Nhảy đến nội dung

Vấn vương đôi chút thế sự thăng trầm

VẤN VƯƠNG ĐÔI CHÚT THẾ SỰ THĂNG TRẦM…

Cách mạng Pháp diễn ra, nhân danh chân lý và tự do, Vương tộc Nhà Bourbon bị buộc chuyển đến Cung điện Tuileries, Hoàng hậu Marie Antoinette từ đây bị cuốn vào những sự kiện chính trị lớn, đặc biệt là Cuộc đào tẩu tới Varennes đã làm giảm trầm trọng uy tín của Vương tộc và cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp, dẫn đến việc Vương tộc Bourbon bị dân chúng tấn công vào cung điện Tuileries ngày 10 tháng 8, năm 1792. Điều này khiến vương tộc bị chuyển đi và giam cầm trong Nhà lao Temple. Ngày 21 tháng 11 năm 1792, Louis XVI bị phế truất, tiêu diệt, từ đây chế độ quân chủ của nước Pháp bị hủy bỏ. Số phận nữ hoàng Marie Antoinette cũng bị xét xử vì tội “phản cách mạng”, rồi bị đưa lên máy chém ngày 16 tháng 10 năm 1793. Dưới bầu trời Paris tang thương, bê bết máu thắm của hàng vương tộc và giáo sĩ, tu sĩ cũng như Kitô hữu, bà Nữ Công tước Áo quốc Maria Antoinette đã thảng thốt kêu lên trời cao: “Ôi nhân danh tự do, người ta đã phạm bao nhiêu tội ác” (15-10-1793).

Cuộc cách mạng Pháp 1789 đã đem lại cho dân tộc Pháp một chế độ cộng hòa dân chủ, tiếng là mang lại sự tự do, đưa đến một thể chế dân chủ hơn nhưng chính cuộc cách mạng cũng đã loại khỏi cuộc sống xã hội Pháp những giá trị tâm linh, nhất là đánh thẳng vào tử huyệt Kitô giáo – niềm hy vọng sự sống nơi Thiên Chúa. Cách mạng Pháp (1789–1799), là một sự kiện quan trọng lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế và thủ tiêu sức ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma tại Pháp. Tinh thần cách mạng đó là làm giảm xu hướng chuyên chế và đề cao sức mạnh của nhân dân, biến họ từ “thần dân” thành “công dân”.

Dưới sức ảnh hưởng của tinh thần Thời kỳ Khai minh hay Thời kỳ Khai sáng (tiếng Anh: Age of Enlightenment; tiếng Pháp: Siècle des Lumières), còn gọi là Thế kỷ Ánh sáng, là giai đoạn thế kỷ 18 của triết học phương Tây, hay thời kỳ dài hơn gồm cả Thời đại Lý tính (Age of Reason) - phong trào ủng hộ lý tính với vai trò nền tảng căn bản của quyền lực, nhấn mạnh vào lý tính, khoa học hay sự hợp lý.  Phong trào Ánh Sáng và chủ trương tôn giáo lý trí kiểu Pháp, ngày 12-7-1790, quốc hội phổ biến bản “Hiến Định Dân Sự về Giáo sĩ”, ý đồ tổ chức lại Giáo hội Công giáo Pháp theo đó chức giám mục và cha sở sẽ do “hội đồng dân cử” gồm cả người ngoại bầu lên; sau đó mới thông tin cho Đức Giáo Hoàng tại Rôma. Ngày 28-11, năm 1790 quốc hội buộc các giáo sĩ trong vòng tám ngày phải thề hứa tuân theo bản Dân Hiến.

Đó là một giai đoạn đau khổ, trở ngại, và khó khăn cho toàn thể Hội Thánh tại Pháp nói riêng và bầu khí sống đạo Châu Âu nói riêng. Đây là một thời gian thách đố miên trường và tôi luyện niềm hy vọng Kitô giáo, niềm hy vọng để sống còn của niềm tin vào Thiên Chúa Nhân Từ.

Khi quần chúng kích động, thiếu suy nghĩ, bị ảo tưởng bởi một “thiên đường lý trí” tại thế họ bắt đầu quay sang lên án “thiên đường” mà Hội Thánh công bố từ Tin Mừng niềm hy vọng của Đức Kitô Giêsu. Kỳ thực, qua dòng thời gian, “thiên đường lý tính” ấy lại hiện nguyên hình là một chủ trương hư vô hay tư tưởng đoạn diệt, một học thuyết  phủ định hiện hữu của Thiên Chúa và niềm hy vọng sự sống vĩnh cửu. Khi lý tính tập thể mang màu sắc hiếu chiến, vũ trang lập luận rằng cuộc sống này không có mục tiêu nào có ý nghĩa, mục đích, hoặc giá trị nội tại, đạo đức vốn đã không tồn tại, và rằng bất kỳ giá trị đạo đức nào cũng được thiết lập một cách trừu tượng giả tạo, thực tế là nó không thực sự tồn tại. Khoa học và lý trí sẽ quyết định vận mệnh lịch sử thay cho vai trò của Thiên Chúa và nền luân lý của Tin Mừng.

Khi hồi tưởng về những dằn vặt lương tâm Kitô giáo trước thách đố niềm hy vọng trong xã hội cách mạng Pháp mấy thế kỷ trước, lại thấy thôi thúc trở về với nền tảng xã hội của Kitô giáo. Thời ấy – đại cách mạng Pháp - Kitô giáo vốn đã tồn tại như một tổng thể xã hội, có sức chi phối mạnh mẽ trên đời sống tinh thần của dân Pháp. Và, bị đe dọa bởi một ý niệm sai lầm về tiến bộ đã mang đến sự đe dọa trực tiếp đè nặng trên lương tâm Kitô giáo. Thần lý trí cũng như biến thể của các thần linh Hy Lạp và La Mã cổ đại mà quân cách mạng dựng lên trong các giáo đường trên toàn nước Pháp không thể đem lại hy vọng cho con người. Nhưng Thiên Chúa của người Kitô thì hoàn toàn khác hẳn. Trong Thiên Chúa, niềm hy vọng của con người hít thở liên tục và sâu thẳm, sâu thẳm hơn là quan niệm của chính chúng ta về bản chất nhân loại của mình.

Nơi sâu thẳm ấy lại vang lên tiếng gào thét kinh thiên động địa, làm lay chuyển chuẩn mực lý tính cách mạng: chúng ta có thể hy vọng điều gì? Và chúng ta không được hy vọng điều gì? Không phải là khoa học và lý trí sẽ giải thoát con người: con người được giải thoát bởi tình yêu, bởi niềm hy vọng. Điều này đúng ngay cả đối với thế giới ngày nay. Khi một người nắm bắt được hơi thở hy vọng thẳm sâu từ trong tâm hồn, xiển dương cao đẹp trong đời, đó là giây phút người ấy được “giải thoát”, là giây phút đem đến một ý nghĩa mới cho cuộc đời.

Con người cần đến một niềm hy vọng và một giải pháp căn bản của lương tri hơn là tiếng súng, sự sụp đổ, máu loang đằng sau mỗi cuộc cách mạng vũ trang tham vọng làm thay đổi cấu trúc xã hội. Con người cần đến một sự chắc chắn khiến anh ta nói được: “cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực sâu hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, sẽ không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (x. Rm 8, 38-39).

Nếu niềm hy vọng này tồn tại giữa đời sống xã hội và được tiếp nhận với sự chân thành, với sự chắc chắn tuyệt đối của nó, thì lúc đó – và chỉ khi đó – con người được “cứu rỗi”, dù cho chuyện gì sẽ xảy đến với người ấy trong những điều kiện cụ thể của anh ta.

Những cuộc cách mạng xuyên suốt lịch sử từ các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa và công nghệ, thì cuối cùng chúng vẫn chỉ áp đặt ý thức kẻ mạnh lên đại bộ phận xã hội. Không có một sự tự do thật sự và tuyệt đối theo sau những thành quả mang tính “cách mạng” kiểu trần thế. Đi qua những cuộc “cách mạng xanh, đỏ, vàng, tím…” con người và xã hội dần dần không còn “tìm thấy những hình thức chung sống với nhau, biết tôn trọng những điểm riêng biệt của mỗi người trong thế giới này đến mức không còn khả năng tìm lại chính mình. Niềm hy vọng vào một thực tại tuyệt đối công bằng, tuyệt đối trong sạch, tuyệt đối tự do đã mất dần sau những hành vi tham lạm của kẻ chiến thắng đã hủy hoại niềm tin xã hội, phủ lên đời sống những nỗi hoang mang, lưỡng lự, không có khả năng tìm ra một con đường ra thực sự để thoát khỏi đường hầm của khủng hoảng. Khủng hoảng nối tiếp khủng hoảng, cách mạng nối tiếp cách mạng là bánh xe luân hồi vô tận siết chặt vận mệnh nhân loại vào khói súng và mùi của tiền tệ.

Hội Thánh gióng lên tiếng chuông vang từ đồng ruộng đến thị thành: Thế giới cần phải có một niềm hy vọng sống động . Bản chất nhân loại là khao khát sự vô biên. Giải pháp của mỗi người Kitô hữu chính là niềm hy vọng. Điều đó hoàn toàn không phải là một kết quả của ý thức con người, là thành quả suy tư của bất kỳ ai, hay là hệ quả của phong trào nào cả mà là một hành động viên mãn, toàn diện và nhưng không chứa đựng trong lời mời gọi hướng tới sự sống tuyệt đối, qua hành vi khát vọng tham dự vào chính sự sống tuyệt đối.

Bản tin thời sự tường trình trên báo chí ngày 14.10.2010, sau 40 ngày bị kẹt dưới hầm mỏ sâu gần 700 mét ở San Jose, 33 người thợ mỏ Chilê đã được giải cứu. Một trong số những người thợ đó là Ariel Ticona 29 tuổi. Anh này là một người Công giáo – chi tiết mà báo chí không nói tới. Đúng một tháng trước, ngày 14/9, khi các anh còn ở dưới hầm mỏ, thì con gái anh đã chào đời.  Anh đã lo lắng không còn cơ hội gặp được con và càng lo âu hơn khi biết chiếc máy khoan Schramm T-130 bị trục trặc, không còn vận hành được sau khi đã khoan xuống hơn 200 mét độ sâu. Người bố Công giáo trẻ này đã bó tay nhưng không bó tâm. Anh vững lòng trông cậy vào Thiên Chúa, trong một tình huống hầu như tuyệt vọng. Trong hầm tối, một tia hy vọng đã vực dậy ý chí của anh và cứu anh khỏi nỗi sợ hãi.

Vì thế, sau khi thoát nạn, anh Ariel quyết định đổi tên con gái thành Esperanza, thay vì Carolina mà gia đình đã chọn Esperanza trong tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa Hy Vọng. Đó không chỉ là một cái tên mà là một chứng từ sống động của hy vọng.

Lý tính, kỹ nghệ và cả chủ thuyết hư vô hô hào lối sống vội vã, phóng túng không thể trao tặng cho nhân loại ý nghĩa cuộc sống mà chỉ quẳng nhân loại vào trong tâm trạng u sầu, đánh mất sự hy vọng sai khi đã tha hóa họ bằng vật chất, danh lợi, và sự trác táng. Chúng giam họ vào trong cái tôi của mình. Đang khi đó, niềm hy vọng mời gọi tất cả hãy mở toang những ngôi mộ bị niêm phong trong tâm hồn để Thiên Chúa hằng sống có thể đi vào và chúc phúc cho đời sống chúng ta. Những cuộc cánh mạng xuyên suốt dòng lịch sử đã ném những tảng đá oán hận cùng những sỏi đá tầm thương của bản năng thống trị. Tất cả những khối đá nặng nề đó đã chắn lối hy vọng trên đường đi tới tương lai sự sống. Một Thiên Chúa của nguồn sống tuyệt đối muốn đến và dẫn dắt chúng ta trong tay Người để chúng ta thoát khỏi ách thống khổ, ban cho chúng ta lòng cậy trông, cản phá mọi trở ngại đưa chúng ta đến cùng đích của cuộc sống vinh quang.

Lịch sử xã hội sẽ tiếp tục chứng kiến những khó khăn trong cuộc sống, khó khăn  và khủng hoảng vẫn sẽ luôn hiện hữu. Nhưng hãy thắp lên ánh sáng của niềm hy vọng sáng soi khó khăn cuộc đời của chúng ta, và trong phạm vi nhất định, hãy “thánh hóa” chúng. Chúng ta đừng để cho bóng tối và những sợ hãi làm chao đảo và kiểm soát chúng ta; chúng ta hãy kêu to lên trước những thách thức cuộc sống.

Khi tự sự riêng mình với kỷ niệm cũ xưa thời cách mạng Pháp, người viết không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cùng, xã hội loài ngừoi là một bức tranh bóc lột triền miên. Chỉ mong họa bức tranh niềm hy vọng cách chân thật trong cảm nhận tế vi và trong chiều sâu tinh thần nội tâm. Bức tranh thấm đẫm sự chạnh lòng chân thành của tác giả đối với bế tắc nội tâm, những khúc quanh của đời sống luân thường. Qua bức tranh hy vọng Kitô giáo và qua hình ảnh suy tư từ cuộc cách mạng Pháp năm nào để chia sẻ chút ánh sáng hy vọng trong hành trình nhân thế đoạn trường, để thấy được mơ ước muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó bằng làn gió mới của niềm hy vọng, của Thần Khí và của một nội tâm đã thanh luyện qua muôn vàn thử thách sơn trường…

***

Viết tại Nhà Thờ Thới Sơn

Ngày 21-10-2016

L.M  Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thượng

Gp. Mỹ Tho