Xin Chúa mở con mắt đức tin - Đừng nô lệ cho tội
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Huệ Minh
21.3 Thứ Năm trong tuần thứ Năm Mùa Chay
St 17:3-9; Tv 105:4-5,6-7,8-9; Ga 8:51-59
XIN CHÚA MỞ CON MẮT ĐỨC TIN
Chúa Giêsu cố gắng làm cho người Do Thái hiểu về Ngài. Trong bài trích Phúc Âm này, Ngài nói hơi xa xôi: Khi người Do Thái hỏi “Chẳng lẽ ông lại lớn hơn Cha chúng tôi là Abraham sao ?”, Ngài đáp “Khi Abraham chưa sinh thì đã có Ta rồi. Ý Ngài muốn họ hiểu Ngài là Thiên Chúa. Nhưng chẳng những họ không hiểu mà họ còn định lấy đá ném Ngài.
Hôm nay vẫn tiếp tục cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người Do thái về thân thế của Ngài. Đức Giêsu khẳng định: “Ai giữ lời Ta thì không bao giờ phải chết”. Với những lời giáo huấn của Đức Giêsu, người Do thái không chấp nhận, và họ đã lượm đá ném Ngài.
Điều cốt lõi trong cuộc đời Kitô hữu là kiếm tìm và thực thi Lời Chúa dạy. Hôm nay, chúng ta đã nghe và đón nhận Lời Chúa với thái độ như thế nào? Chúa vẫn đang hướng dẫn chúng ta qua những người có trách nhiệm, những người mà ta được gặp gỡ trong cuộc sống. Chúng ta có khiêm tốn đón nhận hay cũng có thái độ như người Do thái xưa?
Càng đi sâu vào Mùa Chay, cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và những người luật sĩ cũng như người biệt phái ngày càng gây cấn hơn. Nếu như Đức Giêsu càng ngày càng tỏ rõ danh tính của mình là Con Thiên Chúa thì những người Do thái càng ngày lại càng căm thù và muốn giết Ngài. Nhưng người Do thái với cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm hẹp hòi của cá nhân như thế, làm sao họ có thể biết được thân thế của Chúa: “Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỷ ám” (Ga 8,52),
Nhiều người thời nay cũng không thể chấp nhận sự thật về Đức Giêsu. Họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó có cả những thành kiến do những người có đạo tạo nên.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu lại tuyên bố một câu làm cho người ta hiểu sai: “Ai tuân giữ lời Ta, thì sẽ không bao giờ phải chết”. Người Do thái không hiểu nổi mạc khải này, bởi vì theo họ, Abraham và các tiên tri cũng đã chết, mặc dù vẫn tuân giữ Lời Chúa. Do đó, họ lên tiếng phản đối, cho Ngài là bị quỷ ám, và họ lượm đá ném Ngài.
Một người dám sống chứng nhân cho Tin Mừng là người dám đứng về phía sự thật. Có những sự thật chúng ta vì tiếng lương tâm phải nói ra, dẫu cho sự thật ấy có nguy cơ làm cho chúng ta bị trù dập. Như Chúa Giêsu, đã đến giờ Người nói rõ mọi sự về Người, dẫu sự thật này sẽ là nguyên nhân đưa Người đến thập giá chăng nữa.
Từ lâu, Chúa Giêsu bị coi là cái gai trong mắt của những nhà lãnh đạo Do Thái, như là Pharisêu, Tiến sĩ luật, phái Sađốc. Họ muốn loại bỏ Chúa Giêsu, vì lý do Người từng lên án thói đạo đức giả của họ; thêm nữa, họ nhận thấy những lời Chúa Giêsu chứa đầy nghịch lý: chưa được năm mươi tuổi mà xưng mình “có trước Ábraham”; còn bảo ai tuân giữ Lời Chúa thì được sống, thế mà “Ápraham và các tiên tri đã chết”; lại cả gan xưng mình là “Đấng Hằng Hữu”, danh xưng chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, họ bàn cách loại trừ bằng việc ném đá, xô xuống vực hay đóng đinh như một tử tội.
Con người cần nhờ Chúa Giêsu Kitô để đến được với Chúa Cha mà hưởng sự sống vĩnh cửu. Cho nên, những nguy hiểm không làm Chúa Giêsu chùn bước vì sứ mạng Chúa đến để cứu chuộc con người, để mặc khải sự thật. Chính vào lúc Chúa Giêsu bị đối xử như một tử tội, bị cho là ở trong hoàn cảnh bi đát, yếu đuối, bất lực và đầy sự chế nhạo nhất, là lúc Người được Chúa Cha tôn vinh. Người được tôn vinh không phải trên ngai vàng mà là trên thánh giá. Thánh giá mới là nguồn phát sinh ơn sự sống.
Thật ra khi tuyên bố điều đó, Chúa có ý nói về sự sống siêu nhiên, chứ không có ý nói về sự sống thể xác. Vì thế, khi nghe Chúa nói: “Ai tuân giữ lời Ta, thì sẽ không bao giờ phải chết” thì phải hiểu rằng Chúa có ý nói: Ai đặt niềm tin vào Ngài, đón nhận và thực thi giáo huấn của Ngài, thì được thông hiệp vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã trải qua cái chết của thân xác, các môn đệ cũng thế. Nhưng sự thật, các môn đệ của Đức Giêsu và cả chúng ta nữa được dự phần vào sự sống của Thiên Chúa nếu chúng ta tin vào Ngài.
Đã có nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cố tình từ chối chân lý, sống ngụp lặn trong tội, bỏ ngoài tai tiếng nói lương tâm, lề luật Chúa cùng giáo huấn của Hội Thánh. Mùa Chay thánh sắp qua đi, nên đây là lúc chúng ta cần mau mắn chạy đến với Chúa và xin Ngài mở con mắt đức tin, nhờ đó chúng ta nhận ra thân phận yếu đuối của mình; đồng thời, cũng can đảm từ bỏ nếp sống tội lỗi, canh tân đời sống cho phù hợp với ánh sáng Tin Mừng của Chúa.
**************
20.3 Thứ Tư trong tuần thứ Năm Mùa Chay
Đn 3:14-20,91-92,95; Đn 3:52,53,54,55,56; Ga 8:31-42
ĐỪNG NÔ LỆ CHO TỘI
Đối với người Do thái, tự do là quyền bẩm sinh của họ. Họ cho tự do một giá trị rất cao, đến nỗi luật quy định rằng, dù nghèo hèn đến đâu, người Do thái không thể bị hạ thấp xuống hàng nô lệ: “Nếu người anh em của ngươi lâm cảnh túng thiếu bên cạnh ngươi và phải bán mình cho ngươi, thì ngươi không được bắt nó làm công việc của người nô lệ” (Lv 25: 39).
Vì thế, khi Chúa Giêsu nói “sự thật sẽ giải phóng các ngươi”, thì họ nổi điên lên vì cho rằng Chúa Giêsu nói họ đang sống trong sự nô lệ và cần phải được giải phóng. Tuy nhiên, ở đây Chúa Giêsu không nói đến sự nô lệ về thể xác, mà về phương diện tinh thần: “Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội” (Ga 8: 34).
“Nô lệ cho tội” là một mối tương quan giữa tôi tớ và chủ nhân. Trong mối tương quan này, người tôi tớ phải vâng lời chủ, vì họ thuộc về chủ. Tôi tớ không được làm theo ý riêng của mình. Họ bị ràng buộc với chủ nhân. Cũng vậy, khi chúng ta trở nên nô lệ cho tội lỗi, thì tội lỗi trở thành chủ nhân của chúng ta, còn chúng ta là tôi tớ, chúng ta không thể chống lại tội lỗi.
Tuy nhiên, tội lỗi lại ẩn nấp dưới nhiều hình thức khác nhau, nó có thể là: thú vui, sở thích… Đây là những điều chưa phải tội lỗi, nhưng nó là khởi đầu cho mọi tội lỗi. Ai cũng có thú vui hoặc sở thích trong cuộc sống, nhưng quan trọng là, chúng ta điều khiển thú vui và sở thích hay để chúng điều khiển chúng ta? Điều đó sẽ là khởi đầu cho tội lỗi.
Chúa Giêsu nói cho người Do Thái biết điều gì trói buộc họ khiến họ làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát khiến họ được tự do. Điều trói buộc họ thành nô lệ là tội, nhất là tội tự mãn mình là con cháu Abraham nhưng không làm theo gương Abraham là mở rộng cõi lòng để tin vào Thiên Chúa và Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến. Điều giải thoát cho họ được tự do là nghe lời Chúa Giêsu để biết Sự Thật, “Sự thật sẽ giải thoát con người”.
Đức Giêsu đã nói: Ai ở lại trong Ta thì biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng cho kẻ đó được tự do. Sự tự do mà Đức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Khi phạm tội, chúng ta bị trói buộc vào con đường của ma quỉ, của những đam mê dục vọng. Chúng ta chỉ có thể sống hạnh phúc và tự do khi sống đúng địa vị làm con Thiên Chúa. Sự tự do ấy chỉ có được trong Đức Giêsu, khi chúng ta liên kết cuộc đời chúng ta với Ngài.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu nói cho người Do thái biết điều gì đã trói buộc họ khiến họ phải làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát họ để họ được tự do. Điều giải thoát họ khỏi nô lệ và được tự do: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”.
Giải phóng cho chúng ta tự do... Sự tự do mà Đức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Sự tự do ấy chỉ có lại được trong Đức Giêsu, khi ta gắn bó lại, liên kết lại cuộc đời chúng ta với Ngài. Chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi sống địa vị làm con Thiên Chúa – con cái tự do.
Khi nguyên tổ Adong-Evà phạm tội lỗi nghịch cùng Chúa, ma quỉ đã đem tội lỗi vào trần gian. Và khi tội lỗi xâm nhập trần gian, con người đắm chìm trong tội, nô lệ cho mọi khuynh hướng xấu, bị giam hãm trong tội nguyên tổ, sự xuống cấp của một luân lý suy đồi “tội trần gian” và làm tôi cho ma quỉ. Tự sức mình con người không thể tự giải thoát mình, nên cần đến ơn Cứu độ. Đức Giêsu đã phải trả giá đắt để chuộc con người và đem con người trở nên con cái tự do. Đức Giêsu cũng khẳng định: “Kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi” (Ga 8,35).
Muốn được sống tự do, muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, thì điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về mình. Nhà văn văn Shakespeare nói: “Người dại thường nghĩ rằng mình khôn, còn người khôn lại tự biết mình dại”. Như vậy, chúng ta cần phải khôn ngoan. Có nhiều người bỏ xưng tội rước lễ cả mấy chục năm, nhưng khi đề nghị với họ nên xét mình xưng tội, thì họ trả lời: “Con chẳng có tội gì!”
Nhìn lại cuộc sống của mình, nhiều khi bị quở trách vì những điều này điều kia, chúng ta thường lý sự rằng: “Đó là sở thích của tôi, tôi làm theo sở thích của tôi chứ có ảnh hưởng gì đến anh đâu; tôi có tiền mà, tôi thích thì tôi mua; tôi có quyền, tôi thích thì tôi làm; anh có quyền và có tiền thì anh cũng làm như vậy đi…”. Dĩ nhiên, chúng ta có thể làm điều chúng ta thích. Nhưng sự thật là người phạm tội chẳng làm điều mình thích, mà làm điều tội lỗi thích. Nhưng mấy ai nhận ra vấn đề này trong “cơn lốc đam mê” của mình! Nhiều khi chúng ta để cho thói quen và sở thích bám chặt lấy mình đến độ không thể nào thoát ra được. Thời gian dần dần trôi qua với những thú vui và sở thích đó, đến một lúc chúng ta có thể lâm vào tình thế “vừa ghét” và “vừa yêu” sở thích và thú vui của mình. Chẳng hạn, cả ngày ngồi lướt Facebook coi hết video này đến video khác; chúng ta biết nó chiếm nhiều thời gian của chúng ta, nhưng chúng ta vẫn cứ cầm điện thoại lên bấm liên tục và lướt không rời tay! Vậy, trong những sở thích và thú vui đó, cái gì là chủ nhân? và ai là nô lệ? Chúng ta có tự do không hay chúng ta đang bị tội lỗi (thú vui, sở thích) điều khiển?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra một lời cảnh tỉnh cho đời sống của chúng ta. Lời cảnh tỉnh này mời gọi chúng ta nhìn lại đời sống của mình trước các hình bóng của tội lỗi được ẩn nấp dưới nhiều hình thức khác nhau. Qua đó, chúng ta lấy lại quyền làm chủ trước các thú vui và sở thích đang chiếm hữu cuộc sống của mình.
Chúng ta là những người mang danh hiệu Kitô hữu, là những người tự nhận mình là con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên, danh xưng ấy không làm nên thực chất, cái áo không làm nên ông thầy tu, chỉ có danh hiệu bên ngoài và thậm chí ngay cả những việc đạo đức bên ngoài mà thôi, thì vẫn chưa làm nên một đời sống đức tin đích thực. Đức tin chân chính được thể hiện qua những việc làm công chính. Người ta thường nói “xem quả biết cây”, chúng ta đã suy nghĩ, nói năng, hành động như thế nào trong cuộc sống hằng ngày, nhất là trong Mùa Chay thánh này?