Nhảy đến nội dung

Vui mừng và hy vọng

 VUI MỪNG VÀ HY VỌNG (1)

[CN.I/MV-B]

Năm Phụng vụ là chu kỳ thời gian biểu trưng sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại, từ khởi nguyên đến tận cùng. Với nhãn quan thần học nhìn vào lịch sử cứu độ, Phụng vụ không chỉ tưởng niệm các biến cố đã xảy ra, nhưng còn hiện tại hóa, làm cho các biến cố ấy đi vào đời sống đương đại một cách mầu nhiệm, đồng thời còn hướng vọng tới tương lai trông chờ ngày thẩm định chung cuộc. Nói cách cụ thể, năm Phụng vụ diễn tả lịch sử cứu độ, và tuyệt đỉnh của lịch sử này là mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giê-su Ki-tô. Khởi đầu năm Phụng vụ là mùa Vọng (mùa trông đợi Chúa đến lần thứ nhất), kết thúc là lễ Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ (ngày Chúa quang lâm lần thứ hai – ngày chung thẩm). Như vậy có thể hiểu Mùa Vọng cũng là thời gian tĩnh tâm và sám hối  trong suốt cuộc đời, để người Ki-tô hữu thể hiện niềm tin và hy vọng (“Tôi tuyên xưng có một Phép Rửa, tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.” – Kinh Tin Kính) vào ngày chung thẩm sẽ được hưởng “sự sống muôn đời” (Mt 25, 46).

Ở Việt Nam trước đây (khoảng 70 – 80 năm) vẫn gọi mùa Vọng là mùa Át. Đó là tiếng gọi tắt của từ La-tinh “Adventus”. Theo ngôn ngữ cổ, “Adventus” có một nghĩa chuyên môn, chỉ sự “đến” (viếng thăm một vùng dân cư) của vua chúa thời phong kiến, về mặt tôn giáo thì “Adventus” biểu thị ý nghĩa một thần minh “đến” với cộng đồng tín hữu. Giáo Hội quy định 4 Chúa nhật mở đầu năm Phụng vụ nhắm tới sự tỉnh thức đón chờ Chúa “đến”: Chúa nhật thứ nhất đề cao thái độ tỉnh thức và sẵn sàng đón chờ Chúa quang lâm. Các Chúa nhật còn lại thì trưng dẫn những mẫu gương của những người đón chờ Chúa Cứu Thế. Chúa nhật thứ hai và thứ ba giới thiệu thánh Gio-an Tẩy Giả, người dọn đường cho Chúa đến không những chỉ bằng lời giảng sám hối và thực hiện phép rửa, mà còn bằng chính cuộc đời khổ hạnh và trung trực của mình (bị Hê-rô-đê giết – xc Mc 6, 17-29). Chúa nhật thứ tư được dành cho Đức Maria. Mẹ Maria giữ một vai trò rất lớn lao, rất quan trọng trong lịch sử cứu rỗi, đến nỗi, nếu giả thiết không có Đức Mẹ, chắc chắn nhân loại đã khác.

Do đó, Mẹ Maria được Phụng vụ giới thiệu là nguồn ơn thiêng vô tận của Thiên Chúa. Mẹ là mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa. Mẹ chính là “Đức Mẹ Mùa Vọng” của Hội Thánh Chúa (Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm trong tập sách “Giải Nghĩa Lời Chúa” đã viết: “Cuộc đời của chúng ta sẽ nên như cuộc sống của Người và khuôn mặt của Giáo Hội sẽ đang vẽ lại dung nhan Ðức Mẹ Mùa Vọng.”). Như vậy cả 4 Chúa Nhật đều nêu bật tinh thần trông chờ hy vọng Chúa Cứu Thế đến trong thế gian. Vì thế Giáo Hội Việt Nam dịch tiếng Adventus là Vọng, 4 Chúa nhật trông đợi Chúa đến là mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa trông chờ, hy vọng Đức Vua Giê-su Ki-tô “đến” lần thứ nhất (giáng trần cứu thế) và Người lại “đến” lần thứ hai trong vinh quang ở ngày chung thẩm (tận thế). Sách Giáo lý HTCG (số 524) chỉ rõ: “Hằng năm khi cử hành phụng vụ Mùa Vọng, Hội Thánh hiện tại hóa niềm mong đợi Đấng Mê-si-a: khi hiệp thông với việc chuẩn bị lâu dài cho Đấng Cứu Thế đến lần thứ nhất, các tín hữu làm bừng sáng niềm khát khao mong mỏi Người đến lần thứ hai (x. Kh 22,17).”

Lúc con người đặt trọn vẹn niềm tin của mình vào Thiên Chúa, thì lời hứa (Giao Ước) của Thiên Chúa chính là sự trao ban hy vọng cho con người. Dân Chúa thời Cựu Ước đã tin tưởng mãnh liệt vào lời hứa “chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en.” (Is 7, 14). Mùa Vọng chính là dấu chỉ thời điểm Cựu Ước trông chờ và hy vọng vào Lời Hứa của Thiên Chúa, và Lời Hứa ấy đã được thực hiện cách đầy hơn 2000 năm tại hang đá Bê-lem. Bước sang thời Tân Ước thì các tín hữu được nhắc nhở “chúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10, 22-23). 

Với “một đức tin trọn vẹn... tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng vào Đấng đã hứa là Đấng trung tín”, đó phải chăng là “Đức Tin và Hy Vọng” như Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI đã dạy: “SPE SALVI facti sumus ” – chúng ta được cứu rỗi nhờ hy vọng, Thánh Phao-lô đã nói như thế với dân chúng thành Rô-ma, cũng như với chúng ta (Rm 8, 24). Theo niềm tin Ki-tô, “ơn cứu chuộc” – hay ơn cứu độ – không chỉ đơn giản là một điều được trao ban. Ơn cứu chuộc được ban cho chúng ta theo nghĩa là chúng ta đã được trao cho hy vọng – một niềm hy vọng đáng tin cậy, qua đó chúng ta có thể đối diện với thực tại của chúng ta: thực tại mà cho dù là cam go đi nữa cũng có thể sống được và chấp nhận được nếu nó dẫn đến một mục đích, nếu chúng ta có thể được bảo đảm về mục đích này, và nếu mục đích này cao cả đến mức biện minh được cho nỗ lực của cuộc hành trình.” (Thông điệp “Spe Salvi – Được Cứu Rỗi nhờ Hy Vọng”, số 1)

Điều đó cho thấy giữa đức tin và hy vọng luôn có một tương quan mật thiết, đến độ có thể nói “Đức Tin là Hy Vọng” (“chúng ta cần lắng nghe gần hơn một chút với chứng tá của Thánh Kinh về hy vọng. “Hy vọng”, thực ra, là một từ chủ yếu trong Thánh Kinh – đến mức trong nhiều đoạn những từ “đức tin” và “hy vọng” dường như có thể hoán chuyển cho nhau. Vì thế Thư Do Thái liên kết chặt chẽ “sự viên mãn của đức tin” (Dt 10, 22) với “sự tuyên xưng cách quả quyết niềm hy vọng của chúng ta” (Dt 10, 23). Cũng thế, trong thư Thứ Nhất khi Thánh Phêrô khích lệ các Kitô hữu hãy luôn luôn sẵn sàng đưa ra câu trả lời liên quan đến logos – ý nghĩa và lý do – cho niềm hy vọng của họ (1Pr 3, 15), từ “hy vọng” là tương đương với “đức tin”. – Tđ “Spe Salvi”, số 2).

Rõ ràng, con người khi đã “ngộ” ra được niềm tin của mình đặt đúng nơi chốn, đúng đối tượng, sẽ có nguồn hy vọng được thắp sáng bởi chính niềm tin ấy. Hy vọng đã có, nhưng chủ thể mang niềm hy vọng ấy cần phải biết trau giồi, củng cố cho hy vọng ngày một bền chặt, vững mạnh hơn. Bẳng cách nào? Chính là bằng cách kiên trì đưa niềm tin ấy vào trong suy tư và hành  động (“Đức tin không thể hiện ra hành động là một đức tin chết” – Gc 2,17 ), để đưa niềm tin ấy từ khách thể trở thành máu thịt của chủ thể, ở chỗ biến niềm tin thành một trong những nhân đức nhân bản của con người, với Ki-tô hữu thì đó là nhân đức đối thần: Đức Tin.

Nói thì có vẻ đơn giản, nhưng đụng vào thực tế muôn hình ngàn trạng, muôn chiều muôn hướng của cuộc sống con người hiện nay, thật không dễ chút nào. Đức tin bị nghiêng ngả, hụt hẫng, chao đảo cũng là vì thế. So sánh thế kỷ XXI với thế kỷ I cũng chẳng khác bao nhiêu, có khác chăng là ở chỗ sự hời hợt trong đức tin và niềm hoài nghi trong hy vọng còn trầm trọng hơn. Rõ ràng, muốn “ngộ” được hy vọng, chắc chắn phải cậy trông vào ơn soi sáng, dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, phải biết cầu nguyện, bởi vì “Bối cảnh thiết yếu đầu tiên cho việc học hỏi hy vọng là cầu nguyện. Khi không còn ai lắng nghe tôi nữa, Chúa vẫn nghe tôi. Khi tôi không còn có thể tâm sự hay kêu cầu được với ai, tôi luôn luôn có thể thưa với Chúa. Khi không còn ai giúp tôi biết xử sự thế nào trước nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, Chúa có thể giúp tôi. Dù tôi bị đắm chìm ngập lụt trong cô liêu hoàn toàn...; nếu tôi cầu nguyện thì tôi không bao giờ hoàn toàn đơn côi.”  (Tđ “Spe Salvi”, số 32).

Một tấm gương sáng chói trong bài học “cầu nguyện” là Đức cố Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận “một người tù trong 13 năm, trong đó có 9 năm bị biệt giam, đã để lại cho chúng ta cuốn sách nhỏ quí giá: “Những Lời Cầu Nguyện của Niềm Hy Vọng”. Trong vòng 13 năm tù đầy, trong một tình trạng hầu như là tuyệt vọng, sự kiện là ngài có thể lắng nghe và thân thưa với Chúa đã trở nên một quyền năng hy vọng gia tăng cho ngài, khiến ngài, sau khi ra khỏi tù, đã trở nên một chứng nhân hy vọng cho dân chúng trên toàn thế giới – chứng nhân của một niềm hy vọng lớn lao không tàn lụi ngay cả trong những đêm đen của cô liêu” (Tđ “Spe Salvi”, số 32). Sở dĩ Đức Hồng y FX Nguyễn Văn Thuận viết cuốn sách “Những Lời Cầu Nguyện của Niềm Hy Vọng” (như lời khen tặng của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI trong Tđ nêu trên), chính là vì ngài đã chọn cho mình khẩu hiệu “Gaudium et Spes – Vui Mừng và Hy Vọng” (2).

Chỉ nội một việc Đức Hồng Y chấp nhận ở tù cũng đủ cho biết ngài kiên trì với Đức Tin Ki-tô Giáo như thế nào. Và đó chính là việc làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ của Đức Giê-su Ki-tô. Tin Mừng Cứu Độ dành cho toàn thể nhân loại, thì không lý gì người sẵn sàng chiu đau khổ để làm chứng cho chân lý ấy, lại chỉ nghĩ về mình. Vâng, “Niềm hy vọng của chúng ta luôn luôn thiết yếu là niềm hy vọng của người khác: chỉ như thế nó mới thật sự là niềm hy vọng của cả tôi nữa.  Là Ki-tô hữu chúng ta không bao giờ được tự giới hạn mình để chỉ biết hỏi: làm sao để tôi được cứu rỗi ? Chúng ta cũng phải hỏi : tôi phải làm gì để cho người khác có thể được cứu chuộc, và để cho đối với họ ngôi sao hy vọng có thể tỏa sáng trên trời ? Như thế tôi cũng đã làm hết sức mình cho việc cứu rỗi của chính tôi” (Thông điệp “Spe Salvi”, số 48).

Đức Hồng y Phan-xi-cô Xa-vi-ê lấy khẩu hiệu “Vui mừng và Hy Vọng” từ chủ đề Hiến Chế về Mục Vụ “Gaudium et Spes” của Công Đồng Va-ti-ca-nô II, khi ngài nhận chức Giám mục năm 1967. Ngài chọn phương châm này, không những vì trong trái tim ngài luôn có niềm vui và hy vọng trong mọi chuyện xảy đến với ngài, nhưng cũng vì ngài muốn nói rằng, ngài thấy giáo huấn của Công Đồng Va-ti-ca-nô II chứng tỏ Giáo Hội đang mở cửa ra để đến với thế giới loài người với tinh thần “Vui mừng và Hy vọng”. Vì thế, khi chính thức chấp nhận việc mở hồ sơ phong chân phước cho Đức Hồng y Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐTC Bê-nê-đic-tô XVI đã nói: “Đức Hồng y Thuận là một con người của Hy Vọng, Ngài sống bằng Hy Vọng, Ngài phổ biến Hy Vọng cho tất cả những ai Ngài gặp. Chính nhờ năng lực thiêng liêng này mà Ngài đã chống lại được tất cả những khó khăn thể lý và luân lý.“

Con người ta sống ở đời không thể không có hy vọng, dù cho đó là một con người không có niềm tin tôn giáo, thì niềm hy vọng của họ vẫn là cái tương lai của cuộc đời họ mà họ luôn mong ước, hy vọng được tươi sáng và hạnh phúc. Kinh nghiệm cho thấy trong cuộc đời này, mọi chuyện, mọi sự rồi cũng sẽ qua đi, sẽ mai một… và điều còn lại duy nhất cần phải có đó là niềm hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu ở đời sau. Chính niềm hy vọng này là động lực giúp người Ki-tô hữu sống một cuộc sống luôn hướng về một ngày mai tươi sáng trong niềm tín thác vào Đấng Cứu Thế. Nói cách cụ thể “Chúng ta có thể nghĩ một cách hợp lý rằng số phận mai sau của nhân loại nằm trong tay những người có khả năng trao cho hậu thế những lý do để sống và để hy vọng.” (Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng “Gaudium et Spes”, số 31). Để thắp sáng niềm hy vọng vào tương lai, nền Giáo dục Ki-tô giáo là phải luôn luôn và mãi mãi hỗ trợ, thúc đẩy cho đức tin trưởng thành nơi mỗi Ki-tô hữu, không phân biệt tuổi tác, giới tính, thành phần, giai cấp. Giáo dục Ki-tô giáo phải làm sao cho – ở nơi mỗi Ki-tô hữu – ĐỨC TIN là niềm HY VỌNG viên mãn và bất diệt

Tóm lại, có tin thì mới hy vọng, bởi chính "Đức Tin là Hy Vọng". Vậy thì người Ki-tô hữu còn đợi gì mà không thể hiện niềm “Hy Vọng” vào “Đức Tin” của mình qua hành động dọn đường cho Chúa đi, bằng cách bạt phẳng gò đống chia rẽ, phát quang chông gai hận thù, san bằng gập ghềnh ghen tị, và với một kiệu hoa rực rỡ hào quang Bác Ái trong Chân Lý đón Chúa vào lòng. Và như thế, thì tại sao chúng ta lại không duy trì 4 tuần Mùa Vọng bằng cả cuộc lữ hành trần thế này, để làm hành trang trông đợi ngày Chúa quang lâm lần thứ hai? Vâng, xin hãy bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay từ hôm nay ngẩng cao đầu “tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng” (Dt 10, 23), để mạnh dạn bước vào MÙA VỌNG – MÙA TRÔNG ĐỢI CHÚA ĐẾN – MÙA TRÔNG ĐỢI CUỘC SỐNG VĨNH CỬU mai sau. Ước được như vậy.

Ôi! Lạy Chúa! “Từ trần gian con ngước trông lên Chúa ơi, cầu xin hãy mưa Ðấng Thiên sai Chúa ơi, nghe lời van thiết tha. Ngày và đêm con vẫn van xin Chúa thương, Người ban ơn cứu rỗi yêu đương bốn phương cho đoàn con ngóng chờ. TK. 2- Xin mưa xuống trần gian Ðấng Cứu Tinh, phá mọi nghịch mưu xấu xa tội lỗi. Xin ban xuống đời con Chúa chí linh, nối lại tình thương thế gian Nước trời.” (TCCĐ “Nguyện Mùa Vọng”).

JM. Lam Thy ĐVD.

Chú thích: (1) và (2) - Đó là hình ảnh tấm huy hiệu của Đức Hồng y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận.

Huy hiệu hàm chứa thật nhiều ý nghĩa sâu sắc:

Huy hiệu có nền màu xanh với ngôi sao trắng và ba ngọn núi màu nâu đất. Nổi bật trên màu xanh tượng trưng biển đời là ngôi sao trắng. Ngôi sao trên biển (Sao Biển) chính là một trong những ý nghĩa cao vời của danh thánh Đức Trinh Nữ Maria (Maris Stella). Đó là Ngôi Sao dẫn đường cho những con thuyền tín hữu vươt biển đời giông tố tiến về Quê Trời vĩnh cửu. Dùng hình ảnh ba ngọn núi có lẽ Đức Hồng y muốn ngụ ý về ba ngọn núi thần kỳ trong Kinh Thánh: * NÚI XI-NAI – “Núi Giao-Ước” (Ngôn sứ Mô-sê ký Giao Ước với Đức Chúa – Xh 24, 1-18); * NÚI TA-BO – “Núi Vinh Quang” (hiển dương mầu nhiệm Cứu Độ – Lc 9, 28-36); * NÚI GÔN-GÔ-THA – “Núi Tình Yêu” (hiện thực hóa Giao Ước Mới – Lc 23, 33-56; 24, 1-7). Ba ngọn núi còn là biểu trưng cho ba miền Việt Nam: Bắc, Trung, Nam. Núi và biển cả cũng còn tượng trưng cho Nha-Trang, là Giáo phận mà Đức Hồng y làm Giám mục chính tòa.

Bao xung quanh nền xanh là 10 đoạn trúc mà 2 đoạn trên cùng kết thành cây Thánh Giá. Đó chính là Cựu Ước (Giao Ước trên núi Si-nai “Thiên Chúa ban Mười Điều Răn cho Mô-sê” – xc Xh 20, 1-17; 34, 28 và Đnl 4, 13; 5, 6-22). Cây Thánh Giá lại biểu trưng cho Tân Ước (Giao Ước Tình Yêu do chính Đức Giê-su Thiên Chúa thực hiện). Người Á châu (trong đó có Việt Nam) vốn bị ảnh hưởng của tư tưởng Khổng Mạnh (Khổng Tử + Mạnh Tử) nên lấy “trúc” làm biểu tượng cho người quân tử với đức tính “công minh chính trực” (ngay thẳng + công tâm + trung tín + bao dung). Dưới chân Thánh giá  treo một bức hoành phi (như kiểu hoành phi câu đối ngày xưa). Giữa hoành phi là khẩu hiệu “Gaudium et Spes” (Vui mừng và Hy vọng); 2 đầu hoành phi (ở 2 bên phải, trái) cuộn tròn, ôm lấy hai ngọn đuốc sáng (ánh sáng Chân Lý – biểu tượng Chúa Thánh Thần).

Xin mở ngoặc nói thêm về “hoành phi – câu đối” : Ngày xưa, vì Việt Nam ảnh hưởng Hán học của Trung Quốc nên các cụ đồ nho rất thích treo hoành phi câu đối tại lớp học hay tại nhà ở (từ đường), dân gian thì hay nhờ các cụ đồ cho chữ để chưng ở đền, chùa. “Hoành phi” là những tấm biển gỗ có hình thức trình bày theo chiều ngang treo trên cao. Thường ở trên đó khắc từ 03 đến 04 chữ đại tự. Đình chúa hay từ đường và nói chung là những ngôi nhà to hay nhỏ thường tính bằng số lượng “gian” nhiều hay ít (“gian” : khoảng cách giữa hai bộ kèo nhà. Vd: Trong bài Thu Ẩm, Nguyễn Khuyến viết: “Năm gian nhà cỏ thấp le te”). Số lượng gian nhà thường tính theo số lẻ. Vd: nhà 1 gian, 3 gian, 5 gian… Nếu ít gian quá, thường làm thêm 2 chái ở hai bên (1 gian 2 chái, 3 gian 2 chái…).

Vì gian nhà tính theo số lẻ nên các cụ treo hoành phi câu đối ở gian giữa: Bức hoành phi treo trên cùng, sát mái nhà, viết chữ lớn (đại tự), 2 câu đối treo vào 2 cái cột ở 2 bên viết chữ nhỏ hơn. Vd: bức hoành phi dẫn chứng dưới đây viết 4 chữ “THIÊN CHÚA QUANG LÂM 天  主  ” (Chúa đến trong vinh quang); 2 câu đối treo hai bên, câu bên trái là: “THƯỢNG GIỚI VINH DANH THIÊN CHÚA GIẢ  上 界 榮 名 天 主 者 ” (Vinh danh Thiên Chúa trên trời); còn câu bên phải là “HỒNG TRẦN AN LẠC THIỆN TÂM NHÂN  紅 塵 安 樂 善 心 人 ” (Bình an dưới thế cho người thiện tâm).

 

Tác giả: