Ủy thác sứ mạng
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- JM. Lam Thy ĐVD.
ỦY THÁC SỨ MẠNG (BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH)
Lễ kính Thánh Phê-rô và Phao-lô là dịp cử hành mầu nhiệm Hội Thánh Chúa đặt nền móng trên “Tảng đá Phê-rô” và “Cột trụ Phao-lô”, để Giáo Hội bền vững và phát triển đến thiên thu vạn đại. Nhìn vào 2 vị Giám mục của Giáo Hội tiên khởi, thấy rất rõ “sứ mạng Chúa Ki-tô ủy thác cho các Tông đồ” (Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, điều 1536). Với Phê-rô thì Đức Giê-su trực tiếp truyền tới 3 lần sau khi Người hiện ra tại biển hồ Ti-bê-ri-a: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21, 1-23). Còn với Phao-lô thì trong biến cố Đa-mat (làm cho Sao-lô bị mù thể lý để chữa bệnh “mù nội tâm” – Cv 9, 1-19), Đức Ki-tô truyền cho Kha-na-ri-a đến “đặt tay trên mình để làm cho mình lại thấy được”, Kha-na-ri-a ngại ngùng vì Sao-lô là người lùng bắt và giết hại những người theo Giê-su, Người trấn an: “Cứ đi, vì người ấy (Sao-lô) là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Ít-ra-en.” (Cv 9, 15). Kế thừa trọng trách ấy, Giáo Hội thiết lập Bí tích Truyền Chức Thánh để tiếp tục ủy thác sứ vụ cao trọng đó cho những thế hệ nối tiếp đến thiên thu vạn đại.
Trước nay, phần đông Giáo dân Việt Nam thường chỉ hiểu Bí tích Truyền Chức Thánh là việc phong chức Linh mục cho các chủng sinh đã trải qua quá trình học tập rèn luỵên tại Đại Chủng viện. Còn chức Giám mục là do được tiến cấp, thăng cấp (kiểu như thăng cấp trong quân đội) chớ không phải là Bí tích Truyền Chức. Thực ra không phải vậy, vì Bí tích Truyền Chức Thánh có tới 3 cấp độ: Giám mục, Linh mục và Phó tế. Thử tìm hiểu xem Bí tích Truyền Chức là gì và tại sao lại gọi là Bí tích Truyền Chức Thánh?
I/- ĐỊNH NGHĨA BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH:
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (điều 1536-1537) cho biết: “Truyền Chức là bí tích qua đó sứ mạng Chúa Ki-tô ủy thác cho các Tông đồ (“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." – Mt 28, 19-20), được tiếp tục thực hiện trong Hội Thánh cho đến tận thế; vì thế được gọi là bí tích của thừa tác viên Tông đồ. Bí tích này gồm 3 cấp bậc: chức Giám mục, chức Linh mục và chức Phó tế… Việc gia nhập vào một tập thể của Hội Thánh xưa được cử hành bằng một nghi thức gọi là Ordinatio. Đây là một hồng ân Thánh Thần cho phép thi hành một “quyền thánh chức” do chính Chúa Ki-tô ban qua Hội Thánh. Việc Giám mục đặt tay và lời nguyện thánh hiến làm nên dấu chỉ hữu hình của sự thánh hiến. Theo nghĩa này, tiếng Việt gọi là Bí tich Truyền Chức Thánh.”
II/- CẤP BẬC TRONG BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH:
Trong Tông huấn “Ki-tô Hữu Giáo Dân” (số 14) có trích dẫn lời của Thánh Âu-tinh: “Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục duy nhất.” Linh Mục duy nhất đó là Đức Giê-su Ki-tô – vị Linh Mục Thượng Phẩm (Tư Tế Thượng Phẩm), Đấng là Đầu, là người chăn dắt các chiên linh mục (bao gồm tất cả Ki-tô hữu). Như vậy, nhờ Bí tích Thánh Tẩy, mọi tín hữu đều được tham dự vào chức Tư tế của Đức Ki-tô. Sự tham dự này được gọi là “chức tư tế cộng đồng”. Trên nền tảng chức tư tế cộng đồng và để phục vụ cộng đoàn tư tế này, còn có sự tham dự khác vào sứ mạng của Đức Ki-tô, đó là chức tư tế thừa tác được trao ban qua Bí tích Truyền Chức, với trách nhiệm phục vụ trong cộng đoàn nhân danh Đức Ki-tô và thi hành chức vụ thủ lãnh của Người. (Giáo lý HTCG, Đ. 1591). Ba cấp bậc trong Bí tích Truyền Chức bao gồm: Giám mục, Linh mục và Phó tế.
1- GIÁM MỤC: Giám mục lãnh nhận cách tròn đầy Bí tích Truyền Chức. Qua đó, các ngài gia nhập Giám mục đoàn và trở thành thủ lãnh hữu hình của Hội Thánh địa phương được giao phó cho các ngài. Với tư cách là người kế nhiệm các Tông đồ và là thành viên của Giám mục đoàn, các Giám mục chia sẻ trách nhiệm Tông đồ và sứ mạng của toàn thể Hội Thánh dưới quyền Đức Giáo Hoàng, đấng kế nhiệm Thánh Phê-rô. (Giáo lý HTCG, Đ. 1594). Qua cử chỉ đặt tay và qua các lời thánh hiến, ơn Chúa Thánh Thần được thông ban và ấn tín thánh được in trên các Giám mục, nên các ngài thi hành nhiệm vụ của chính Đức Ki-tô là Thầy, Mục Tử và Thượng Tế và hành động trong cương vị của Người. (Giáo lý HTCG, Đ. 1558).
2- LINH MỤC: Linh mục liên kết với Giám mục trong phẩm chức Tư tế và tùy thuộc các ngài trong công tác mục vụ. Các Linh mục được mời gọi để trở thành cộng sự viên khôn ngoan của các Giám mục, họp thành Linh mục đoàn quanh Giám mục, cùng chia sẻ trách nhiệm với ngài về Giáo Hội địa phương. Các Linh mục được Giám mục trao trách nhiệm chăm sóc một cộng đoàn Giáo xứ, hay chỉ định một công việc phục vụ Hội Thánh. (Giáo lý HTCG, Đ. 1595).
3- PHÓ TẾ: Phó tế là những thừa tác viên được phong chức để phục vụ Hội Thánh. Các phó tế không có chức tư tế thừa tác, nhưng qua việc phong chức, các ngài lãnh nhận nhiệm vụ quan trọng trong thừa tác vụ rao giảng Lời Chúa, là việc phụng tự, chăm sóc cộng đoàn và thực thi bác ái. Đó là những nhiệm vụ các ngài phải chu toàn dưới quyền mục vụ của Giám mục. (Giáo lý HTCG, Đ. 1596).
III/- MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC CẤP BẬC:
Theo Hiến chế “Tín Lý Về Giáo Hội – Lumen Gentium” (số 62-66) thì mối tương quan mật thiết giữa 3 cấp bậc đã thể hiện cụ thể sự hiệp nhất trong Đức Giê-su: Ðược Chúa Cha sai đến thế gian (Ga 10, 36), Chúa Ki-tô nhờ các Tông Ðồ, đã làm cho các Giám mục, những vị kế nghiệp các Tông đồ, có thể tham dự vào việc cung hiến và vào sứ mạng của Người. Các Giám mục lại giao nhiệm vụ thừa tác của mình một cách hợp pháp cho nhiều phần tử trong Giáo Hội theo từng cấp bậc. Như thế, thừa tác vụ do Thiên Chúa thiết lập trong Giáo Hội được thi hành bởi những người có chức vụ khác nhau mà từ xưa được gọi là Giám mục, Linh mục và Phó tế. Linh mục, dù không có quyền tư tế tối cao và tùy thuộc Giám mục khi thi hành quyền bính, cũng hiệp nhất với Giám mục trong tước vị Linh mục. Nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, Linh mục được cung hiến theo hình ảnh Chúa Ki-tô, Thầy Cả Thượng Phẩm vĩnh viễn (Dt 5, 1-10; 7, 24; 9, 11-28), để rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc thờ phượng Thiên Chúa với tư cách tư tế đích thực của Tân Ước. Theo cấp bậc thừa tác của mình tham dự vào nhiệm vụ Chúa Ki-tô, Ðấng trung gian duy nhất (1Tm 2, 5), các Linh mục loan báo Lời Thiên Chúa cho mọi người.
Ở bậc thấp hơn của hàng Giáo phẩm, có các Phó tế, những người đã được đặt tay "không phải để lãnh nhận chức vụ Linh mục, nhưng là để phục vụ". Thực vậy, được ân sủng bí tích bồi bổ, các Phó tế, hiệp thông với Giám Mục và Linh Mục Ðoàn, phục vụ Dân Thiên Chúa bằng việc phụng vụ, giảng dạy, và bác ái. Khi được những vị có thẩm quyền chỉ định, các Phó tế được cử hành trọng thể phép Thánh Tẩy, giữ và trao Mình Thánh Chúa, nhân danh Giáo Hội chứng kiến và chúc lành hôn phối, mang của ăn đàng cho kẻ hấp hối, đọc Thánh Kinh cho tín hữu, giáo huấn và khuyên nhủ dân chúng, chủ tọa việc phụng tự và kinh nguyện của tín hữu, cử hành các á bí tích, chủ tọa lễ nghi tang chế và an táng. Ðược phong chức để lo việc bác ái và việc quản trị, Phó tế phải nhớ lời nhắn nhủ của Thánh Polycarpo: "Hãy tỏ lòng nhân hậu, nhiệt thành, và hãy bước theo chân lý của Chúa, Ðấng đã làm tôi tớ mọi người". (Hc “Tín Lý về Giáo Hội”, số 74-75).
IV/- HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH:
Nhờ ân sủng đặc biệt của Chúa Thánh Thần, Bí tích Truyền Chức làm cho thụ nhân (người được lãnh nhận) nên giống Đức Ki-tô để trở thành khí cụ phục vụ Hội Thánh Người. Nhờ chức thánh, các ngài có thể thi hành chức vụ của Đức Ki-tô là Đầu Hội Thánh trong ba nhiệm vụ: Tư tế, ngôn sứ, vương giả. (Giáo lý HTCG, Đ. 1581). Như trường hợp Bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, việc tham dự vào chức vụ của Đức Ki-tô nhờ Bí tích Truyền Chức dù được lãnh nhận một lần ở mỗi cấp, Bí tích Truyền Chức cũng in một “ấn tín thiêng liêng vĩnh viễn”, nên không thể lãnh nhận nhiều lần hay lãnh nhận tạm thời. (Giáo lý HTCG, Đ. 1582). Đó chính là ơn riêng của Chúa Thánh Thần ban trong bí tích này, làm cho thụ nhân nên giống và nên thừa tác viên của Đức Ki-tô là Thượng Tế, Thầy Dậy và Mục Tử (Giáo lý HTCG, Đ. 1585). Tự bản chất, chức tư tế thừa tác khác hẳn với chức tư tế cộng đồng, vì ban cho thụ nhân quyền thánh chức để phục vụ các tín hữu. Các thừa tác viên có chức thánh phục vụ dân Chúa qua việc giảng dạy. cử hành phụng vụ và hướng dẫn mục vụ. (Giáo lý HTCG, Đ. 1592).
a- Nhiệm vụ giảng dạy (Ngôn sứ): Đức Giê-su Ki-tô, Đấng là Thầy dậy muôn đời, đã truyền cho các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền dạy cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20). Việc rao giảng Phúc Âm là một nhiệm vụ trổi vượt trong các nhiệm vụ chính yếu của các thừa tác viên, là những người rao truyền đức tin, đem nhiều môn đệ mới về với Chúa Ki-tô, giảng dạy cho những kẻ được trao phó cho các ngài, một đức tin phải được xác tín và phải được áp dụng vào các phong tục, và làm sáng tỏ đức tin đó bởi ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
b- Nhiệm vụ cử hành phụng vụ (Tư tế): “Tư tế” có nghĩa là: Dâng hiến tất cả đời tư, kể cả mạng sống mình (Tư: riêng tư; Tế: dâng hiến). Chính vị Tư Tế Thượng Phẩm Giê-su Ki-tô “Dù là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.” (Dt 5, 8-10). Men-ki-xê-đê là tiền thân của chức Linh mục đời đời của Đức Giê-su, Người đã truyền chức Linh mục của Người cho các môn đệ qua Bí tích Truyền Chức Thánh (“Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” – Lc 22, 19); đồng thời Người còn cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha: “Con xin thánh hiến chính mình Con cho họ, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến” (Ga 17, 19). Đức Giê-su vâng lời Chúa Cha, tự dâng hiến chính mình làm của lễ toàn thiêu trong hy tế Thập Giá, để cứu những kẻ Thiên Chúa đã trao cho Người. Sự dâng hiến này chính là công việc “tư tế” vậy (“Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được." – Ga 10, 18)
c - Nhiệm vụ hướng dẫn mục vụ (Vương đế – lãnh đạo): Chính Đức Vua Vũ Trụ Giê-su Ki-tô, Đấng là Thầy Tư Tế Thượng Phẩm, đã xác định trách nhiệm của Người: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi… Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10, 11-16). Là đại diện và sứ giả của Chúa Ki-tô, các thừa tác viên (Giám mục, Linh mục với sự cộng tác của Phó tế) điều khiển Giáo Hội địa phương mà Chúa đã ủy thác cho, nhờ lời khuyên bảo, khuyến khích, gương lành, và còn bằng uy thế cùng quyền bính thánh thiện nữa. Thực vậy, các ngài chỉ dùng quyền bính để xây dựng đoàn chiên trong chân lý và thánh thiện, và luôn tâm niệm rằng: “kẻ cao trọng hãy nên như kẻ rốt hết, người làm chủ hãy nên như tôi tớ” (Lc 22, 26-27). Quyền bính các ngài đích thân thi hành nhân danh Chúa Ki-tô, là quyền bính riêng biệt, thông thường và trực tiếp; nhưng việc thi hành cuối cùng còn lệ thuộc vào quyền tối cao của Giáo Hội, và có thể bị giới hạn phần nào vì lợi ích của Giáo Hội hay của các tín hữu. Riêng với các Giám mục thì với quyền bính ấy, các ngài có quyền thiêng liêng và trước mặt Chúa, các ngài có nhiệm vụ đặt ra các luật lệ cho những người thuộc quyền, xét xử và qui định tất cả những gì liên hệ tới việc thờ phượng và việc tông đồ.
V- VIỆC CỬ HÀNH BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH:
1- Nghi thức chính yếu: Bí tích Truyền Chức Thánh được trao ban qua việc Giám mục đặt tay trên ứng viên. Sau đó là lời nguyện phong chức trọng thể cầu xin Thiên Chúa ban cho tiến chức những ân sủng cần thiết cho thừa tác vụ. Việc Giám mục đặt tay trên thụ nhân trong Bí tích Truyền chức in một ấn tín vĩnh viễn (Giáo lý HTCG, Đ. 1597). “Bàn tay” hay “Ấn tín” chính là biểu tượng của Chúa Thánh Thần (Giáo lý HTCG, Đ. 698-699); vì thế, cùng với lời nguyện hiến tế khi cử hành Bí tích Truyền chức Thánh, Giám mục đặt tay trên ứng viên là để nhắc lại Lời truyền dạy của Đức Giê-su Ki-tô: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 23).
2- Ai được ban Bí Tích Truyền Chức Thánh? Chỉ các Giám mục mới được quyền ban Bí tích Truyền Chức Thánh ở 3 cấp độ: Giám mục, Linh mục và Phó tế. (Giáo lý HTCG, điều 1600). Riêng cấp Giám mục thì do Đức Giáo Hoàng (ngài cũng là Giám mục – Giám mục Rô-ma – đứng đầu hàng Giám mục) trao ban. Giám mục chỉ được truyền chức cho Giám mục khi có ủy nhiệm thư của Đức Giáo Hoàng. Trong lễ phong chức, Giám mục chủ phong phải có ít là hai Giám mục trợ phong; hơn nữa, cùng với các vị ấy, tất cả các Giám mục hiện diện cũng nên cùng tấn phong người được tuyển chọn. (Giáo luật Công Giáo, điều 1013-1014).
3- Ai được lãnh nhận Bí tích Truyền Chức Thánh? * Hội Thánh chỉ truyền chức thánh cho những người nam đã được rửa tội sau khi kiểm tra chắc chắn họ có khả năng thi hành chức vụ được giao. Chỉ Giáo quyền có trách nhiệm và có quyền chọn một người lãnh nhận chức thánh. (Giáo lý HTCG, điều 1598).
* Dựa theo sự phán đoán khôn ngoan của Giám mục riêng hoặc của Bề trên cao cấp có thẩm quyền và sau mọi cân nhắc kỹ lưỡng; chỉ nên cho tiến chức những người có đức tin tinh tuyền, chí hướng ngay thẳng, kiến thức đầy đủ, danh thơm tiếng tốt, tác phong đoan chính, nhân đức đã được thử luyện và những đức tính khác về thể lý và tâm lý tương ứng với chức thánh sẽ lãnh nhận. (Giáo luật CG, điều 1029).
* Ứng viên lên chức Linh mục chỉ có thể chịu chức Phó tế sau khi đã học hết năm năm triết lý và thần học. Sau khi mãn chương trình học, trước khi chịu chức Linh mục, Phó tế phải thi hành chức thánh bằng cách tham gia làm việc mục vụ trong một thời gian tương xứng tùy theo Giám mục hay Bề Trên cao cấp có thẩm quyền xác định. Ứng viên lên chức Phó tế vĩnh viễn chỉ lãnh nhận thánh chức này sau khi đã mãn thời gian huấn luyện. (Giáo luật CG, điều 1032).
* Giáo Hội chỉ Truyền chức Linh mục cho các ứng viên tự nguỵên sống độc thân và công khai biểu lộ ý muốn này vì yêu mến Nước Trời và phục vụ tha nhân. (Giáo luật CG, điều 1599)
KẾT LUẬN:
Tóm lại, Giám mục và Linh mục đều có chức thánh, nhưng chức thánh của Giám mục tròn đầy hơn (trọn vẹn Nhiệm tích Truyền Chức Thánh), vì Giám mục mới là vị thừa kế các Tông Đồ. Còn Linh mục là cộng sự viên khôn ngoan của các Giám mục, cùng chia sẻ trách nhiệm với Giám mục về Giáo Hội địa phương. Đến các Phó tế thì không có chức tư tế thừa tác; nhưng qua việc phong chức, các ngài lãnh nhận nhiệm vụ quan trọng trong thừa tác vụ rao giảng Lời Chúa, lo việc phụng tự, chăm sóc cộng đoàn và thực thi bác ái. Phó tế được coi như một trợ lý, một cộng tác viên đắc lực của Giám mục và Linh mục. Đó chính là tính cách nhất quán biểu lộ sự hiệp thông trong sứ vụ truyền giáo mà Đức Vua Tình Yêu Giê-su Ki-tô đã ban truyền cho Giáo Hội (“Như thế sự hiệp thông hướng về truyền giáo và chính sự hiệp thông là truyền giáo” (TH/KTHGD, số 18).
LIÊN HỆ THỰC TIỄN (THỰC HÀNH):
Trong lần hiện ra tại biển hồ Ti-bê-ri-a, sau khi ăn uống xong, Đức Giê-su hỏi Thánh Phê-rô 3 lần với cùng một câu hỏi: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?” Và khi nghe Thánh Phê-rô trả lời, thì Đức Ki-tô cũng căn dặn tới 3 lần: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21, 15-19). Điều này cho thấy thừa tác viên Giám mục Phê-rô được trao trách vụ linh thánh quan trọng và nặng nề biết là nhường nào! Từ đó suy ra Bí tích Truyền Chức Thánh không phải chỉ đơn thuần là một sự bầu chọn, chỉ định, ủy nhiệm hay cắt đặt do cộng đoàn, bởi vì hành vi phụng vụ này ban cho người ta một hồng ân của Chúa Thánh Thần, cho phép thi hành một “quyền thánh chức” do chính Chúa Ki-tô ban qua Hội Thánh (GL/HTCG Đ. 1537-1538). Hiểu được như vậy, người Giáo dân trong tư cách là tư tế cộng đồng phải biết kính trọng, yêu mến và vâng lời các tư tế thừa tác là “những người lãnh đạo anh em, vì họ chăm sóc linh hồn anh em” (Dt 13, 17). Hãy cộng tác với các ngài trong công việc truyền giáo, giúp đỡ tinh thần và vật chất theo khả năng, cổ võ khuyến khích ơn gọi Tu trì (ơn Thiên Triệu). Và nhất là luôn luôn cầu nguyện cho các ngài được bền đỗ trong ơn gọi, sống trọn hảo vai trò và trách vụ mà Linh Mục Thượng Phẩm Giê-su Ki-tô đã trao cho các ngài.
Ôi! Lạy Chúa! Đức Vua Tình Yêu Giê-su Ki-tô, Đấng là Linh Mục Thượng Phẩm, là Đầu của Hội Thánh, vì đã yêu thương nhân loại nên đã trao cho con người được thừa kế chức Linh mục đời đời và duy nhất của Người. Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí tăng thêm sự khôn ngoan hiểu biết và thánh thiện cho những ứng viên thừa tác vụ trong Bí tích Truyền Chức Thánh, để các ngài luôn xứng đáng với Thiên Chức cao cả này, hầu dẫn dắt đoàn chiên của Chúa ngày một tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng, như lòng Chúa hằng mong đợi. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.
JM. Lam Thy ĐVD.