy mọi đóng góp của bản thân không được công nhận xứng đáng.

Suy tư về tất cả nan giải của linh mục, chúng tôi đặc biệt chú ý đến các vị đang phục vụ trong tình cảnh bệnh hoạn, giữa những căng thẳng về thể lý/tâm lý/tâm linh, và một số hoàn cảnh nghiêm trọng khác. Những điều này có lẽ bắt nguồn từ thời niên thiếu hoặc do trải nghiệm cuộc sống trước đây, mà chưa thật sự được chữa lành trong suốt thời kỳ đào tạo, hoặc những tổn thương khi thực hiện sứ vụ vẫn còn hằn sâu trong tâm trí. Nạn nghiện ngập và thói quen tiêu cực mà đương sự day dưa, cho phép nó trói buộc họ như: nghiện rượu, ma tuý, xem TV, tích trữ thiết bị công nghệ, hoặc những mối quan hệ không lành mạnh; chúng sẽ vét hết nguồn lực tâm linh và lấy đi mọi hiệu năng cho công việc tông đồ. Các vấn nạn này xảy ra có thể do thiếu vắng tình thân gắn kết giữa linh mục với giám mục, cho dù thất bại đến từ phía nào đi chăng nữa.

  

  1. Xác tín của Chúng tôi

Tuy nhiên, còn có rất nhiều cơ hội chữa lành và làm sáng tỏ căn tính-sứ mệnh nơi mỗi thời kỳ trưởng thành của linh mục. Vì thế, khởi đầu với việc chọn lựa ứng viên trẻ vào chủng viện thì cần phải thận trọng, và hết sức hợp tình khi tin rằng tâm lý của những ứng viên mới này chắc hẳn được quân bình, có động lực thiêng liêng để bước vào đời sống dấn thân phục vụ Chúa và dân Người.

Suốt nhiều năm đào tạo, họ chín chắn qua việc am hiểu đúng đắn về sứ vụ linh mục, sàn lọc mọi động lực, mỗi ngày thăng tiến trong niềm tín thác và gắn kết thân tình với Đức Ki-tô. Họ hướng nhìn lên Người như vị Thầy chí Thánh và là Đấng dẫn dắt, Người là nguồn linh hứng vững chắc và đầy quyền năng, nâng đỡ họ mỗi khi đối diện với mọi thách đố cuộc đời. Họ luôn phải khắc ghi lời trong Thư gửi tín hữu Do Thái:“Vị Thượng Tế của chúng ta chẳng phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta. Trái lại, Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội”(Dt 4, 15). Linh mục không ngừng nỗ lực lớn lên để ngày càng trở nên giống Đức Ki-tô - người trọn hảo, cho tới khi Người trở thành tâm điểm của đời sống họ.

Các chủng sinh trẻ cần tạo điều kiện cho ban đào tạo huấn luyện, phải rõ ràng với chính mình, năng nỗ học hỏi trong mọi ngành cũng như truyền thống đạo đức của Giáo hội. Họ cần phát triển trí tuệ, cũng như thói quen đọc sách, mà nó sẽ giúp họ kiên định trong những năm sau này, ngay cả giữa các sinh hoạt căng thẳng và vẫn hết lòng phục vụ giáo dân hết mình.

Tuy nhiên, hầu hết chúng nhận ra rằng Giám mục và linh mục là những người của niềm hiệp thông. Trong suốt thời gian đào tạo ở chủng viện, họ biết tới cung cách sống và chia sẻ cộng đoàn, và nó đã giúp họ phát triển các kỹ năng suy luận, cũng như khả năng đối thoại. Để rồi họ biết vận dụng kỹ năng này cho đời sống gắn kết thân thiết với anh em linh mục mà họ cùng sống và làm việc. Bởi vì tình thân hữu ấm áp giữa Linh mục đoàn, với các linh mục và Giám mục luôn thấm đượm sức mạnh chữa lành, tiếp thêm động lực và nâng đỡ nhau. Trong Linh mục đoàn như một gia đình, các cha sẽ tìm thấy sự khích lệ, hỗ trợ, và góp ý sửa đổi trong tình đệ huynh mà họ cần đến trong mọi trạng huống sống. Tuy nhiên, bầu khí thân tình này phải được cần mẫn kiến tạo và không ngừng dưỡng nuôi, ngõ hầu kiên định chống lại mọi cám dỗ dẫn đến rạn nứt, chia rẽ tình huynh đệ và phá vỡ hiện trạng tự cô lập.

Sứ vụ linh mục ngày nay dấn thân sâu rộng vào nhiều hình thức phục vụ khác nhau, nhưng tính hợp lệ của nó phải được Giáo hội địa phương chuẩn nhận. Tuy vậy, đừng bao giờ thử tạo rủi ro tách biệt bản thân ra khỏi những việc thiêng liêng. Các nền văn minh Á Châu luôn mang bản sắc giá trị tinh thần, chú trọng đến mục đích thiêng liêng hơn vật chất, luôn hy sinh quên mình ở tầm mức cao và kiên trì chịu đựng mọi hình thái khổ hạnh khác nhau, nhưng vẫn nuôi dưỡng lòng kính trọng người lớn, gắn bó với cộng đoàn và những truyền thống. Các linh mục trẻ đảm nhiệm vai trò nào đó thường phớt lờ giới hạn khôn ngoan bản thân, và không tuân giữ kỷ luật thiêng liêng, hay bỏ qua những hướng dẫn của các bậc tiền bối dày dặn kinh nghiệm truyền lại. Trên thực tế, suốt thời gian đầu của sứ vụ, chính Giám mục là người đồng hành, gần gũi và trợ giúp linh mục trưởng thành trong niềm tận tuỵ, quảng đại phục vụ hơn.

Nhưng thời gian cứ thế trôi, họ phải chịu trách nhiệm lớn lao về mức độ chín chắn của mình qua các phẩm hạnh tư tế, gương chứng tá Tin Mừng, thái độ trầm tĩnh, giao tế xã hội, trong sạch, tinh thần cán đáng và có khả năng kết nối tự nhiên với mọi thành phần giáo dân, cũng như hăng hái rao truyền sứ điệp Phúc Âm với niềm xác tín. Các linh mục được khích lệ nỗ lực thực hiện tác vụ tông đồ, được hỗ trợ đánh giá bản thân cũng như các hoạt động của mình, và được giúp đỡ học hỏi ngay cả từ những kinh nghiệm tiêu cực.

Có lúc cá nhân linh mục sẽ cần trợ giúp chuyên môn nhằm vượt qua tổn thương mà họ đã tiếp nhận qua những hoàn cảnh gắng sức, cũng như mọi thứ dễ giải bước vào đời sống họ mà thiếu cảm thức trách nhiệm tương ứng. Gần đây, không thiếu những cáo buộc chống lại giáo sĩ đã khiến thế giới đảo điên. Vì vậy, thật hết sức quan trọng khi phải tận dụng mọi biện pháp thích hợp nhằm phòng tránh các sự cố chẳng mấy vui vẻ đó xảy ra, và đảm bảo tiếp tục chăm sóc những linh mục đang trong hoàn cảnh thất bại tương tự. Mọi suy tư từ tất cả chuyên khoa hành xử mang lại đều có giá trị lớn lao. Tuy nhiên, chúng ta tin chắn rằng những ứng viên được chọn dẫn dắt phải có nền tảng dựa trên tôn chỉ Ki-tô giáo về con người và tuân theo mọi giáo huấn của Giáo hội. Chúng ta cũng được thừa hưởng từ sự khôn ngoan thực tiễn dựa trên vô số cảm nghiệm của Giáo hội và những truyền thống đạo đức của cộng đoàn Ki-tô giáo.    

  1. Các Đề xuất của chúng tôi
  1. Chủng viện là tâm điểm của Giáo phận, vì thế Giám mục nên thăm viếng chủng sinh định kỳ, tạo cơ hội gặp gỡ trực tiếp khi có thể được, động viên ban đào tạo và bàn thảo với họ về những vấn đề hệ trọng trong việc đào tạo chủng sinh.
  1. Cám linh mục tìm đến sức mạnh thiêng liêng mà họ cần qua đời sống cầu nguyện, đặc biệt nơi Thánh Thể; để họ trung thành với Kinh Thần Vụ, và tập quán đạo đức truyền thống khác như suy niệm, đọc sách thiêng liêng, xét mình, lòng sùng kính Đức Mẹ bất kể lúc nào có thể thực thiện được trong cộng đoàn. Đôi lúc cần những khoảnh khắc cầu nguyện cá nhân mãnh liệt ngay cả giữa các hoạt động mục vụ; tạo địa điểm, thời gian thinh lặng nguyện cầu trong Giáo phận, ngõ hầu giúp các linh mục có mối thân tình sâu đậm với Thiên Chúa hơn. Về phần giáo dân, họ được khuyến khích cầu nguyện cho các linh mục.
  1. Những buổi tĩnh tâm, gặp gỡ thiêng liêng, hội luận và thường huấn được tổ chức định kỳ cũng như mời các linh hoạt viên có năng lực tốt, điều phối những sự kiện mang lại lợi ích cho tham dự viên. Cần chuyên tâm học hỏi các văn kiện Giáo hội như Tông huấn Pastores Dabo Vobis, Pastores Gregis, và Kim chỉ nam cho Đời sống và Sứ vụ Linh mục.
  1. Một khoá học đào tạo trường kỳ cần được chuẩn bị hết sức chu đáo và thiết thực giúp các linh mục canh tân trong đời sống tu đức, và khoá học này nên được tổ chức tại mỗi Giáo phận/giáo miền; các khoá học bồi dưỡng thần học cũng như chuyên ngành khác nên được tổ chức theo nhóm đối tượng khác nhau, dựa trên tuổi đời hay kinh nghiệm hay bản chất của sứ vụ, nhằm hỗ trợ các linh mục tự cập nhật, có thêm năng lực, cũng như tìm ra động lực mới mẻ trong sứ vụ của mình. Tại những nơi chưa có Liên hiệp Tông đồ Giáo sĩ thì cần được thiết lập, và Liên hiệp này tiếp sức cho những nơi đã-đang mất đi tính sinh động nguyên thuỷ của nó.
  1. Phải tạo dịp lãnh nhận Bí tích Hoà giải thường xuyên và nên mời các cha giải tội đầy kinh nghiệm đến hỗ trợ.
  1. Các cha linh hướng và Tư vấn viên chuyên môn phải có mặt sẵn sàng tại Giáo phận/Giáo tỉnh, để linh mục dễ dàng tiếp cận với những vị vừa trưởng thành về mặt tu đức mà còn sở hữu chuyên môn tương xứng. Cần nỗ lực huấn luyện nhân sự cho mọi nhu cầu khác nhau của Giáo phận như: kỹ năng quản trị, quan hệ giữa người với người, kinh nghiệm mục vụ phòng mạch, hoặc những linh mục có thể đồng hành tư vấn cho anh em linh mục khác.
  1. Phải tổ chức các chương trình Định hướng Mục vụ dành cho tân linh mục trong suốt thời kỳ thuyên chuyển đến đời sống giáo xứ.
  1. Linh mục nuôi dưỡng quan hệ thân thiết giữa họ, thăm viếng các anh em linh mục lân cận, hợp tác-động viên nhau trong sứ vụ, khi cần thì khuyên giải-sửa lỗi nhau; chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn với nhau trong mọi trạng huống cuộc đời. Giám mục sẵn sàng có mặt mỗi khi linh mục trong Giáo phận liên lạc, thăm viếng họ, và dành thời giờ cho họ khi cần.
  1. Phải soạn thảo sổ tay hướng dẫn cấp Giáo phận về những vấn đề nghiêm trọng liên quan đến các linh mục đang trải qua trong cuộc sống cũng như trong sứ vụ như: hành vi lạm dụng tình dục bất xứng, quản trị tài chính kém, những tình trạng nghiện ngập (rượu, ma tuý,…). Các linh mục mắc phải này cần được hỗ trợ tại điểm điểm thích hợp, nhằm giúp họ cải thiện tốt hơn.

 

  1. Văn phòng Giáo sĩ trực thuộc FABC (FABC-OC) tổ chức các chương trình dành cho linh mục, nhà đào tạo và cho những ai có trách vụ giúp đỡ những linh mục trong mọi hoàn cảnh khó khăn.
  • Thuyết trình viên chuyên môn bao gồm: ĐTGM Evarist Pinto từ Pa-kis-tan, ĐTGM Peter Fernando từ Ấn Độ, ĐTGM Ferdinando Capalla và Orlando Quevedo, OMI từ Phi-luật-tân, Gm. Vianney Fernando từ Sri Lan-ka, cùng với các cha Vimal Tirimanna, CSsR, Francis Jayapathy, SJ, và Lawrence Pinto, MSIJ, Thư ký điều hành Văn phòng Giáo sĩ trực thuộc FABC.

TƯ LIỆU FABC:

109. Missio Inter Gentes: Towards a New Paradigm in the Mission Theology of the Federation of Asian Bishops’ Conferences [tạm dịch: Sứ mệnh Truyền giáo Giữa các Dân tộc: Hướng tới một Hệ luận Mới trong Thần học Truyền giáo của Liên Hội đồng Giám mục Á Châu] do Jonathan Yun-ka Tan biên soạn, 2004.

110. Gia đình trong Truyền thông; Truyền thông trong Gia đình, do Văn phòng Truyền thông Xã hội trực thuộc FABC biên soạn, 2004.

111. Tài liệu Chung cuộc, Hội nghị Khoáng đại FABC lần thứ 8, “The Asian Family towards a Culture of Integral Life” [tạm dịch: “Gia đình Châu Á hướng tới một nền Văn hoá của Đời sống Đoan chính”], 2004.

112. Tự do Tôn giáo trong Bối cảnh Châu Á, được Văn phòng Quan tâm về Thần học trực thuộc FABC biên soạn, 2004.

113. Các Cộng đoàn Ki-tô giáo Nhỏ bé Thúc đẩy Đời sống Gia đình, do Lm. Arthur Pereira và Wendy Louis biên soạn, 2005.

114. Tổ chức khoá học cho việc Đối thoại với Hồi giáo, được Văn phòng Giáo dục và Tuyên uý Sinh viên trực thuộc FABC biên soạn, 2005.

115. Inculturation in Asia: Directions, Initiatives and Options [tạm dịch: Hội nhập văn hoá tại Á Châu: Định hướng, Sáng kiến và Lựa chọn], do James H. Kroeger, MM, biên soạn, 2005.

116. Vai trò của Tu sĩ trong việc Xây dựng Giáo hội Địa phương, được Văn phòng Đời sống Thánh hiến trực thuộc FABC biên soạn, 2005.

117. The Second Vatican Council and the Church in Asia [tạm dịch: Cộng đồng Va-ti-can II và Giáo hội tại Á Châu], do James H. Kroeger, MM, biên soạn, 2006.

118. Hôn nhân Liên tôn trong Bối cảnh Á Châu Đa thuyết: Những Thách đố, Suy tư Thần học và Phương thức tiếp cận Mục vụ, được Văn phòng Quan tâm về Thần học trực thuộc FABC biên soạn, 2006.

119. Jesus Christ the Way to the Father: The Challenge of the Pentecostals [tạm dịch: Đức Giê-su Ki-tô, Chính lộ đến với Chúa Cha: Thách đố của Giáo phái Hiện xuống], do John Mansfold Prior, SVD biên soạn, 2006.

120. Trân trọng Sự sống trong Bối cảnh Á Châu, được Văn phòng Quan tâm về Thần học trực thuộc FABC biên soạn, 2007.

121. Tư vấn mang đậm nét Á Châu về Tính Hoà hợp thông qua Hoà giải – Feisa VII, được Văn phòng Phát triển Con người trực thuộc FABC biên soạn, 2007.

Được phát hành vào tháng 11 năm 2007

Tác giả: