Nhảy đến nội dung

Ưu tiên đức tin - Tách biệt, phân biệt và hòa hợp

ƯU TIÊN ĐỨC TIN

Chúa Giêsu động viên: “Đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” (Mc 5:36)

Tôi đã thất nghiệp gần 3 năm sau khi tốt nghiệp đại học ở Nigeria. Tôi đang tuyệt vọng tìm kiếm một công việc và tha thiết cầu xin cho mình có được một công việc. Tôi nhớ đã cầu nguyện rất nhiều, lần nhiều chuỗi Mân Côi và làm nhiều tuần cửu nhật, dâng nhiều Thánh Lễ, thức nhiều đêm, ăn chay nhiều, v.v... Nhưng tôi chưa nhận được một cuộc phỏng vấn xin việc nghiêm túc nào.

Mặc dù tôi không nhận được công việc mà tôi tha thiết mong muốn, nhưng đức tin vào Chúa đã lớn lên và trưởng thành nhiều trong giai đoạn đó của đời tôi. Tôi bắt đầu cảm nhận được tình yêu Chúa Giêsu dành cho tôi và tôi muốn yêu mến Ngài trong sự thật và việc làm bằng cách phục vụ Ngài trong Giáo Hội Công Giáo thánh thiện của Ngài. Tôi tin rằng hạt giống ơn gọi linh mục và tu sĩ của tôi đã nảy mầm trong giai đoạn đó của cuộc đời tôi.

Tôi học được từ kinh nghiệm này rằng mặc dù Chúa Giêsu luôn có thể và sẵn sàng làm phép lạ trong cuộc sống của chúng ta, nhưng Ngài luôn đặt đức tin của chúng ta là ưu tiên hàng đầu. Dù Ngài có ban cho chúng ta điều chúng ta cầu xin hay không, chắc chắn Ngài sẽ lo liệu để đức tin của chúng ta nơi Ngài lớn lên và chúng ta truyền bá đức tin đó cho người khác.

Đây là bài học mà ông Giaia và người phụ nữ băng huyết trong Mc 5:21-43 (≈ Mt 9:18-26; Lc 8:40-56) đã học được khi gặp Chúa Giêsu. Người phụ nữ đến với Chúa Giêsu với mục đích chữa lành là chính: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Cô có một niềm tin đầy hy vọng. Nhưng cô không tìm cách trò chuyện với Chúa Giêsu hoặc làm chứng về Ngài trước mặt người khác. Cô chỉ muốn được chữa lành.

Chúa Giêsu hỏi “ai đã sờ vào áo tôi?” không phải vì Ngài không biết ai chạm vào Ngài. Ngài biết ai đã được lợi từ quyền lực đã xuất ra từ Ngài. Ngài hỏi vì Ngài muốn ban cho người phụ nữ một điều gì đó lớn lao và lâu dài hơn so với sự chữa lành thể xác mà cô đã trải qua khi chạm vào áo Ngài. Ngài muốn mở rộng đức tin của cô thành đức tin cứu độ – loại đức tin duy nhất dẫn đến hòa bình trên trái đất và cuộc sống trọn vẹn trên Thiên Đàng. Sau khi người phụ nữ đáp lại bằng cách làm chứng cho Chúa Giêsu trước mọi người, Chúa Giêsu đã ban cho cô đức tin ban sự sống: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”

Tương tự, thủ lãnh Giaia đã đến với Chúa Giêsu, tập trung vào việc chữa lành cho con gái bị bệnh hiểm nghèo. Chúa Giêsu thách thức ông kiên trì trong đức tin và đặt đức tin ưu tiên hàng đầu: “Đừng sợ, chỉ cần tin thôi." Chúa Giêsu mời gọi ông tin, ngay cả khi đối mặt với cái chết, rằng Ngài có thể khiến kẻ chết sống lại. Khi ông Giaia để cho Chúa Giêsu mở rộng đức tin, Chúa Giêsu đã khiến con gái ông sống lại từ cõi chết.

Chúa Giêsu Kitô đặt niềm tin của chúng ta vào Ngài là ưu tiên hàng đầu của Ngài, nhưng chúng ta có đặt niềm tin nơi Ngài là ưu tiên hàng đầu của mình? Chúng ta tin Chúa Giêsu có phải là điều mà chúng ta cố gắng trưởng thành và phản ánh cho người khác? Phải chăng chúng ta tin Ngài là điều mà chúng ta không coi là đương nhiên? Chúa Giêsu Kitô sẽ lo liệu mọi việc nếu chúng ta cũng đặt niềm tin vào Ngài là ưu tiên hàng đầu của mình.

Chúng ta có rất nhiều ưu tiên trong cuộc sống ngày nay. Điều rất quan trọng là khi chúng ta mang những điều này đến với Chúa Giêsu, chúng ta cũng để cho Ngài làm cho chúng ta chín chắn và đào sâu đức tin của chúng ta vào Ngài. Nếu ưu tiên của chúng ta trong cuộc sống là luôn cảm thấy tốt đẹp và không trưởng thành trong đức tin, chúng ta sẽ dễ dàng sa vào tội lỗi. Nếu ưu tiên của chúng ta là cuộc sống dễ dàng và thoải mái mà không trưởng thành trong đức tin thì chúng ta sẽ trở nên lười biếng và ích kỷ. Nếu ưu tiên của chúng ta là luôn khỏe mạnh và chúng ta không lớn lên trong đức tin, chúng ta sẽ bị nỗi sợ hãi bệnh tật lấn át. Nếu ưu tiên của chúng ta là giàu có và đức tin của chúng ta yếu đuối, chúng ta sẽ trở nên tham lam và không trung thực. Nếu ưu tiên của chúng ta là niềm vui và sự thỏa mãn, chúng ta không lớn lên trong đức tin, chúng ta sẽ trở nên nghiện những lạc thú, đặc biệt là ẩm thực và tình dục. Nếu ưu tiên của chúng ta là được người khác chấp nhận và tôn trọng, đồng thời chúng ta thiếu niềm tin sâu sắc, chúng ta sẽ trở thành những kẻ lừa đảo và đạo đức giả mà lời nói không biến thành hành động.

Ưu tiên của Chúa Giêsu cho đến tận thế là chúng ta luôn có đức tin sống động trong lòng. Nếu không có đức tin sống động, chúng ta không thể có được trọn vẹn những lợi ích mà Ngài ban cho chúng ta qua sự chết và sự phục sinh của Ngài. Tóm lại, chúng ta làm cho Thập Giá trở nên vô dụng đối với chúng ta. Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu hỏi chúng ta câu hỏi này về sự trở lại vinh quang của Ngài: “Khi Con Người ngự đến, liệu Ngài còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18:8) Ngài không tìm cách giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống này khi Ngài trở lại. Ngài không mong muốn thấy chúng ta hoàn toàn khỏe mạnh, thành công, được người khác yêu mến và chấp nhận. Chắc chắn Ngài không tìm kiếm điều kiện khí hậu hoàn hảo trên trái đất này. Chỉ đơn giản là Ngài tìm kiếm niềm tin sống động và phát triển trong chúng ta bất kể chúng ta đang phải đối mặt với điều gì.

Đã đến lúc chúng ta phải đặt niềm tin vào Chúa Giêsu là ưu tiên hàng đầu. Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc đặt Lời Chúa lên hàng đầu. Chính nhờ việc nghe Lời Chúa, suy niệm trong lòng như Đức Trinh Nữ Maria và hành động theo Lời Chúa, chúng ta có thể có niềm tin vào Chúa Giêsu đang sống trong chúng ta: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô.” (Rm 10:17) Chúng ta không thể nghe Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng “đức tin của con đã cứu con” nếu chúng ta không dành thời gian nghiêm túc cho Lời Ngài.

Chúng ta cũng hãy nghiêm túc trong việc hoán cải liên tục. Hai điều không thể cùng tồn tại là đức tin sống động và tội lỗi không ăn năn. Đức tin không thể là ưu tiên hàng đầu của chúng ta khi chúng ta biện minh hoặc tôn vinh tội lỗi của mình như chúng ta đã thấy trong nhiều cuộc diễu hành Gay Pride của những người đồng tính. Chúng ta hãy thể hiện sự nghiêm túc trong việc liên tục hoán cải bằng cách hạ mình và thú tội qua Bí tích Hòa Giải. Chúa Giêsu không chỉ xóa bỏ tội lỗi của chúng ta trong bí tích này, mà Ngài còn truyền vào chúng ta đức tin sống động hiện diện trong Giáo Hội của Ngài.

Chúng ta cũng cho thấy rằng đức tin là ưu tiên hàng đầu của mình khi kiên trì cầu nguyện, ngay cả khi hoàn cảnh của chúng ta trở nên tồi tệ hơn hoặc chúng ta không nhận được điều mình cầu xin. Vì ưu tiên của Chúa Giêsu là đức tin nên Ngài có thể không ban cho chúng ta điều chúng ta cầu xin, nhưng chắc chắn Ngài sẽ củng cố đức tin của chúng ta đặt vào Ngài khi chúng ta kiên trì cầu nguyện. Chúng ta có thể vượt qua mọi thứ bằng đức tin mạnh mẽ này: “Điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta.” (1 Ga 5:4)

Chúng ta ưu tiên đặt niềm tin vào Chúa Giêsu khi chúng ta ở gần Đức Trinh Nữ Maria. Có lần đến với Ngài tập trung vào việc thiếu rượu trong tiệc cưới Cana, Đức Mẹ nói: “Họ hết rượu rồi.” (Ga 2:3) Câu trả lời của Chúa Giêsu đã thôi thúc Đức Mẹ đặt niềm tin vào Chúa Giêsu lên hàng ưu tiên và giúp người khác làm điều tương tự khi Mẹ nói với những người hầu: “Ngài bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2:5) Cuối cùng, Chúa Giêsu đã cung cấp rượu ngon nhất vào ngày hôm đó.

Đức Mẹ cũng đứng dưới chân Thập Giá khi mất tất cả, kể cả Người Con mà Mẹ yêu quý nhất – Chúa Giêsu Kitô. Đức Mẹ đã trung thành đứng về phía Ngài vì đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, đó là điều quý giá nhất đối với Mẹ. Đức Mẹ đã cầu nguyện cho Ngài một cách nhiệt thành khi Mẹ giao nộp Ngài lại cho Thiên Chúa để chúng ta được cứu độ. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã ban Đức Mẹ cho chúng ta như là Mẹ của chúng ta: “Đây là mẹ của con.” (Ga 19:27) Chúng ta có nơi Đức Maria một Người Mẹ yêu dấu và trung thành để giúp chúng ta ưu tiên đặt niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, ngay cả trong những lúc đen tối nhất.

Cuối cùng, chúng ta hãy ưu tiên đức tin của mình bằng cách tham dự hy lễ thánh của Thánh Lễ với cùng một niềm tin mong đợi như người phụ nữ băng huyết và ông Giaia. Chúng ta không được tham dự Thánh Lễ chỉ vì thói quen hay nghĩa vụ. Hãy tham dự Thánh Lễ với ước mong được Chúa Giêsu chạm vào chúng ta và chữa lành chúng ta khỏi bệnh tật thể lý, cảm xúc và tâm linh. Hãy mong đợi Ngài mở rộng và đào sâu đức tin của chúng ta. Chúng ta đến với một chút đức tin, và khi rước lễ, Ngài ban cho chúng ta chính Ngài và một đức tin sâu sắc hơn để làm những gì Ngài đã làm: “Ai tin vào Thầy, người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa.” (Ga 14:12)

Chúng ta hãy tự tin dâng mọi nhu cầu và ưu tiên của mình cho Chúa Giêsu. Nhờ ơn Chúa, chúng ta có thể vượt qua hoàn cảnh của mình và sinh hoa trái thiêng liêng cho Vương Quốc của Chúa. Chúng ta chỉ cần để cho Ngài đặt niềm tin của chúng ta vào Ngài là ưu tiên hàng đầu của chúng ta. Thế thôi!

LM. NNAMDI MONEME, OMV

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

▷ Nhịp Đức Tin – https://youtu.be/c0y5EUIJnkU

***********

TÁCH BIỆT, PHÂN BIỆT và HÒA HỢP

I. BẢN CHẤT NAM NỮ

Gần đây, khi suy ngẫm về St 1:26-31 ở Thánh Địa, tôi nghĩ về bản chất của con người, một dữ liệu ổn định đang bị thách thức ngày nay. Thiên nhiên đặt ra những giới hạn, Chúa Cha cũng vậy. Ngài phân chia khi Ngài tạo dựng.

Hành động sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa là tạo ra những ranh giới, những giới hạn. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng khỏi bóng tối, nước trên với nước dưới. Ngài cũng đặt ra những giới hạn phân biệt nước với đất, ngày với đêm, ngày Sabát với ngày làm việc, con người với thú vật, đàn ông với đàn bà. Thiên Chúa chúc phúc cho tất cả và tuyên bố là “tốt lành.”

Hiện hữu và hành vi đạo đức đi đôi với nhau ngay từ đầu. Thiên Chúa là hiện hữu và lòng nhân lành của Ngài tuôn chảy từ Ngài mãi mãi, tức là cái gọi là “Bonum Diffusivum Sui” – Sự Thiện vươn mình ra. (Summa Theologiae I, q.5, a.4, ad2) Thiên Chúa là Cha, và giống như bất kỳ người cha nào, Ngài đại lượng nhưng đặt ra các giới hạn.

Các giới hạn Ngài đặt ra là những gì ngăn cản những quái vật biển huyền thoại của “sự hỗn độn.” Những quái vật này luôn sẵn sàng nhổ tận gốc sự sáng tạo của Thiên Chúa và đưa nó trở về trạng thái ban đầu là “sự trống rỗng không hình dạng và hoang tàn.” Bản chất của con người là một trong những giới hạn đó. Đàn ông không phải là đàn bà và đàn bà không phải là đàn ông. Con người không phải là siêu nhân. Con người là con người, và Chúa Giêsu Kitô đến không chỉ để cho chúng ta thấy Thiên Chúa Ba Ngôi, mà để cho chúng ta thấy bản chất của Thiên Chúa, Ngài còn cho chúng ta thấy bản chất liên quan của chúng ta. Chúng ta được tạo nên từ các mối quan hệ. Chúng ta không được tạo ra để ở một mình. Chúng ta không được tạo ra để sống tách biệt. Thay vào đó, chúng ta được tạo ra để giao tiếp với nhau trong khi vẫn duy trì cá tính riêng biệt của mình. Nó liên quan sự phân biệt hơn là sự tách biệt.

Khái niệm này rất rõ ràng đối với tôi ở Thánh Địa. Tôi cảm nhận được ý thức tôn giáo mãnh liệt ở Giêrusalem. Tuy nhiên, tôi cũng cảm nhận được rất nhiều sự tách biệt giữa ba tôn giáo độc thần. Tôi hiểu tại sao. Tôi hiểu rằng chúng ta không giống nhau. Rốt cuộc, một Kitô hữu tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Đền Thờ Vĩnh Cửu thì không thể khóc trước sự tàn phá của Đền Thờ Salômôn. Ngài có thể làm như vậy vì tôn trọng, như một cử chỉ lịch sự, nhưng bản chất không phải là cử chỉ tôn giáo.

Điều tương tự cũng áp dụng cho sự tôn trọng dành cho Nhà thờ Hồi giáo Omar Caliph, vị trí của Tảng Đá được coi là trung tâm của thế giới. Nó có ý nghĩa đối với người Hồi giáo nhưng không có ý nghĩa đối với người theo Kitô giáo hay người Do Thái. Xét cho cùng, nó tượng trưng cho việc Omar Caliph chiếm Thánh Địa năm 638.

Điều này cũng áp dụng cho Thánh Mộ. Hầu hết người Do Thái ở Giêrusalem chưa bao giờ đến đó, mặc dù tôi đã gặp người Hồi giáo ở đó. Việc tôi nhìn thấy những người Hồi giáo ở đó hoặc tôi cảm thấy ít mâu thuẫn hơn với Nhà thờ Hồi giáo cho thấy người Do Thái và người theo Kitô giáo gần nhau tới mức nào. Suy cho cùng, người Do Thái có chung một nguồn gốc với chúng ta. Người ta có thể hiểu điều này hơn nữa đối với những người theo Chính Thống giáo hoặc với những người theo Tin Lành.

Càng giống nhau thì càng có nhiều căng thẳng. Đó là lý do tại sao Thánh Tôma Aquinô viết rằng lạc giáo còn có tội hơn là người Do Thái hay người không có đức tin. (x. Summa Theologiae II-II q. 10) Càng đến gần “sự hoàn hảo” của Lời mặc khải, hành động phản bội của người ấy càng tội lỗi hơn. Đó là trường hợp của Giuđa Iscariot chẳng hạn. Cho đi nhiều, mong đợi nhiều. Đó là bản chất của tình yêu và trách nhiệm. Sự đáp lại của tình yêu đối với tình yêu được mong đợi.

Mặc dù có những căng thẳng mà tôi cảm nhận, tôi hiểu rằng các Kitô hữu hiện diện ở Thánh Địa là những người đem lại hòa bình. Chúa Giêsu kết hợp Thiên Chúa với con người một cách chính xác qua việc Nhập Thể, một cử chỉ cao cả mặc khải rằng Thiên Chúa là Tình Yêu. Tuy nhiên, sứ điệp của Chúa Kitô chính xác là sứ điệp về sự hiệp nhất, một sự hiệp nhất tôn trọng cá tính riêng biệt của mỗi người và của mỗi nhóm.

Chẳng hạn, mối quan hệ này nằm ở nền tảng của bất kỳ cuộc hôn nhân nào phát triển tốt đẹp. Chúa phải đứng giữa hai người phối ngẫu. Ngài phải là đối tượng của sự kết hợp giữa hai người, xác nhận họ thành một xương thịt – una caro. Mối quan hệ giữa một người nam và một người nữ trong hôn nhân là duy nhất, cũng như mối quan hệ giữa một người nữ và một người nam.

Lưu ý rằng tôi đã đề cập hai mối quan hệ. Rõ ràng, tính độc đáo của các mối quan hệ hôn nhân vẫn nằm chính xác ở mối quan hệ sinh sản: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” (St 1:28) Có sự hài hòa tính đến thứ bậc của sinh vật, như Thánh Tôma Aquinô đã giải thích trong De Veritate q. 20 và Thánh Gioan Phaolô II trong tác phẩm “Love and Responsibility” – Tình Yêu và Trách Nhiệm, được viết trước khi ngài trở thành giáo hoàng.

Mỗi mối quan hệ là duy nhất. Mọi mối quan hệ đều quý giá. Khi một người hiểu được tính độc đáo này của mỗi mối quan hệ, người đó có thể cởi mở với nhiều mối quan hệ cá nhân khác nhau với nhiều người và không ghen tị với những gì họ chia sẻ với người khác bởi vì những gì mỗi người chia sẻ với người khác không thể lặp lại.

II. SỰ NHẬP THỂ NƠI THÁNH ĐỊA BỊ PHÂN CHIA

Chúa Kitô là Đấng Trung Gian, là “người bắc cầu” giữa Thiên Chúa và Con Người. Ngài “quan sát mọi thứ,” là muối của đất, đem lại “hương vị” và ý nghĩa cho mọi thứ bằng cách hy sinh chính mình Ngài, bằng cách “hiến dâng” chính mình một cách thánh thiện, do đó hy sinh có nghĩa là sacrum facere – dâng hiến điều gì đó thánh thiêng thay mặt cho người khác. Tình yêu của Ngài hiệp nhất nhưng cũng phân biệt với những người liên quan. Có sự rõ ràng trong sự hiện hữu và trong hành động với Chúa Kitô. Ngài thực sự mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa và Con Người, như “Gaudium et Spes” (số 22) nhấn mạnh.

Những sự thật này ngày càng rõ ràng hơn đối với tôi khi tôi tới Thánh Địa, từ Giêrusalem ở Israel đến Belem ở Palestine, đến Nadarét ở Galilê. Họ liên tục thúc giục tôi mỗi khi tôi nói chuyện với một Kitô hữu, nghe thấy những đau khổ mà họ phải trải qua trong thời điểm căng thẳng này. Tuy nhiên, đó là nỗi đau có ý nghĩa sâu sắc, sự hy sinh thực sự, không giống như hầu hết những nỗi đau vô nghĩa và thiếu phương hướng mà tôi phải đối mặt trong một xã hội thế tục như Âu châu thời hiện đại.

Lúc đầu, thật thú vị khi chứng kiến rất nhiều tôn giáo với ba cách thể hiện tôn thờ Thiên Chúa khác nhau, nhưng cũng thật khó chịu khi có cảm giác căng thẳng mạnh mẽ, thiếu tình yêu thương. Làm sao việc tôn kính Thiên Chúa không đem lại tình yêu? Đó là những giả định mà chúng ta có với tư cách là một tôn giáo tin chắc rằng Thiên Chúa là tình yêu – Deus caritas est.

Trong Thánh Lễ tôi cử hành ở Giêrusalem, các mảnh ghép lại với nhau. Tôi đã ở nơi đã từng là Golgotha, nơi hòn đá bị loại bỏ trở thành đá tảng góc tường, trước bức tranh khảm Chúa Giêsu bị đặt trên Thập Giá tại mặt đất khi Đức Mẹ nhìn thẳng lên Ngài với nỗi đau buồn. Đức Mẹ đại diện cho những nỗi buồn không phải là vết thương bởi vì Mẹ chấp nhận tất cả những gì xảy ra trên con đường của Mẹ vì vinh quang lớn hơn của Chúa. Mẹ không chống cự. Việc chống lại ý Chúa như vậy chỉ gây thương tích. Mẹ từ bỏ chính mình theo ý Chúa. Mẹ tự nguyện tuân theo ý Chúa Cha, cũng như Chúa Giêsu, Đấng sẵn sàng vác Thập Giá như hy tế cuối cùng để kết hợp Con Người với Thiên Chúa và Thiên Chúa với Con Người, với mỗi cá nhân. Ý nghĩa của Mầu Nhiệm Nhập Thể đã hoàn tất trước mắt tôi khi tôi hiểu được sự hoàn hảo của điều đó trong Hy Tế Thập Giá, Nhịp Cầu giữa mọi người và Thiên Chúa.

Khi tôi mạo hiểm đến Bức Tường phía Tây để thăm Đền Thờ, tôi có cảm giác mình đang bước vào lãnh thổ của một tôn giáo khác. Các giới hạn được đăng tải khi họ phải vào không gian dành riêng cho Nhà thờ Hồi giáo Omar. Chính ở đây ý nghĩa Sự Nhập Thể, Sự Chết và Sự Phục Sinh của Chúa chúng ta thực sự có ý nghĩa bởi vì trong khi người ta cảm nhận được sự chia cách, giới hạn, người ta cũng cảm nhận được sự thiếu hiệp nhất và tình yêu trong bối cảnh mà người nào nghĩ về Sự Nhập Thể cũng mong đợi từ một bối cảnh tôn giáo.

Sự Nhập Thể kết hợp Thiên Chúa với Con Người và Con Người với Thiên Chúa là việc tìm cách hợp nhất những người khác biệt, nhưng không mâu thuẫn. Theo định nghĩa, chúng ta biết rằng Ngôi Vị là một “thực thể cá nhân có lý trí” trong các tác phẩm của Boethius về Chúa Ba Ngôi. Một con người, dù là thần thánh, thiên thần hay con người đều là một cá nhân. Một người không phải là một người khác. Những giới hạn cá nhân như vậy được xác định rõ ràng theo định nghĩa về Ngôi Vị Thiên Chúa. Chúa Cha không là Chúa Con, Chúa Con không là Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần cũng vậy. Ai mặc khải điều này cho chúng ta ngoài Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người nhập thể? Ngài làm điều đó một cách kín đáo, như chúng ta đã chứng kiến ở Nadarét, một thành phố nhỏ, nơi người ta thực sự hiểu được tại sao Nathanael lại hỏi Chúa: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1:46) Nó không thể hiện bất cứ điều gì phi thường, nhưng bản chất của ân sủng cũng vậy, một thực thể định tính hoặc sự ngẫu nhiên làm thay đổi bản chất mà nó tiếp xúc. Ân sủng hoạt động như muối. Chúng ta hầu như không nhìn thấy nó nhưng nó làm thay đổi mùi vị của những gì chúng ta ăn.

Điều hấp dẫn nhất về trải nghiệm ở Thánh Địa là thời gian. Nó diễn ra sau Lễ Chúa Ba Ngôi và Lễ Mình Máu Thánh Chúa trước Lễ Thánh Tâm. Một mặt, tôi suy ngẫm về tính độc đáo của mỗi Ngôi Vị, của mỗi mối quan hệ. Mặt khác, tôi suy ngẫm về chiều sâu của tình yêu thiêng liêng được thể hiện qua Bí tích Thánh Thể và Thánh Tâm, thực sự là muối của đất đem lại hương vị cho kiến thức của chúng ta về cuộc sống. Bản chất của món quà cao quý nhất của Chúa Thánh Thần là sự khôn ngoan, loại “kiến thức ngon lành,” vì tình yêu thương trong đó.

Lễ Thánh Tâm xuất hiện trong lịch sử vào năm 1681, bảy năm trước Cách Mạng Vinh Quang đưa gia đình Stuart ra khỏi chế độ quân chủ Anh và khiến nước Anh chính thức theo đạo Tin Lành, và 108 năm trước Cách Mạng Pháp phá vỡ mối liên kết này với tổ quốc bằng cách giết chết người đứng đầu tổ quốc, vị vua Công giáo được xức dầu của Pháp. Chỉ có tình yêu rung động của Thiên Chúa, được thể hiện trong chiều sâu và chiều rộng siêu phàm của Thánh Tâm mà chúng ta đọc trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô, chương 3, mới có thể cứu được một thế giới hiện đại đang rất phân mảnh, cố tình làm ngơ cội nguồn là Chúa Cha và phương hướng của nó.

Tôi đã lấy phụ đề của bài phản ánh ngắn này của giáo sư Donald DeMarco. Tại một thời điểm, ông viết về sự phân mảnh trong một nền giáo dục quá chuyên biệt: “Chuyên môn hóa, đặc biệt là theo đuổi khoa học và kỹ thuật, có sự tương đồng đáng kinh ngạc với sự chuyên môn hóa ở động vật. Mỗi loài động vật đều tiến hóa theo các hướng phát triển chuyên môn hóa cao nhằm mục đích trở nên thích nghi phù hợp với các nhiệm vụ cụ thể giúp bảo đảm sự sinh tồn của nó… Tuy nhiên, giáo dục con người đặc biệt nhằm mục đích phát triển con người toàn diện bằng cách cung cấp cho con người kiến thức chung và tổng quát.” (Donald de Marco, The Incarnation in a Divided World, trang 56)

Khi gặp những con người bối rối trên đường phố, người ta không thể không tìm thấy sự nghỉ ngơi trong Chúa Kitô Cứu Thế, Đấng là Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và Con Người, giữa Con Người và Thiên Chúa, giữa Con Người và Con Người. Do đó, thần học đóng vai trò cơ bản trong việc đưa ra những phân biệt thích hợp nhằm đoàn kết mọi người bằng cách đem lại ý nghĩa cho Chân, Thiện, Mỹ. Đó là ngành khoa học cao nhất đã thống nhất các ngành học trong các trường đại học được thành lập vào thời Trung Cổ.

Nếu chúng ta không hiểu ý nghĩa sâu xa của Khải Huyền và việc nghiên cứu nó trong thần học, chúng ta không thể ngạc nhiên rằng chiến tranh vẫn tiếp diễn không ngừng. Nếu chúng ta không giảng dạy theo một hình thức phù hợp với sự hiệp thông giữa các bộ môn, tìm kiếm điểm chung, chúng ta không thể ngạc nhiên trước sự nhầm lẫn và hận thù ngày càng tăng mà chúng ta thấy trong khuôn viên trường đại học. Người ta chỉ cần nghĩ đến những gì Thánh Athanasiô đã viết trong tác phẩm “De Incarnatione” (Nhập Thể) của ngài. Đối mặt với lời buộc tội của ngoại giáo rằng vẫn còn sự ác sau khi Chúa Kitô đến, Thánh Athanasiô trả lời rằng nếu Chúa không đến thì chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Cái ác sẽ tiêu diệt chúng ta nếu không có Chúa Kitô.

Chúa thực sự là chiếc đệm yêu thương giúp chúng ta không bị tách biệt đến mức rơi vào hận thù như địa ngục. Chúa chúng ta và lời dạy của Ngài về sự tha thứ, về sự thật và công lý, về lòng cao thượng và nhân đức sâu sắc, rõ ràng là giải pháp cho các vấn đề của chúng ta hôm nay và mãi mãi.

LM. FRANCESCO GIORDANO, STD

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

Tác giả: